Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Một số vấn đề logic học trong tác phẩm Organon của Aristotle

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ THU HƯƠNG


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LOGIC HỌC TRONG
TÁC PHẨM ORGANON CỦA ARISTOTLE


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN GIA THƠ



HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TIỀN ĐỀ CỦA LOGIC HỌC ARISTOLE 9
1.1. Những tư tưởng logic học trước Aristotle 10


1.2. Aristotle và tác phẩm Organon 21
1.3 Học thuyết của Aristotle về phạm trù và khái niệm 26
CHƯƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG LOGIC HỌC CƠ BẢN TRONG TÁC
PHẨM “ORGANON” CỦA ARISTOLE………………………………….37
2.1. Học thuyết của Aristotle về quy luật logic 37
2.2. Họ
c thuyết của Aristotle về phán đoán 47
2.3. Học thuyết của Aristotle về tam đoạn luận 61
KẾT LUẬN… …………………………………… … 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO….…………………… … 78


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào thời mình, Ph. Ănghen đã từng nói “Một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”, nhưng tư duy lý luận
ấy “cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một
cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [20, tr.489], vì “triết
học là sự tổng kết lịch sử tư duy” (Hêghen).
Thờ
i đại ngày nay, với những thành tựu to lớn mà khoa học đạt được đã làm
thay đổi căn bản, sâu sắc toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá trên toàn cầu và
ở mỗi quốc gia, đã mang lại cho nhân loại nhiều quan niệm mới về không gian, thời
gian, vật chất và sự sống. Khi mà khoa học - kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và những thành tựu củ
a nó đã in dấu ấn trên mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội, thì nó cũng đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại sức mạnh sáng
tạo của tư duy. Hơn lúc nào hết, việc giáo dục trang bị cho con người năng lực tư
duy sáng tạo là yếu tố có tính quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển tư duy luôn gắn liền v

ới sự phát triển nhận thức
về nó, tức với khoa học nghiên cứu nó - logic học. Do đó, để có được năng lực tư
duy sáng tạo, hay phong cách tư duy khoa học thì cùng với việc trang bị kiến thức
chuyên môn chuyên sâu, người ta cần được trang bị những kiến thức nhất định về
logic học. Bởi những tri thức logic chính là bộ công cụ nhận thức hữu hiệu của con
người trong mọi ho
ạt động.
Logic học là khoa học nghiên cứu về các hình thức và các quy luật của tư duy
đúng đắn dẫn đến chân lý. Nói riêng, logic học hình thức có vai trò rất lớn trong
việc “cải thiện” khả năng tư duy. Nó giúp con người tư duy một cách có hệ thống,
nhất quán, chính xác, rõ ràng và phi mâu thuẫn logic, hình thành ở con người thói
quen tư duy chặt chẽ, sử dụng chính xác các thuật ngữ. Việc tiếp thu kiến thức logic
học còn giúp chúng ta khám phá ra chân lý một cách nhanh nhất, ngắn nh
ất thông

1
qua vic s dng thnh tho cỏc tri thc ú. Logic hc hỡnh thc khụng ch cn thit
cho hot ng hc tp m cũn rt cn thit trong cuc sng sinh hot hng ngy ca
mi ngi.
Cú l, trong bt k giỏo trỡnh no v lụgic hc dnh cho sinh viờn, c bit
mụn logic hỡnh thc, thỡ cụng vic u tiờn l núi rng Aristotle l cha , l
ngi khai sinh ra logic hc hỡnh thc. Khái quát lại các phơng pháp nhận thức
trong khoa học và triết học thừ kỷ VI-V trớc công nguyên (TCN), hệ thống hoá và
mô tả chúng, Aristotle đã xây dựng học thuyết về các hình thức của t duy lĩnh hội
chân lý, tức là logic học. Trong sự phát triển lịch sử tiếp theo, học thuyết logic của
Aristotle đã trở thành cội nguồn của nhiều tr
ờng phái và khuynh hớng; các nhà
triết học và khoa học các thời đại khác nhau đều cố làm nó thích nghi với những
nhiệm vụ và lợi ích của mình, sử dụng nó vào các mục đích nghiên cứu khác nhau .
Tuy nhiờn, bn thõn Aristotle khụng õu v cha khi no s dng thut ng logic

hc cỏi ngha m sau ny nú c gỏn cho (logic hỡnh thc nh chỳng ta vn
hiu). Trong quan im ca ụng núi chung khụng cú ch cho nhng hỡnh thc t
duy c bit no ú, m cú th ó l mt cỏi gỡ y khỏc, mt mt - vi nhng hỡnh
thc ca cỏi hin tn, cũn mt khỏc - vi cỏc hỡnh thc th hin ngụn t
ca cỏi
hin tn y. E.V. Ilencop ó nhn xột rng: Trong hỡnh thc c thn bớ hoỏ,
Aristotle thc hin khụng gỡ khỏc, ngoi s nghiờn cu cỏc quy lut phỏt trin ca
ton b nn vn hoỏ tinh thn cú trc ụng ca ngi Hy Lp, nghiờn cu nhng
xung t v mõu thun ca nú [15, tr. 31]. Chớnh t quan im ny s tr nờn d
hiu vi nhn xột ca I.V.Lờnin v giỏ tr hin thc ca logic hc Aristotle: Logic
hc Aristotle l nhu c
u, l s c gng tỡm tũi, l cỏch tip cn n logic hc
Hờghen [19, tr. 391].
Th m sau ny, t logic hc Aristotle ngi ta ó lm thnh mt trit hc kinh
vin cht chóc bng cách vt b tt c cái gì l dao ng, l cách t vn [15, tr.
37]. Kt qu l, khụng ch cỏch kin gii v logic hc m thm chớ c tờn gi ca nú
na cng b
xõm phm. Do vy, để nghiên cứu logic học Aristotle chúng ta phải đặt
trong mối liên hệ chặt chẽ của nó với các quan niệm triết học chung của ông.

2
Lôgíc học của Aristotle gắn liền chặt chẽ với học thuyết của ông về bản chất và
các phơng thức nhận thức nó. Vì thế là rất đáng ngờ những ý đồ của các nhà
nghiên cứu muốn khẳng định, cần phải khảo sát logic học Aristotle trong xu hớng
nó càng ngày càng thoát khỏi các tiền đề triết học của nó. Cũng không nên lẫn lộn
học thuyết thực sự của Aristotle về t duy với cái gọi là logic hình thức truyền
thống. Logic hình thức truyền thống - cha hẳn là học thuyết Aristotle hay học
thuyết duy nhất nào đó khác, mà là sự thống nhất các yếu tố riêng rẽ đợc lấy từ các
hệ thống logic của các thời đại lịch sử và các trào lu khác nhau. Tham gia vào sự
xuất hiện của nó có vai trò đáng kể của logic học Aristotle, quan điểm logic của các

nhà chú giải Aristotle, các nhà khắc kỷ, các nhà Platôn mới, các nhà kinh viện,
v.v tất cả họ đều là đồng tác giả của logic hình thức truyền thống. Sự hoàn tất cuối
cùng nó có đợc ở logic học Port-Royal nổi tiếng của A.Ario và P.Nikol thuộc
trờng phái Đềcáctơ.
Khi bắt tay vào nghiên cứu học thuyết logic của Aristotle, rất quan trọng phải
giữ đợc tinh thần lịch sử và không áp đặt các sơ đồ tầm thờng dù đã quen thuộc
bấy lâu nay đợc chúng ta lấy từ các sách giáo khoa vào tài liệu đợc khảo sát.
Do vy, vic quay tr li lch s tỡm hiu v nghiờn cu logic hc Aristotle
ỏnh giỏ ỳng giỏ tr hin thc ca nú l vic cn lm. Bi mi bc lựi sõu vo l
ch
s l mt bc tin dn n trng thỏi ng i ca khỏch th.
Bờn cnh ú thc t cho thy, tỡnh hỡnh nghiờn cu lch s logic hc khụng
c quan tõm mt cỏch cn thit, c bit nhng vn logic hc Hy Lp c i
núi chung v logic hc Aristotle núi riờng li cng ớt c quan tõm nghiờn cu.
Trong khi nhu cu hc tp v ging dy mụn logic hc ang ngy cng tng, do ú
vi
c chn ti Mt s vn logic hc trong tỏc phm Organon ca
Aristotle lm ti lun vn l cú ý ngha cp bỏch.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu
Trong lch s trit hc Hy Lp c i, Aristotle l mt trong s nhng trit gia
ln nht v trong sut nhiu th k Aristotle l ngi thy ca tt c cỏc nh trit

3
học. Có thể nói rằng ông đã để lại cho hậu thế một di sản triết học đồ sộ, đó là nền
tảng ban đầu để sau này nhân loại đã xây dựng trên đó lâu đài triết học, chẳng thế
mà C. Mac đã phải nói rằng: “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do
Hêraclit và Aristotle đã mở đầu mà thôi” [trích theo 4, tr. 3].
Do vậy các nghiên cứu về triết học Aristotle không phả
i là ít, đặc biệt tất cả
các giáo trình triết học, các sách lịch sử triết học đều nhắc tới Aristotle . Tuy nhiên,

những công trình nghiên cứu hay những cuốn sách chuyên khảo về Aristotle lại
không có nhiều. Điểm qua các tài liệu nghiên cứu liên quan đến Aristotle có thể kể
đến ba nguồn tài liệu sau:
Thứ nhất, về tài liệu tiếng Việt có thể chia làm 2 nhóm: Nhóm thứ nhất, đó là
những cuốn sách chỉ viết chung về lịch sử
triết học, triết học Hy Lạp La Mã cổ đại.
Trong những cuốn sách đó, các tác giả đã đề cập đến diện mạo của triết học thời kỳ
cổ đại với những tên tuổi đã làm nên hình ảnh của thời kỳ này như: Xôcrat, Platon,
Aristotle. Ví dụ như: “Lịch sử triết học Tây Phương” của Lê Tôn Nghiêm; “Lịch sử
triết học” do Nguyễn H
ữu Vui chủ biên (Hà Nội, năm 2004), “Lịch sử Phép biện
chứng Tập I” do Đỗ Minh Hợp dịch (Nxb Chính Trị Quốc Gia năm 1998), Đại
cương lịch sử triết học Phương Tây của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn
Anh Tuấn (Nxb. Tp HCM năm 2006), “Lịch sử triết học và các luận đề” của
Samuel Enoch Stump (Nxb Lao động 2007) hay trong một số cuốn sách giáo khoa
khác về lịch sử triết học. Những tài li
ệu này có đề cập đến triết học Aristotle và
logic học Aristotle nhưng chủ yếu ở mức độ giới thiệu sơ lược chứ chưa có sự phân
tích đầy đủ, cặn kẽ. Tuy vậy, nó có giá trị tham khảo để hiểu bối cảnh chính trị - xã
hội, tiền đề để cho ra đời triết học Aristotle nói chung và logic học Aristotle nói
riêng.
Nhóm thứ hai, đó là những tài liệu nghiên cứu chuyên khảo về Aristotle tuy
không có nhiề
u nhưng cũng có thể kể đến như: “Triết học Aristotle” của Nguyễn
Anh Nghĩa xuất bản năm 1944; “Triết học Aristotle” của Đặng Phùng Quân xuất
bản năm 1974, “Triết học Aristotle” của Vũ Văn Viên (Nxb KHXH năm 1998)
“Nhập môn Aristotle” của Rupert Woodfin và Judy Groves do Tinh Vệ dịch (Nxb

4
Trẻ năm 2006)v.v…Những tài liệu kể trên chủ yếu trình bày về toàn bộ nội dung

triết học của Aristotle trong đó có logic học Aristotle như một bộ phận không thể
thiếu. Dưới góc độ đó, logic học Aristotle cũng đã được đề cập đến một cách khá
đầy đủ nhưng chưa có sự phân tích cụ thể, chi tiết. Ví dụ như, trong cuốn “Triết học
Aristotle” của Vũ Vă
n Viên trong mục VII “Logic học của Aristotle. Phân loại khoa
học. Các phạm trù” tác giả đã chỉ ra vai trò của Aristotle đối với logic học và trình
bày một số nội dung của logic học Aristotle như vấn đề về các quy luật tư duy, các
phạm trù, tam đoạn luận và phép chứng minh. Hay trong cuốn “Nhập môn
Aristotle” của Rupert Woodfin và Judy Groves do Tinh Vệ dịch, thì lại giới thiệu
triết học Aristotle và logic học Aristotle dưới hình thức khá mới mẻ đó là hình thức
“truyện tranh” sinh
động. Đằng sau những nét cọ hồn nhiên và lời dẫn truyện gọn
gàng, chuẩn xác, dưới hình thức lời thoại, các tác giả đã thể hiện được những tư
tưởng cơ bản về triết học và logic học của Aristotle. Trong tác phẩm thông qua
những cách đặt vấn đề kiểu như: Logic học là gì? Hay: Một kết luận thỏa đáng. Tam
đoạn luận hay diễn dịch có giá trị. Các quy tắc c
ủa tư duy v.v…đã nói lên được
phần nào logic học Aristotle. Chuyên sâu hơn về nội dung logic học Aristotle có
cuốn “Aristotle với học thuyết phạm trù” của Nguyễn Văn Dũng (Nxb KHXH năm
1996). Trong cuốn sách này, phần đầu tác giả đã trình bày rất rõ cuộc đời, sự nghiệp
cũng như tác phẩm “Các phạm trù” của Aristotle. Trong phần nội dung tác giả đã
phân tích, đánh giá sâu sắc đồng thời chỉ ra vị trí học thuyết ph
ạm trù của Aristotle
trong mối liên hệ với triết học, logic học của ông. Đồng tác giả có bài “Vấn đề
phương pháp trong triết học Aristotle”, trong bài này tác giả đã phân tích các
phương pháp mà Aristotle đã đề cập trong triết học của mình là phân tích và tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch. Tác giả cho rằng để hiểu được các phương pháp của
Aristotle và mối quan hệ giữa chúng, thì trước hết cần tìm hiểu tam đoạn luận c
ủa
ông, bởi chính ở đây, ông đã trình bày một cách đầy đủ nhất về lý luận diễn dịch

Ngoài ra không thể không kể đến những nghiên cứu về logic học, đặc biệt là
logic học hình thức, đã có vai trò rất lớn trong việc làm sáng tỏ vị trí, vai trò cũng
như một số vấn đề trong nội dung logic học truyền thống. Có thể kể đến như bài

5
“Chính xác hóa các nội dung cơ bản của lôgic học truyền thống”[43] hay bài “Về
vai trò của logic trong phát minh khoa học bằng giả thuyết”[17], “Một số vấn đề cơ
bản của logic nghiên cứu khoa học”[41]v.v…. Đặc biệt trong các hội thảo về logic
học gần đây (do Viện Triết học tổ chức tháng 12/2006, do Đại học KHXH & NV
TP HCM tháng 7/2008) đã có nhiều các bài viết, các bài trao đổi ý kiến về những
nội dung cũng như sự phát triển của logic học hình thức. Bên cạnh đó, có thể kể đến
bài viết của Giáo sư Cúc Thực Nhi (Viện nghiên cứu Logic và nhận thức, ĐH
Triết Giang), bài viết về “Vấn đề và tương lai của logic học” trong cuốn sách
“Những vấn đề mũi nhọn trong nghiên cứu triết học đương đại”[45]. Trong bài viết
tác giả đã nêu ra hai định nghĩa về logic h
ọc, phân tích những bước ngoặt nhận thức
trong logic học và đặt ra những vấn đề nghiên cứu mà logic học phải đối mặt trong
tương lai. Những bài viết trên đã có vai trò rất lớn trong việc gợi mở vấn đề nghiên
cứu cho tác giả luận văn.
Nhóm tài liệu thứ ba đó là các tài liệu được viết bằng tiếng Anh. Với nhóm tài
liệu được viết bằng tiếng Anh thì cũng có sự phân loại, t
ức có những công trình viết
về logic học nói chung, trong đó chủ yếu bàn về vai trò, sự ứng dụng cũng như sự
phát triển của ngành logic học, ví dụ như tác phẩm “Philosophy of Logic- Handbook
of the Philosophy of Science” [58]. Còn viết về Aristotle có những công trình như:
“Aristotle: A Very Short Introduction”[49], “Aristotle, Kant, and the Stocis”[53],
“Hegel and
Aristotle”[54], những tác phẩm này chủ yếu nghiên cứu về triết học,
logic học Aristotle trong sự so sánh với các triết gia và các trường phái khác;
chuyên sâu hơn về logic học Aristotle như: “

Aristotle's Logic”[74], “Aristotle's
Logical Works and His Conception of Logic”[65], trong bài báo này tác giả đã trình
bày và phân tích khá rõ những tác phẩm logic và tư tưởng logic của Aristotle chủ
yếu trong “Organon”, ngoài ra còn có bài viết về sự ứng dụng của logic Aristotle
trong khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo: “
How to use Aristotelian logic to
Formalize Reasonings Expressed in Ordinary Language?
” [66], còn lại là các tác
phẩm dịch từ tác phẩm Organon của Aristotle, như các tác phẩm [47, 50-52, 57, 59,
69-73].

6
S tng quan trờn cho thy nhng ti liu vit bng hoc dch ra ting Vit v
Aristotle khụng nhiu, c bit l nhng tỏc phm ca Aristotle thỡ hu nh cha cú
m ch yu l ting Anh, ting Nga. ú chớnh l khú khn cng nh ng lc khin
ngi vit phõn tớch, tỡm hiu v trỡnh by cú h thng logic hc ca Aristotle.
3. Mc ớch v nhim v nghiờn cu
Mc ớch ca lu
n vn l i sõu tỡm hiu mt s vn chớnh ca logic hc
Aristotle trong tỏc phm Organon, qua ú hiu rừ v trỡnh by cú h thng logic
hc ca Aristotle.
thc hin mc ớch trờn, lun vn gii quyt cỏc nhim v:
- Lm rừ tin ra i logic hc Aristotle.
- Gii thiu cuc i v s nghip logic hc ca Aristotle, mt s quan im
chun b cho logic hc.
- Trỡnh by v phõn tớch m
t s ni dung chớnh logic hc ca Aristotle c
th hin trong tỏc phm Organon v cỏc hỡnh thc v quy lut ca t duy.
4. i tng v phm vi nghiờn cu ca lun vn
i tng nghiờn cu ca lun vn l ni dung logic hc ca Aristotle trong

tỏc phm Organon.
Phm vi nghiờn cu l lch s trit hc Hy Lp c i.
5. C s lý lun v phng phỏp nghiờn cu ca lun v
n
Luận văn đợc thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời có tham khảo những công trình
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nớc có liên quan đến đề tài.
V phng phỏp nghiờn cu: Lun vn s dng cỏc phng phỏp nh: Phõn
tớch, tng hp, so sỏnh, khỏi quỏt húa, thng nht lụgic - lch s.
6. í ngha ca lun vn
Lun vn gúp phn lm sỏng t thờm mt s ni dung logic hc Aristotle.

7
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
nghiên cứu về logic học và lịch sử của nó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản
của luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết.





















8
CHƯƠNG 1: TIỀN ĐỀ CỦA LOGIC HỌC ARISTOTLE

Ănghen đã từng nhận định: Không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và
Đế chế La Mã thì không có Châu Âu hiện đại, và không ai có thể phủ nhận được
những giá trị, những thành tựu mà nền văn minh Hy La để lại. Trong đó có thể nói
rằng, những thành tựu triết học của Platon và Aristotle là đỉnh cao của tư tưởng triết
học Hy Lạp cổ
đại. Tác động của những tư tưởng do họ đưa ra đến sự phát triển triết
học và văn hóa sau này vượt nhiều lần so với sự tác động của những gì do các bậc
tiền bối của họ tạo ra.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, thời kỳ này triết học lúc đầu thể hiện hoàn
toàn không như là khoa học đặc biệt, không như là lĩnh vực tri thức đặc bi
ệt đã tách
ra được đối tượng nghiên cứu của mình, mà nó xem xét tất cả những gì rơi vào tầm
nhìn của sinh thể tư duy. Khi đó, đối tượng của triết học hòa nhập với đối tượng của
tư duy nói chung, và triết học đồng nghĩa với thế giới quan nói chung. Vì vậy, thời
kỳ này triết học bao chứa trong mình tất cả những tri thức của các khoa học, sự phát
triển của triết học cũng chính là sự phát triển của những hiểu biết khoa học về thế
giới xung quanh.
Triết học thời kỳ này không giản đơn nghiên cứu thế giới bên ngoài, mặc dù,
khi thể hiện là tư duy lý luận nói chung, nó đúng là nghiên cứu thế giới ấy, mà nó

làm điều đó trong tiến trình khắc phục có phê phán cách hiểu thế giới theo kiểu thần
thoại - tôn giáo, trong quá trình tranh luận với nó, tức là th
ường xuyên so sánh đối
chiếu với nhau hai lĩnh vực phân cách rạch ròi: một mặt, thế giới bên ngoài như bản
thân triết học bắt đầu tự ý thức được, và mặt khác, là thế giới, như nó được trình ra
trong ý thức hiện có, tức là ý thức tôn giáo - thần thoại. Hơn nữa những quan điểm
riêng của nó được định hình chính là như những phản đề của những quan niệm bị
nó gạt bỏ. Trong hình thức triết học, con người vì thế lần đầu tiên bắt đầu một cách
có phê phán, dường như đứng tách ra, để quan sát hoạt động riêng của mình về việc
xây dựng các hình tượng của hiện thực, quan sát chính quá trình ý thức được các dữ

9
kiện, mà xung quanh chúng xuất hiện sự tranh cãi. Triết học vốn được sinh ra như là
cơ quan xử thế có phê phán đến bất kỳ ý kiến nào được nói ra, ngay từ đầu đã buộc
phải tìm con đường đến chân lý thông qua sự xem xét các quan niệm mâu thuẫn
nhau. Và như vậy, đối tượng của tư duy thể hiện ở đây không chỉ là “thế giới bên
ngoài” như vốn có, mà cả chính phương thức khám phá nó nữa, đó chính là “tư
duy
về chính tư duy”. Hay nói cách khác đó chính là sự đụng độ, giao thoa giữa logic
học và “bản thể luận”, đó cũng chính là đặc điểm chung cho triết học và logic học
thời kỳ này- đặc điểm của logic học Aristotle. “Vậy là, truyền thống - hình thức - đã
biết trong logic học đã thẳng thừng coi Aristotle là cha đẻ của logic học - mà trên
thực tế chỉ là một xu hướng hoàn toàn xác định trong học thuyết về
tư duy. Mặt
khác, Aristotle đúng là “cha đẻ” của xu hướng khoa học đã dẫn đến cách hiểu
Hêghen về logic học như là học thuyết về các hình thức phổ biến của toàn bộ cái tồn
tại, tức là của trào lưu, mà theo sự làm chứng không phải là một lần của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đã trở thành xuất phát điểm cho cách hiểu biện
chứng-duy vật về logic họ
c” [15, tr. 29].

1.1. Những tư tưởng Logic học trước Aristotle
Lịch sử của tri thức là lịch sử của sự kế thừa và phát triển. Nếu thiếu sự nghiên
cứu, phân tích những thành quả của những người đi trước thì triết học không thể
tiếp tục phát triển được. Với Aristotle điều đó đã được ông nhận thức một cách tự
giác. Aristotle coi bổn phận của mình là nghiên cứ
u tỉ mỉ thành tựu của các bậc tiền
bối và trình bày chúng một cách vô tư, chỉ sau đó mới bác bỏ cái gì đó từ những
điều đã biết hay bổ sung những điều mới. Có thể nói rằng toàn bộ quá trình phát
triển của triết học Hy Lạp cổ đại là tiền đề lý luận cho sự ra đời của triết học và
logic học Aristotle.
Hy Lạp là một trong những cái nôi của n
ền văn minh nhân loại, đó là mảnh đất
của triết học. Có thể nói rằng gần như toàn bộ sự phát triển triết học châu Âu là xuất
phát từ Hy Lạp. Trong quá trình phát triển của triết học, logic học luôn luôn đi kèm
với nó và đóng vai trò là công cụ nhận thức. Triết học ngay từ khi sinh ra trên mảnh

10
đất Hy Lạp đã có những trường phái khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Các trường
phái triết học luôn đấu tranh với nhau để bảo vệ quan điểm của mình. Trong các
cuộc tranh luận triết học đó, tất yếu phải nảy sinh những chuẩn mực của tư duy để
có thể xác định được một lập luận như thế nào là đúng, như thế nào là sai. Tư đó,
các tư tưở
ng về logic học dần dần được hình thành cùng với sự phát triển của triết
học. Trước khi hệ thống logic học của Aristotle được hình thành như một khoa học
độc lập, thì trong triết học Hy Lạp, các tư tưởng về logic học đã được hình thành,
tuy chưa thành hệ thống. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, đặc điểm bao trùm ở
thời kỳ trước Aristotle này là các tư tưởng triế
t học và logic học chưa tách bạch
nhau, các quy luật, quy tắc logic hay hình thức tư duy nằm lẫn trong các lập luận
triết học, ngoài ra còn một đặc điểm cần phải kể đến là ở thời kỳ này những quy luật

của tư duy lẫn lộn với những quy luật của tồn tại.
Nhà triết học đầu tiên có những tư tưởng liên quan đến logic học là nhà triết
học Pacmenit thuộ
c trường phái Êlê. Ông là người đầu tiên đưa ra công thức siêu
hình học của quy luật đồng nhất (đồng thời cũng là quy luật phi mâu thuẫn): “Tồn
tại có, không có không tồn tại” [trích theo 32, tr. 32].
Zenon, học trò của Pacmenit đã biết dùng quy luật phi mâu thuẫn một cách tự
phát để lập luận chứng minh trong nghịch lý “mũi tên đang bay, không bay” của
mình. Ông là người đầu tiên chỉ ra tính mâu thuẫn của vận động và thể hiện mâu
thuẫn này trong khái niệm vận
động, do đó đã bác bỏ vận động như là một thuộc
tính của vật chất.
Aristotle gọi Zenon là người sáng tạo ra phép biện chứng, còn Hêghen thì tìm
thấy ở ông “biện chứng chủ quan và biện chứng khách quan”, nhưng biện chứng của
Zenon là “tiêu cực”, vì từ tính mâu thuẫn của vận động, ông đã đi đến kết luận không
có vận động. Lênin viết trong “Bút ký triết học” như sau: “Ông là người khởi xướng
phép biện chứng”, và: “Ở Zenon chúng ta cũng tìm thấy một phép biện chứng thật sự
khách quan” [19, tr. 269]. Qua đó có thể thấy rằng, Zenon đã áp dụng tư duy trừu
tượng để xem xét vận động (quá trình biện chứng khách quan), do đó đã rơi vào siêu

11
hình trong việc xem xét vận động như là một quá trình khách quan. Trong trường
phái Êlê, lần đầu tiên trong triết học cổ đại Hy Lạp xuất hiện các hình thức chứng
minh logic dưới dạng mạch các suy luận diễn dịch. Đó là các lập luận của Ksenofan
và Melis, được đề cập đến trong các tác phẩm của Aristotle “Về Melis, Ksenofan và
Gioocgi”, suy luận kiểu như vậy cũng có ở Pacmenit, đặc biệt hình thức logic rất tinh
tế của các suy luận diễ
n dịch có thể thấy cả ở các tác phẩm của Zenon.
Trường phái ngụy biện (Protagor, Gioocgi, Prodik, Hippi) - là một trường phái
có vai trò to lớn trong sự hình thành logic hình thức như một khoa học. Điểm nổi

bật trong tư tưởng của các nhà triết học thuộc trường phái này là chủ nghĩa tương
đối cực đoan, tư tưởng đó được thể hiện trong tác phẩm “Hai loại ngôn ngữ”. Trong
tác phẩm này, các tác giả đã phát triể
n, tuyệt đối hoá tính tương đối của các khái
niệm “thiện”, “ác”; “cái đẹp”, “cái xấu”; “công bằng”, “bất công”; “chân lý”, “sai
lầm”. Các tác giả đã cố gắng chứng minh tính đúng đắn của cả hai quan niệm đối
lập nhau: “chân lý và giả dối (sai lầm) là một” và “chân lý và giả dối (sai lầm)
không phải là một”. Họ cho rằng cùng một lời nói cũng có thể được coi là đúng mà
cũng có thể coi là sai. Cùng một vật cũng có thể là nhẹ
, cũng có thể là nặng, phụ
thuộc vào điều là: nó được so sánh với vật nào? Cùng một con người vừa sống lại
vừa không sống, cùng một vật vừa tồn tại lại vừa không tồn tại, vì tất cả cùng tồn tại
trong mối quan hệ với một cái gì đó [xem 12].
Từ đó nảy ra một trong những yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn là: trong
các suy luận và lập luận có khẳ
ng định hoặc phủ định một cái gì đó, phải xét sự
khẳng định và phủ định trong cùng một mối quan hệ và cùng một thời gian (Nội
dung và yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn trong logic hình thức truyền thống như
sau: “trong quá trình lập luận và suy luận, không thể đồng thời khẳng định và phủ
định một vấn đề nào đó về cùng một đối tượng, trong cùng một mối quan hệ và
cùng một thời gian”).
Khi xây dựng lý thuyết hùng biện, các nhà ngụy biện không thể không đụng
đến những vấn đề của logic học, bởi những vấn đề của lý thuyết đó chính là một

12
nghệ thuật tranh luận. Protagor (kh. 480-kh.410 TCN) đã viết tác phẩm “Nghệ thuật
tranh luận” với tư tưởng xuất phát trong đó là: đối với bất kỳ một hiện tượng nào
cũng có ít nhất hai ý kiến đối lập nhau, và ông là người đầu tiên sử dụng phương
pháp “đối thoại” là phương pháp mà trong đó hai người tranh luận bảo vệ hai quan
điểm đối lập nhau. Ông đã đi chu du khắp đất nước Hy L

ạp và thu hút được một số
lượng người nghe rất đông. Diogen-Laerxi nói rằng: Protagor lần đầu tiên sử dụng
phương pháp lập luận mà sau đó Xocrát đã sử dụng: đó là phương pháp đưa ra câu
hỏi cho người đối thoại và chỉ ra chỗ sai lầm trong các câu trả lời của họ, với mục
đích chứng minh và phát triển luận đề được đặt ra.
Như vậy, Protagor đã đặt nền móng cho các dạ
ng chứng minh theo nghĩa
Aristotle đã phân tích trong “Topikos” (chữ Hy Lạp, có nghĩa là nghệ thuật tranh
luận), cũng có nghĩa là theo các thủ pháp logic trong nghệ thuật hùng biện. Ví dụ về
nghệ thuật lập luận ngụy biện: tác phẩm của Protagor “Vụ kiện tụng về việc thanh
toán” liên quan đến cuộc tranh luận của Protagor với người học trò giỏi nhưng
nghèo của mình là Evatle. Evatle thoả thuận với Protagor rằng anh ta sẽ trả hết họ
c
phí cho ông nếu thắng một vụ kiện đầu tiên ở toà án. Sau một thời gian, Protagor
đòi học trò Evatle phải trả hết tiền học phí. Evatle từ chối và trả lời: “Nhưng tôi vẫn
chưa kiện một vụ nào ở toà án”. Protagor tuyên bố rằng đằng nào thì anh cũng phải
trả, vì “Nếu tôi kiện anh ra toà và thắng kiện, thì anh sẽ phải trả tiền cho tôi theo
quyết định của toà án, còn nếu anh thắng tôi ở toà án, thì anh phải tr
ả tôi theo thoả
thuận”. Evatle trả lời: “Tôi sẽ không phải trả trong cả hai trường hợp trên, vì nếu toà
án xử thầy thắng kiện, thì tôi sẽ không phải trả theo thỏa thuận giữa chúng ta, còn
nếu toà xử thầy thua kiện, thì tôi cũng vẫn không phải trả theo quyết định của toà
án”.
Đó là một lập luận đầy tính nghịch lý và nghịch lý này cùng với rất nhiều
nghịch lý khác có vai trò kích thích tư duy tìm kiếm các chuẩn mực, quy t
ắc cho
một lập luận đúng.


13

Democrit (460-370 TCN) - là người sáng tạo ra “Hệ thống logic học” đầu tiên
ở Hy Lạp cổ đại. Ông viết một luận văn “Về logic học” (Canon). Đáng tiếc là tác
phẩm đó không còn, người ta biết được nó thông qua các tác phẩm của Aristotle.
Một trong những tư tưởng logic học mà Democrit giải quyết trong đó là vấn
đề chân lý. Theo Democrit, thì có ba tiêu chuẩn chính của chân lý: 1) “cảm giác
hoàn thiện”, có nghĩa là tri giác cảm tính được thực hiện trong điều kiện kiểm tra
được chúng một cách khoa học; 2) “lý tính hoàn thiện”- có nghĩa là trí tuệ được vũ
trang bằng phương pháp khoa học và được định hướng bởi những nguyên tắc
nghiên cứu đúng; và 3) “thực tiễn cảm tính”- phục vụ cho việc kiểm tra các ý kiến
[32, tr. 35].
Tác phẩm “Canon” của Democrit còn hướng vào phê phán các nhà ngụy biện
phủ nhận sự tồn tại của chân lý khách quan. Khi tranh luận với Protagor, ông đã
dùng chính vấn đề và kiểu lập luận của Protagor: N
ếu Protagor cho rằng “con người
- là thước đo của tất cả mọi vật”, tức là ông đồng nhất chân lý với ý kiến, thì phủ
định chính những luận điểm của Protagor cũng là chân lý (Vì phủ định - cũng là
một ý kiến). Thủ pháp của Democrit dùng để bác bỏ quan điểm của Protagor như
vậy được Platon nhắc lại trong đối thoại “Te’tet”.
Khi bút chiến với Protagor, Democrit chứng minh rằng chân lý chỉ có một và
nó là khách quan. Khi bác b
ỏ quan điểm của Protagor rằng tất cả là chân lý,
Democrit cũng đồng thời bác bỏ luôn cả luận điểm của nhà ngụy biện Kxenhiat cho
rằng tất cả đều giả dối. Democrit đã sử dụng chính những lập luận của họ (những
nhà ngụy biện). Theo ông, nhà ngụy biện Kxenhiat đã tự chống lại chính mình: nếu
tất cả đều giả dối, thì cũng đồ
ng thời giả dối cả luận điểm cho rằng tất cả đều giả
dối (của Kxenhiat).
Democrit xây dựng logic học trên cả cơ sở tri thức kinh nghiệm. Ông là một
trong những người đầu tiên sáng tạo ra logic quy nạp mà sự phát triển tiếp theo của
nó được trường phái Epiquya thực hiện.



14
Democrit đã phát hiện ra những thành tố đầu tiên của tư duy - những thông số
cảm tính, theo ông, nếu liên kết chúng lại thành các biểu tượng và khái niệm thì mối
liên hệ giữa chúng sẽ tạo ra các phán đoán đơn bao gồm: chủ từ và vị từ. Chủ từ của
phán đoán Democrit gọi là “danh từ” (tên), còn vị từ - là “động từ”- điều này nói lên
rằng logic học là khoa học về tư duy được hình thành trên cơ sở phân tích ngôn ng

tự nhiên. Democrit đã đặt vấn đề về mối quan hệ giữa “từ” và “khái niệm” được thể
hiện bằng “từ”. Ông đã chú ý đến những trường hợp mà trong đó không có sự tương
ứng nghiêm ngặt giữa khái niệm và từ. Đó là các trường hợp: 1) Khi một từ chỉ các
khái niệm khác nhau (đồng âm, khác nghĩa); 2) Khi cùng một sự vật người ta dùng
các từ khác nhau để thể hiện (khác âm, đồng nghĩ
a); 3) Trường hợp đổi tên; 4) Khi
vật không có tên gọi mà để biểu đạt cần phải mô tả. Democrit cũng đã hiểu phán
đoán như là mối liên hệ giữa chủ từ và vị từ.
Về thao tác định nghĩa thì Democrit cho rằng: định nghĩa có nghĩa là chỉ ra cái
mà từ đó tạo nên sự vật. Ví dụ, quân đội được ông định nghĩa như là tổng số các
quân nhân. Trong “vật lý học” của Democrit, mỗi s
ự vật được định nghĩa bởi số
lượng, hình thức, trật tự các nguyên tử tạo nên sự vật đã cho, kể cả khoảng không
trong đó. Tất nhiên, những tư tưởng của Democrit về vấn đề định nghĩa đã không
chịu được sự thử thách của thời gian, và quan điểm đó về định nghĩa đã không được
logic truyền thống tiếp thu.
N
ếu Pacmenhit là người đầu tiên nói đến quy luật đồng nhất (theo nghĩa siêu
hình học), thì Democrit là những người đầu tiên nói đến quy luật lý do đầy đủ theo
nghĩa bản thể luận bằng tư tưởng nổi tiếng của mình: “Tất cả mọi cái xảy ra đều có
nguyên nhân, do đó đều tất yếu” (Nội dung của quy luật lý do đầy đủ trong logic

hình thức truyền thống như sau: trong quá trình tư duy, lập luận, một phán đ
oán,
mệnh đề chỉ được coi là chân thực nếu có đầy đủ cơ sở để luận chứng cho nó, tức là
cần được chứng minh).
Ý nghĩa lịch sử của logic học Democrit trước hết ở chỗ là ông đã đặt nền
móng, hay nói cách khác đã mở đầu cho một khuynh hướng mới trong logic học mà

15
Epiquya sẽ tiếp tục sau này. Khuynh hướng Democrit - Epiquya xét theo những vấn
đề cơ bản là tiền đề cho logic quy nạp của Ph. Becon và J. Mill thời hiện đại. Một
số vấn đề được Democrit xây dựng cũng đã được Aristotle tiếp nhận trong các tác
phẩm “Các phạm trù” [50], “Phân tích học thứ nhất” [59], “Siêu hình học” [72] và
“Topics” [70]. Tuy nhiên, lượng thông tin ít ỏi còn lại đến ngày nay về logic học
Democrit, không cho phép nói về ảnh hưởng của các tư tưởng logic học Democrit
đối vớ
i Aristotle.
Giống như những nhà ngụy biện, Xocrat (469-399 TCN) cũng quan tâm đến
vấn đề con người, những vấn đề đạo đức, xã hội…Nhưng khác với chủ nghĩa tương
đối cực đoan của những nhà ngụy biện, ông bảo vệ quan điểm cho rằng chân lý
khách quan được thể hiện trong những khái niệm chung.
Xocrat quan tâm nhiều đến vấn đề phương pháp, ông nói một câu nổi tiếng:
“Tôi biết rằ
ng tôi không biết gì cả” [46, tr. 184], điều đó nói rằng ông không tin
mình lĩnh hội được tri thức chân thực, mà tin rằng ông có thể lĩnh hội được phương
pháp mà nhờ đó ông có thể có được tri thức chân thực. Vậy đó là phương pháp gì?
Xocrat cho rằng bất kỳ đối tượng nào cũng có thể được nhận thức chỉ khi có thể quy
nó về một khái niệm chung và tìm hiểu nó trên cơ sở của khái niệm chung này.
Xocrat đã xây dự
ng phương pháp quy nạp và định nghĩa khái niệm. Aristotle
trong “Siêu hình học” đã nói rằng Xocrat là một trong những người đầu tiên đưa ra

phương pháp quy nạp: suy luận đi từ những sự vật đơn nhất đến hình thành những
khái niệm chung.
Trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tương đối cực đoan và chủ nghĩa chủ quan
của những nhà ngụy biện, Xocrat đã tìm thấy chỗ dựa của mình trong nhữ
ng “khái
niệm nói chung” và theo ông những khái niệm đó vĩnh viễn không thay đổi với tất
cả mọi người.
Nhờ phép quy nạp Xocrat hình thành khái niệm chung. Xocrat xuất phát từ
những biểu tượng thông thường nhất của con người, từ những sự kiện trong cuộc
sống hàng ngày. Bằng quy nạp có thể vạch ra cái gì thuộc bản chất của đối tượng

16
cần bàn, cái gì không phải; và bằng cách đó, từ các biểu tượng và các thông số do
nhận thức cảm tính cung cấp mà hình thành nên các khái niệm.
Quy nạp tạo thành cơ sở cho định nghĩa khái niệm. Hai thủ pháp này trong
logic học Xocrat liên quan mật thiết với nhau. Từ định nghĩa khái niệm rút ra việc
phân tích các sự vật theo giống. Nghệ thuật tranh luận (hay hùng biện) của Xocrat
phục vụ cho mục đích này. Xocrat thường đòi hỏi người tranh luận vớ
i mình cần
phải định nghĩa, ví dụ: công bằng là gì? dũng cảm là gì? cái đẹp là gì?, với tư cách
là câu trả lời, ông nhận được định nghĩa khái niệm sơ bộ. Ông cần kiểm tra tính
đúng đắn của các định nghĩa đó dựa vào những trường hợp cụ thể trong đời sống
hàng ngày và kết quả thường là phải hiệu chỉnh các khái niệm. Các định nghĩa mới
nhận được l
ại phải tiếp tục kiểm tra ở những trường hợp khác,… cứ như vậy tiếp
diễn cho đến hoàn thiện. Những ví dụ tuyệt vời của việc sử dụng phương pháp này
là những “đối thoại Xocrat” do Platon viết ở giai đoạn đầu khi còn đứng trên quan
điểm của thầy mình là Xocrat. Kể cả những đối thoại của Xocrat được Kxenofon
ghi lại trong tác phẩm của mình. Ví dụ, Kxenofon trình bày
đối thoại của Xocrat

trong đó có định nghĩa khái niệm công bằng. Đầu tiên, người ta coi lừa dối, làm
điều ác,… là những hành vi không công bằng. Sau đó người ta nhận ra rằng những
hành vi này nếu được sử dụng trong chiến tranh với kẻ thù, thì không phải là
“không công bằng”. Do đó, định nghĩa ban đầu cần được hạn chế: các hành vi đó
chỉ là không công bằng trong quan hệ với bạn bè, người thân. Tiếp tục suy nghĩ ta
th
ấy rằng, cả định nghĩa mới được hiệu chỉnh cũng vẫn chưa đúng, vì nếu lừa dối
đứa con đang ốm của mình để bắt nó uống thuốc, hay giành kiếm từ tay người bạn
khi bạn mình đang muốn tự sát,…thì lại là những hành vi không phải là không công
bằng. Do đó, chỉ có thể gọi một hành vi nào đó là không công bằng khi hành vi đó
chống lại bạn bè, người thân, hay với m
ục đích làm hại bạn bè, người thân.
Nếu quan điểm xuyên suốt của Protagor là: “Con người là thước đo của tất cả
mọi vật” thì Xocrat cho rằng: chân lý phải có đặc điểm phổ biến và tất yếu, nếu là
tri thức thuộc lĩnh vực đạo đức thì nó phải có đặc điểm toàn nhân loại. Nhận thức
chung nhất mang tính toàn nhân loại của tất cả mọi người, đượ
c Xocrat hiểu như là

17
nhận thức cái chung trong khái niệm. Ngoài Platon, Xocrat còn có bốn học trò, sau
đó bốn học trò này thành lập bốn trường phái khác nhau: Ơcơlid, Phedon, Antisfon
và Aristip. Ở đây chúng ta chỉ xem xét một trong bốn trường phái này.
Ơcơlit thành lập trường phái Megar- phát triển quan điểm Xocrat về nhận thức
chân thực như là nhận thức cái chung trong khái niệm. Những người theo trường
phái Megar cho rằng: những cái được phân biệt theo khái niệm và theo định nghĩa,
thì cũng được phân biệt về m
ặt hiện thực. Họ chứng minh rằng thực chất phán đoán
“S là P” là tương đương với “A là không A”, do đó họ suy diễn: bất kỳ khái niệm
nào trong phán đoán cũng không phải là chính nó. Do vậy, nếu suy rộng ra thì có
nghĩa là: Tất cả là tất cả! Tức là họ cũng giống như các nhà ngụy biện: phủ nhận

phán đoán. Trong “Bác bỏ thuật ngụy biện”, Aristotle đã dẫn ra một suy luận (sai)
như sau: “Ko-rik là người. Người là một cái gì đó khác hẳn với Ko-rik. Do đó, Ko-
rik là một cái gì đó khác hẳn với Ko-rik” [xem 32]. Mục đích của suy luận ngụy
biện này là muốn chứng minh tính không có căn cứ của mọi phán đoán, suy luận
logic nói chung.
Những người theo phái Megar trong khi tranh luận với các trường phái khác
thường tấn công không phải vào tiền đề, mà vào kết luận trong những lập luận của
phái đối lập và thường dùng phép chứng minh bằng phản chứ
ng (deductio ad
absurdum - đưa về điều phi lý); một số nghịch lý nổi tiếng như: “nói dối”, “có
sừng”, “hói”,…là do trường phái Megar đưa ra.
Diodor Kron (người thuộc phái Megar) đưa ra luận cứ phủ nhận vận động, như
sau: “Nếu một vật nào đó vận động, thì nó phải nằm trong phần không gian mà nó
đang có ở đó, hoặc phần không gian mà nó chưa có ở đó. Nhưng ở phần không gian
đầu thì không có vận động, vì phần không gian
đó vừa khít với vật đó, ở phần
không gian thứ hai (mà nó không có ở đó) thì dĩ nhiên là không có vận động…”. Do
đó, ông đi đến kết luận rằng nói chung là không có vận động. Chúng ta dễ nhận thấy
sự giống nhau giữa lập luận của Diodor với các nghịch lý của Zenon về vận động.
Vấn đề ở đây cần nhắc lại là, không thể áp dụng các quy luật của logic hình thức

18
vào việc lý giải các hiện tượng, quá trình của hiện thực khách quan như nó vốn có
(tức các quá trình biện chứng). Cũng bằng những thủ pháp lập luận như vậy, Diodor
chứng minh cho vấn đề: “Không thể chết”, “Không thể phá được bức tường”… Các
tư tưởng của phái ngụy biện Megar có những đóng góp nhất định vào sự hình thành,
phát triển của tri thức logic học, đặc biệt, thông qua các nghịch lý, nó kích thích tư
duy khám phá, tìm ra nhữ
ng quy luật, quy tắc đúng cho lập luận, góp phần dần hình
thành đối tượng của logic hình thức như một khoa học độc lập về tư duy.

Platon (427-347 TCN). Trong logic học, Platon đã bàn đến nhiều vấn đề như
phép chia khái niệm, định nghĩa khái niệm, quy nạp,…và ông đề cập đến cả phương
pháp “biện chứng”. Khái niệm “biện chứng” của Platon không phải như ngày nay
chúng ta vẫn dùng như là đối lập vớ
i siêu hình - mà đó là phương pháp “đối thoại”
để tìm ra tri thức đúng.
Thủ pháp đi dần đến cái chung của Platon là sự phát triển tiếp tục phương
pháp quy nạp của Xocrat. Khái niệm, theo Platon, cần phải chỉ ra được cái cơ bản
trong sự vật. Bản chất của sự vật là ở cái chung mà ở đó, tất cả các sự vật thuộc
cùng một giống phù hợp với nhau, quy tụ lại. Platon cũng
đề cập đến thủ pháp
“định nghĩa khái niệm”, và cũng giống như Xocrat, Platon sử dụng phương pháp
đưa ra các ví dụ. Theo Platon, để tránh các lỗi không đầy đủ, phiến diện của định
nghĩa, cần đưa ra các ví dụ đa dạng, thậm chí đối lập nhau để tìm ra cái chung; và
quá trình đó được tiến hành từ từ. Như vậy, quy nạp và định nghĩa, theo Platon, có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Như
ng phép quy nạp của Platon, xuất phát từ quan
điểm duy tâm khách quan - học thuyết về ý niệm, khác hẳn phép quy nạp dựa theo
quan niệm chung ngày nay của chúng ta. Cái chung, theo Platon, không phải được
khái quát từ những trường hợp cụ thể, đơn nhất bằng nhận thức kinh nghiệm; mà
kinh nghiệm cảm tính chỉ là phương tiện để đánh thức linh hồn hồi tưởng lại các ý
niệm đã có từ trước.
Platon đưa ra các quy tắc phân chia khái ni
ệm sau: để cho phép chia thực hiện
được đúng, không nên đưa ra những sự phân biệt tuỳ tiện, mà cần tìm những sự

19
khác nhau trong chính sự vật. Cần biết phân chia những khái niệm giống, và để làm
được điều đó, cần tuân thủ hai điều kiện: 1) chia theo những sự khác nhau về chất;
2) không bỏ qua các bậc trung gian. Nhiệm vụ, mục đích của phân chia khái niệm

là: tìm toàn bộ ngoại diên của khái niệm giống và xây dựng một hệ thống các khái
niệm.
Về quy luật phi mâu thuẫn. Platon đã sử dụng quy luật phi mâu thuẫn như là
một chuẩn mực của tư duy. Ông hiểu quy luật này theo nghĩa: bất kỳ sự vật xác
định nào cũng không thể trong cùng một thời gian và cùng một mối quan hệ lại có
những tính chất đối lập nhau.
Về quy luật đồng nhất- Platon hiểu quy luật logic theo nghĩa siêu hình học cũ:
khẳng định tính bất biến của tồn tại chân thực và của cả ý nghĩ, tư tưởng đúng.
Đố
i với Platon, quy luật đồng nhất và quy luật phi mâu thuẫn là những quy
luật của chính tồn tại. Vì theo Platon, tồn tại, thật, chính là sự tồn tại của các ý
niệm, tư tưởng; còn các sự vật, hiện tượng có thể nhận thức được bằng các giác
quan thì theo ông là không tồn tại.
Phán đoán- là hình thức cơ bản để liên kết các tư tưởng. Về phương diện ngữ
pháp, phán đoán là sự liên kết các từ
: chủ từ và vị từ (động từ). Phán đoán có hai
loại: hoặc khẳng định, hoặc phủ định. Xét theo quá trình nhận thức thì có hai loại
phán đoán: phán đoán kinh nghiệm và phán đoán lý tính. Phán đoán lý tính có tính
vĩnh cửu. Về học thuyết khái niệm- Platon xây dựng học thuyết về khái niệm (ý
niệm), về nội hàm và ngoại diên của khái niệm và mối quan hệ giữa chúng; mối
quan hệ giữa khái niệm giống và khái niệ
m loài. Ông hình dung các khái niệm theo
hình chóp (theo trình độ tính chung) mà trên đỉnh của hình chóp ấy là “ý niệm về ý
niệm”(tức ý niệm “phúc lợi”).
Tóm lại ở giai đoạn trước Aristotle, các tư tưởng logic học với tư cách là khoa
học về tư duy tuy chưa được định hình thành những vấn đề riêng biệt, hoàn chỉnh
nhưng đã manh nha tương đối đầy đủ những thành tố cần có cho một khoa học
chuyên ngành tách khỏi triết học một cách t
ương đối độc lập - khoa logic học. Nó


20
chuẩn bị đầy đủ tiền đề cho sự hình thành một khoa học logic độc lập mà nhà triết
học Hy Lạp cổ vĩ đại Aristotle là người thực hiện sứ mạng ấy - kế thừa, xây dựng và
phát triển thành một hệ thống hoàn thiện.
1.2. Aristotle và tác phẩm Organon
Aristotle (384 - 322 TCN) – người đầu tiên xây dựng hệ thống logic học hình
thức – được mệnh danh là nhà bách khoa toàn thư. Tư tưởng của ông vượt lên trên
cả nh
ững tư tưởng của người thầy của mình và ông trở thành triết gia vĩ đại nhất Hy
Lạp cổ đại. Aristotle đã biết kế thừa tư tưởng hợp lý của các vị tiền bối, để phát
triển chúng đến chỗ phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan. Bằng thiên tài của
mình Aristotle cũng sáng tạo thêm những tư tưởng mới làm phong phú thêm kho
tàng tri thức chung.
Aristotle sinh ra tại thành phố Stagir trên bờ biển Egiê thu
ộc xứ Maxêđoan.
Cha ông là người chuyên chữa bệnh cho vua Maxêđoan là Aminta. Tuy nhiên ông
đã không chọn nghề theo cha, mặc dù các tác phẩm sau này của ông cho thấy ông
có tri thức sâu sắc cả trong lĩnh vực y học. Vào năm 18 tuổi, Aristotle đã đến Aten
để học tập tại Academia của Platon. Tại đây, Aristotle đã có được một nhãn quan
khoa học quảng bác, xây dựng quan điểm triết học và khoa học của riêng mình. Vào
năm 37 tuổi, sau khi Platon mất, Aristotle rời khỏi Aten và đ
i tới vùng Tiểu Á. Tại
đây, thành phố Assôsơ, ông mở trường học riêng và viết hàng loạt tác phẩm. Việc
giảng dạy và nghiên cứu triết học - khoa học của ông sau đó đã tiếp diễn trên hòn
đảo Lesbos ở thành phố Mitilen. Cuối cùng, vào năm 343 - TCN đã bắt đầu một giai
đoạn mới trong cuộc đời của Aristotle gắn với việc ông quay trở về Maxêđoan theo
lời mời của Vua Maxêđoan là Philip
Đệ nhị. Tại đây ông đã trở thành thầy giáo của
cậu bé 13 tuổi Alecxandrơ - con vua Philip, người mà sau này đã chinh phục toàn
bộ lãnh thổ Hy Lạp và các quốc gia vùng Ba Tư, dựng lên một chính thể quân chủ

vô cùng rộng lớn. Và chính sau này, Alecxandrơ đã nói: “Tôi kính trọng Aristotle
ngang với cha tôi, bởi vì nếu tôi chịu ơn cha tôi bởi cuộc đời, thì tôi chịu ơn
Aristotle - là người đã đem lại giá trị cho cuộc đời đó” [trích theo 4, tr.16].

21
Aristotle ở lại hoàng cung cho tới khi Alecxanđrơ lên ngôi. Sau đó, vào năm
335, ông quay trở về Aten và thành lập trường học - Lixê. Các tác phẩm của ông
gồm hai nhóm: “công truyền” và “bí truyền”. Các tác phẩm công truyền được dành
cho đông đảo độc giả. Các tác phẩm bí truyền được dành cho các học trò của trường
học. Nhưng lịch sử lại thật trớ trêu khi nó chỉ để lại cho chúng ta các tác phẩm thứ
hai. Do vậy, chúng ta chỉ có thể phán xét các quan điểm củ
a Aristotle mà bản thân
ông coi là “bí truyền” biểu thị chân lý đầy đủ nhất. Người ta không biết chính xác
số lượng tác phẩm của Aristotle, nhưng rõ ràng là rất lớn. Các học giả sau này gán
cho ông từ 100 cho tới 400 tác phẩm. Các tác phẩm của Aristotle đề cập và trình
bày những tri thức sâu sắc và cụ thể về tất cả các ngành khoa học thời đó. Có thể
chia các tác phẩm của Aristotle thành 8 loại:
1) Triết học hay theo cách gọi của Aristotle là “triết học thứ nh
ất”. Các tác
phẩm thuộc loại này bao gồm các cuốn sách của Aristotle được người đời sau sắp
xếp thành một tác phẩm lớn có tên là “Metaphysics” chính là “Siêu hình học”.
2) Vật lý học hay “triết học thứ hai”, các tác phẩm như: “Về bầu trời”, “Vật lý
học”, v.v…
3) Sinh vật học
4) Tâm lý học
5) Đạo đức học thời Cổ đại
6) Kinh tế - Chính trị học
7) Nghệ thuật học
8) Logic học
Có thể nói, Aristotle đã dành đáng kể các nghiên cứu của mình cho những vấn

đề logic học. Các tác phẩm, bài giảng logic học của ông được các nhà bình chú sưu
tập lại dưới tên gọi “Organon” bao gồm các công trình sau:


22
1) “Categories” (Các phạm trù) – về những loại nói ra cao nhất, hay về những
loại tồn tại cao nhất [50].
2) “On Interpretation” (Về luận giải) – về các mệnh đề (phán đoán). Trong tác
phẩm này Aristotle đã tiến hành xây dựng hệ thống các phạm trù tu từ học và phát
biểu quy luật loại trừ cái thứ ba [51].
3) “Prior Analytics” (Phân tích học thứ nhất) – về các suy luận [59].
4) “Posterior Analytics” (Phân tích học thứ hai) - về các chứng minh [52].
5) “Topics” (Tôpica) – Về các suy luận biện chứng [70].
6) “Sophistical Regutations” (Về các bác b
ẻ ngụy biện) là tiểu luận bổ sung
vào “Topics”, trong đó khảo sát các suy luận ngụy biện [69].
Ngoài ra Aristotle còn nghiên cứu những vấn đề logic trong “Siêu hình học”
[72], “Vật lý học” [57] và một vài cuốn sách khác.
Những vấn đề logic được Aristotle nghiên cứu trong các tác phẩm nêu trên đều
thuộc về logic học ở nghĩa rộng nhất. Đó là nghiên cứu về lý thuyết chân lý, về hệ
thống các phạm trù, về bản chất của các hình thức và các quy luậ
t của tư duy và
nhiều những vấn đề khác liên quan trực tiếp đến logic học nhận thức luận.
Aristotle chưa phải là người dùng thuật ngữ “logic hình thức”, vậy tại sao khi
nói đến logic hình thức thì ai cũng nhắc đến ông như là người khai sinh ra môn
khoa học này? Có thể dựa vào các lý do sau: Thứ nhất, Aristotle đã phác họa một
cách khá rõ ràng đối tượng của khoa học này là tam đoạn luận. Ông sử dụng thuật
ngữ “tam
đoạn luận” tương ứng với thuật ngữ suy luận hiện nay. Vì thế hoàn toàn
hợp pháp có thể gọi logic hình thức Aristotle là lý thuyết suy luận. Ở đây cần lưu ý

rằng, suy luận của Aristotle là suy luận hình thức, và đối tượng của logic học hình
thức chính là lý thuyết suy luận hình thức chứ không phải suy luận nói chung; Thứ
hai, tính hình thức của suy luận là đặc trưng quan trọng của logic hình thức. Để chỉ
ra được nội dung hình thức đó, lần đầu tiên trong lịch sử Aristotle đã đưa vào logic
học các “biến từ” (P, M, S) và các “hằng logic” (là quan hệ giữa các thuật ngữ được

23

×