Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Quan niệm của Augustinô về con người và ảnh hưởng của nó đến triết học hiện sinh của Karl Jaspers

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







HOÀNG THỊ MỸ QUỲNH









QUAN NIỆM CỦA AUGUSTINÔ VỀ CON NGƯỜI
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TRIẾT HỌC
HIỆN SINH CỦA KARL JASPERS





LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học










Hà Nội - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG THỊ MỸ QUỲNH




QUAN NIỆM CỦA AUGUSTINÔ VỀ CON NGƯỜI
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TRIẾT HỌC
HIỆN SINH CỦA KARL JASPERS




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học

Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Vũ Hảo






105
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA AUGUSTINÔ 10
1.1. Tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Augustinô 10
1.1.1. Bối cảnh lịch sử 10
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học của Augustinô 13
1.2. Đôi nét về thân thế và các tác phẩm của Augustinô 20
1.2.1. Thân thế 20
1.2.2. Tác phẩm của Augustinô 25
1.3. Tổng quan về tư tưởng triết học của Augustinô 27
Chương 2: QUAN NIỆM CỦA AUGUSTINÔ VỀ CON NGƯỜI 32
2.1. Nguồn gốc và những đam mê chi phối con người 32
2.1.1. Nguồn gốc của con người 32
2.1.2. Những đam mê chi phối con người 36

2.2. Con đường đi đến hạnh phúc và tự do thực sự của con người 45
2.2.1. Sự thức tỉnh và hồi tâm 45
2.2.2. Hướng đến Thiên Chúa 51
2.2.3. Một vài đánh giá về quan niệm con người của Augustinô 63
Chương 3: QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI: ẢNH HƯỞNG CỦA
AUGUSTINÔ ĐẾN KARL JASPERS 70
3.1. Augustinô trong dòng chảy tư tưởng phương Tây 70
3.2. Tổng quan về tư tưởng triết học của Karl Jaspers 76
3.3. Ảnh hưởng của Augustinô trong quan niệm về con người của Karl
Jaspers 83
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển tư tưởng loài người từ xưa tới nay, dù ở phương Đông
hay phương Tây, đều xuất hiện những tư tưởng có giá trị về con người. Trong
bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, con người đều thể hiện khao khát tìm hiểu về
chính mình và mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Triết học
mọi thời đại luôn cố gắng tìm kiếm lời giải về con người. Tư tưởng coi con
người là trung tâm vẫn là sợi dây xuyên suốt lịch sử triết học từ cổ đại đến
nay.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Protagore đã khẳng định “Con người là
thước đo của vạn vật”. Quan điểm của Protagore cùng với thuyết địa tâm của
Aristole và Ptôleme đã tạo cơ sở cho thuyết coi con người là trung tâm được
chứng minh về mặt bản thể luận. Tuy nhiên, ngay cả những nhà triết học cổ
đại tiêu biểu như Platon và Aristole cũng ít có điều kiện đi sâu tìm hiểu con
người, nhất là về thế giới nội tâm đầy bí ẩn của mỗi cá nhân. Một trong những
triết gia được xem là người đặt nền móng cho việc khai mở những vấn đề nội

tâm của con người chính là Augustinô, thuộc hàng các triết gia trụ cột của tư
tưởng Kitô giáo và cũng là người xây dựng nền tảng cho triết học Tây Âu
trung cổ.
Augustinô chính là một trong những người đầu tiên đề cập đến con
người cá nhân. Ông cũng là một trong những người đầu tiên thăm dò cái tôi bí
ẩn của con người, coi đó là cách tìm kiếm chính mình. Đối diện với thời đại,
với xã hội đầy biến động lúc đó, Augustinô đã cho thấy những mâu thuẫn
trong nội tâm của con người. Đó là sự khủng hoảng trong lựa chọn hệ giá trị,
sự lúng túng của con người trong việc tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Do
vậy, tư tưởng sâu sắc ấy của Augustinô có sức sống kỳ lạ dù đã trải qua hàng
nghìn năm với những thăng trầm của lịch sử. Tầm ảnh hưởng sâu rộng của

2
Augustinô trong dòng chảy tư tưởng, trong văn hoá phương Tây và nhân loại
bắt nguồn từ sự sáng tạo độc đáo trong tư tưởng của ông. Augustinô đã đề cập
đến những vấn đề có tính chất vượt thời đại về con người với những suy tư
sâu sắc. Theo Augustinô, mục đích tối thượng của con người là có được hạnh
phúc và tự do thực sự. Đây cũng là mục tiêu mà cho tới nay chúng ta vẫn
đang theo đuổi.
Tư tưởng của Augustinô, do đó thực sự đã trở thành cội nguồn của
nhiều trường phái triết học sau này, trong số đó, phải kể đến chủ nghĩa hiện
sinh. Có thể dễ dàng thấy ảnh hưởng của Augustinô trực tiếp hoặc gián tiếp ở
khuynh hướng hiện sinh hữu thần, trong đó có triết học hiện sinh của Karl
Jaspers. Jaspers đã khẳng định sự phát triển thần tốc của kinh tế và khoa học
kỹ thuật không đồng nhất với sự tăng tiến tự do và hạnh phúc của con người.
Thậm chí, Jaspers còn cảnh báo, trong bối cảnh khoa học lên ngôi, con người
càng dễ đánh mất nhân cách độc đáo, bị biến thành “cái đinh ốc” trong guồng
quay của xã hội công nghiệp hiện đại. Điều đó khiến con người bị cuốn theo
những biến động nhanh chóng của xã hội. Con người chìm trong lo âu, bất an,
cô đơn và đau khổ. Theo Jaspers, mỗi con người là một nhân cách độc đáo,

không lặp lại. Vì vậy, con người luôn luôn phải đối diện với thực tại cuộc
sống với sự tự tin và ý chí vượt lên để tìm kiếm chính mình. Tự do đích thực
của con người chỉ có được khi con người nhận thức được hiện sinh độc đáo
của mình, ý nghĩa của sự tồn tại và quyền quyết định số phận của mình.
Trong bối cảnh hiện nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, chúng
ta biết nhiều hơn về thế giới, về vũ trụ nhưng dường như chúng ta vẫn biết ít
về bản thân mình. Chúng ta từng lầm tưởng khoa học là vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề, từ việc khám phá những bí ẩn của thế giới tới việc khám
phá con người và mang lại hạnh phúc cho con người. Thực tế chứng minh
không hoàn toàn có sự trùng khớp giữa tiến bộ khoa học và hạnh phúc của

3
con người. Thậm chí, về một số mặt nếu chỉ chú tâm đến sự phát triển khoa
học mà ít chú tâm tới các lĩnh vực khác một cách hợp lý thì điều đó còn làm
cho con người đau khổ, tha hoá đạo đức và nhân cách. Mục tiêu lớn nhất của
thời đại chúng ta là làm cho con người nhận thức được về sứ mệnh trung tâm
của sự phát triển và thực sự trở thành trung tâm của sự phát triển. Con người
chính là nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, và cũng là mục tiêu của sự
phát triển.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
nhận định rằng, con người giữ vai trò trọng tâm của sự phát triển. Trong Đại
hội VIII, Đảng nhấn mạnh rằng “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [15, tr.85]
*
. Văn kiện Hội
nghị Trung ương lần thứ 5 khoá VIII, còn nói rõ: “Tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do, toàn diện của con người” [16,
tr.56].
Việc hoạch định những chiến lược phát triển con người hiện tại và
tương lai, rất cần có những suy tư, trải nghiệm và bài học quý giá từ lịch sử tư

tưởng nhân loại và thực tiễn lịch sử ở các quốc gia đã trải qua quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Trong bối cảnh như vậy, tôi lựa chọn vấn đề:
“Quan niệm của Augustinô về con người và ảnh hưởng của nó đến triết
học hiện sinh của Karl Jaspers” làm cho đề tài luận văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về triết học trung cổ và
triết học hiện sinh, cũng như về Augustinô và Karl Jaspers. Tuy nhiên, ở Việt
Nam chưa có công trình chuyên khảo nghiên cứu về quan niệm con người của
Augustinô và sự ảnh hưởng của nó đến triết học hiện sinh của Karl Jaspers.


Từ đây, các chữ số trong ngoặc vuông được hiểu như sau: - Số thứ nhất là số thứ tự tài liệu tham khảo.
- Số thứ hai là số trang tài liệu tham khảo.

4
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về
Augustinô và Jaspers còn hạn chế, đặc biệt là những công trình chuyên khảo.
Những quan điểm về Augustinô hay Jaspers hầu hết chỉ mới được đề cập
trong một số giáo trình lịch sử triết học liên quan tới thời trung cổ, hay triết
học phương Tây hoặc triết học phương Tây hiện đại nhưng cũng còn khá
khiêm tốn. Trong số các công trình này, có thể kể đến các công trình dưới
đây.
1. Trần Thái Đỉnh (1967): Triết học hiện sinh
Đây là công trình nghiên cứu tương đối sớm ở Việt Nam về triết học
hiện sinh nói chung và tư tưởng của Karl Jaspers nói riêng. Tác giả đã đề cập
đến những nội dung cơ bản và khái quát về triết học hiện sinh của Jaspers và
trình bày tư tưởng triết học của Jaspers theo hệ thống nhất định, trong đó
những nội dung và các khái niệm trong triết học hiện sinh của Jaspers đã được
đề cập và phân tích khá công phu. Tuy nhiên, ngôn từ trong tác phẩm còn

mang nhiều ý nghĩa.
2. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Thanh - Nguyễn Anh Tuấn (2006): Đại
cương lịch sử triết học phương Tây
Công trình đã trình bày lịch sử triết học từ Hy Lạp cổ đại đến tư tưởng
của triết gia Đức L. Phoiơbắc. Các nhà nghiên cứu đã cho thấy bức tranh tổng
quan về học thuyết triết học của Augustinô và ảnh hưởng của ông, nhất là, đã
đề cập đến những nội dung nổi bật trong tư tưởng của Augustinô: quan niệm
về linh hồn, về cái tôi, về sự khủng hoảng nội tâm, về tình yêu, về sự nhận
thức Chúa thông qua linh hồn và linh hồn thông qua Chúa Đó là những nội
dung quan trọng trong quan niệm về con người của Augustinô. Công trình là
một nguồn tư liệu tin cậy với những nhận định sâu sắc.

5
3. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Thanh - Nguyễn Anh Tuấn (2008): Đại
cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại (cuối thế kỷ XIX - Nửa đầu thế kỷ
XX)
Công trình đã trình bày về tư tưởng các trào lưu triết học phương Tây
hiện đại, trong đó có trào lưu triết học hiện sinh. Trong số các nhà triết học
hiện sinh tiêu biểu, các tác giả đã khái quát về sự nghiệp và tư tưởng triết học
của Jaspers. Một số khái niệm cơ bản trong triết học hiện sinh của Jaspers đã
được đề cập và phân tích như: khái niệm hiện sinh, siêu việt, sự giao tiếp
Thông qua những khái niệm cơ bản đó, tác phẩm đã đề cập đến một số nội
dung quan trọng trong tư tưởng triết học của Jaspers. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ
đề cập sơ lược nội dung, hơn nữa một số khái niệm trong triết học hiện sinh
của Jaspers không được đề cập: khái niệm tình huống giới hạn, cái bao trùm
(hay bao dung thể)
4. Nguyễn Vũ Hảo - Đỗ Minh Hợp (2009): Giáo trình triết học phương
Tây hiện đại (công trình đã được nghiệm thu)
Đây là công trình nghiên cứu tương đối chu đáo về những trào lưu triết
học phương Tây hiện đại, trong đó có trào lưu triết học hiện sinh. Các tác giả

đã trình bày bức tranh tổng quan về triết học hiện sinh: từ bối cảnh ra đời đến
tư tưởng của các triết gia tiêu biểu, trong đó có triết gia Karl Jaspers. Các tác
giả đã đề cập đến những nội dung quan trọng trong tư tưởng triết học hiện
sinh của Jaspers, đặc biệt là các khái niệm trong triết học hiện sinh của
Jaspers được trình bày rất hệ thống. Các khái niệm này đã được các tác giả
phân tích khá sâu sắc. Tác phẩm này được xem là công trình tương đối tổng
quát về tư tưởng của Jaspers.




6
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài:
Augustinô và Jaspers là hai triết gia tiêu biểu ở phương Tây trong
những giai đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, các học giả ở nhiều quốc gia đã
nghiên cứu về tư tưởng của hai ông với những công trình có giá trị. Tuy
nhiên, do nhiều hạn chế, luận văn không thể lược khảo tình hình nghiên cứu ở
nước ngoài về Augustinô và Jaspers một cách hệ thống. Luận văn chỉ tập
trung vào một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đã được
dịch sang tiếng Việt.
1. Lưu Phóng Đồng (1994): Triết học phương Tây hiện đại, tập 3,
(người dịch: Phạm Đình Cầu)
Công trình đã đề cập đến những nội dung cơ bản và khái quát về triết
học hiện sinh của Jaspers. Đặc biệt, tác giả trình bày tư tưởng triết học của
Jaspers theo hệ thống nhất định, trong đó những nội dung và các khái niệm
trong triết học hiện sinh của Jaspers đã được đề cập và phân tích khá công
phu. Tuy nhiên, ngôn từ trong tác phẩm còn mang nhiều hàm nghĩa.
2. Crane Brinton (2007): Con người và tư tưởng phương Tây, (người
dịch: Nguyễn Kiên Trường)
Tác phẩm nghiên cứu tư tưởng phương Tây theo dòng chảy của lịch sử

gắn với sự phát triển của triết học phương Tây, văn hoá phương Tây và Kitô
giáo. Trong khi trình bày về tư tưởng thời trung cổ ở giai đoạn đầu, tác giả đã
đề cập đến vị thế và những nét đặc biệt trong học thuyết của Augustinô. Tác
giả thiên về đánh giá những công lao của Augustinô đối với sự phát triển của
thời trung cổ và với Kitô giáo. Đó là những nhận định khá sâu sắc và có ý
nghĩa về tư tưởng của Augustinô. Thông qua cách đặt vấn đề của tác giả,
người đọc đánh giá được giá trị tư tưởng Augustinô trong bối cảnh thời đại.
Tuy nhiên, tác phẩm chưa đề cập được đến những tư tưởng chính yếu trong
học thuyết triết học của Augustinô.

7
3. Hans Kung (2010): Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, (người dịch:
Nguyễn Nghị)
Tác phẩm này là một trong những công trình nghiên cứu khá công phu
về những nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, trong đó Augustinô được coi là một
trong những giáo phụ học nổi tiếng nhất. Tác giả - với cái nhìn của một giáo
sư thần học, một linh mục, đã cho thấy những điều mới mẻ trong tư tưởng của
Augustinô, những điểm tích cực cũng như những vấn đề còn tồn tại. Với sự
bao quát về tri thức, sự đối chiếu so sánh, tác giả đã đưa ra những nhận định
sâu sắc về tư tưởng Augustinô. Tuy nhiên, tác phẩm thiên về khuynh hướng
thần học hơn triết học.
4. Johannes Hirschberger: Lịch sử triết học, tập 1, (người dịch: Nguyễn
Quang Hưng, Nguyễn Chí Hiếu)
Tác phẩm trình bày những nội dung khái quát về bối cảnh, cuộc đời và
tổng quan những vấn đề triết học trong tư tưởng của Augustinô và vị trí của
Augustinô dối với tư tưởng phương Tây cũng như Kitô giáo. Bản dịch được
dịch từ nguyên bản tiếng Đức, có độ tin cậy cao. Tác giả đã trình bày tương
đối chi tiết những vấn đề: Về chân lý, về Chúa trời, về sáng thế, về cái thiện,
về linh hồn, về nhà nước Trong đó có những nội dung liên quan đến vấn đề
con người: nguồn gốc, quan niệm về cái tôi, về tự do ý chí, về tình yêu Đây

chính là một trong những nguồn tư liệu tin cậy trong việc tìm hiểu quan niệm
của Augustinô về con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ quan niệm của Augustinô về con
người và phân tích ảnh hưởng của quan niệm này đến triết học hiện sinh của
Karl Jaspers.


8
Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích bối cảnh ra đời tư tưởng triết học của Augustinô
- Phân tích những nội dung cơ bản, giá trị và hạn chế của quan niệm
của Augustinô về con người.
- Phân tích những ảnh hưởng tư tưởng của Augustinô trong dòng chảy
tư tưởng phương Tây, như một trong những tiền đề tư tưởng sâu xa của chủ
nghĩa hiện sinh nói chung và triết học hiện sinh của Karl Jaspers nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của Augustinô về con người
và sự ảnh hưởng của nó đối với triết học hiện sinh của Karl Jaspers.
Phạm vi nghiên cứu
Cả hai triết gia Augustinô và Jaspers để lại cho chúng ta hàng chục tác
phẩm. Tuy nhiên, luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng của Augustinô
thông qua hai tác phẩm: Tự thuật
*
(Confessiones) và Thành đô của Chúa (De
civitate Dei); Đối với tư tưởng triết học hiện sinh của Karl Jaspers chủ yếu
thông qua tác phẩm Nhập môn triết học (Einfűhrung in die philosophie) và tác

phẩm C¸c nhµ triÕt häc lín (Die Groβen Philosophen) (Phần viết về Platon và
Augustinô).


*
Hiện tại, ở Việt Nam có thể tìm thấy 3 bản dịch khác nhau của tác phẩm Confessiones:
- Bản dịch thứ nhất là cuốn : Tự thú - Tủ sách đạo đức của các nhà giáo dục (không rõ dịch giả,
năm xuất bản và nhà xuất bản). Bản dịch này là bản lược dịch 10 quyển đầu của cuốn
Confessiones và hoàn toàn bỏ 3 quyển cuối của tác phẩm này.
- Bản dịch thứ hai là cuốn: Tự thuật (không rõ người dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo xuất bản năm
2005. Bản dịch này đã dịch toàn bộ 13 quyển của cuốn Confessiones.
- Bản dịch thứ ba là cuốn: Tự thuật (dịch giả Vân Thúy), Nhà xuất bản Tôn giáo xuất bản năm
2010. Đây là bản dịch từ bản tiếng Pháp của Louis De Mondadon. Bản dịch cũng dịch đủ 13
quyển của cuốn Confessiones nhưng theo xu hướng lược dịch những nội dung cơ bản.
Qua đối chiếu giữa các bản dịch và đối chiếu với một số tài liệu khác, tôi nhận thấy rằng bản dịch
thứ hai là bản dịch có độ tin cậy cao nhất. Do đó, trong luận văn, tôi sử dụng bản dịch này để nghiên cứu tư
tưởng của Augustinô.

9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn đã vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải
quyết vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: phương
pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp nghiên
cứu văn bản
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống lại những tư tưởng của Augustinô về con người như

một nguồn gốc tư tưởng sâu xa của triết học hiện sinh nói chung và tiêu biểu
là tư tưởng triết học hiện sinh của Karl Jaspers.
Luận văn phân tích giá trị và hạn chế lịch sử của Augustinô và Jaspers
về vấn đề con người.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những nội dung có liên quan đến tư tưởng triết học của Augustinô, triết
học của Karl Jaspers nói riêng, triết học thời trung cổ và triết học hiện sinh
nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương và 8 tiết.






10
Chương 1
BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA AUGUSTINÔ

1.1. Tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Augustinô
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
Bối cảnh lịch sử cho sự ra đời của triết học của Augustinô gắn liền với
giai đoạn đế chế La Mã đang suy tàn và sự hình thành chế độ phong kiến
trung cổ ở Tây Âu. Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động và khủng hoảng,
Augustinô đã đề cập đến vấn đề con người và khát vọng tìm kiếm hạnh phúc
cho con người. Đây cũng chính là một vấn đề trọng tâm trong triết học của
ông.

Thời kỳ trung cổ có thể được tính từ khi chế độ La Mã tan rã vào cuối
thế kỷ IV - đầu thế kỷ V cho đến sự kiện Constantinop bị xâm chiếm vào năm
1453 hay khi khởi đầu các cuộc cải cách tôn giáo năm 1517. Thời kỳ này đã
gây ra những tranh luận trái chiều. Trước đây, nhiều ý kiến cho rằng thời
trung cổ đồng nghĩa với “đêm trường” và là “sự gián đoạn của lịch sử phương
Tây”. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thời trung cổ khách quan và đầy đủ hơn,
chúng ta cần có nhãn quan khác về thời kỳ này. Hiện nay, khi tìm hiểu về thời
trung cổ nói chung và học thuyết của các triết gia trung cổ nói riêng, mọi đánh
giá thiên kiến đều là phiến diện.
Đã từng có ý kiến nghi ngờ rằng, thời kỳ trung cổ ít có triết học đích
thực bởi thần học lên ngôi. Triết học đứng trên mảnh đất của đức tin thì
không phải là triết học thuần tuý theo đúng nghĩa của nó. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, những nghi ngờ như thế ít có cơ sở. Những nghiên cứu về thời
trung cổ một cách nghiêm túc đã cho thấy rằng, thực chất thời kỳ trung cổ có

11
triết học và thậm chí các triết gia trung cổ còn đề cập đến nhiều vấn đề triết
học đích thực với những phương pháp, quan điểm đặc trưng của triết học.
Trong hệ thống triết học của thời kỳ trung cổ nói chung và trong triết
học của Augustinô nói riêng, nội dung nổi bật đó là sự đối lập nhưng đồng
thời cũng là sự tương hỗ lẫn nhau giữa tri thức và đức tin. Nghĩa là, triết học
và tư tưởng Kitô giáo không bài trừ nhau mà tương hỗ, bổ sung cho nhau, tôn
nhau lên. Đó là một sự thống nhất có trật tự [xem thêm 34, tr.3 - 4].
Thời trung cổ hình thành gắn liền với sự tan rã của đế chế La Mã cổ
đại. Thế kỷ III - IV ở châu Âu, Đế chế La Mã đang trên con đường suy tàn.
Sự phân hoá trong xã hội diễn ra mạnh mẽ, đồng thời phải đối diện với sự đe
dọa xâm lược của các tộc người khác, chủ yếu là người Giécmanh. Về kinh tế
cũng có những biến đổi to lớn, phương thức sản xuất mới - phương thức sản
xuất phong kiến dần dần hình thành.
Khoảng thời gian mà Augustinô sống cũng được xem như là thời kỳ

“quá độ”, thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn Hi - La cổ đại sang giai đoạn trung
cổ. Do đó, tất cả mọi mặt của điều kiện kinh tế - xã hội đều có những bước
chuyển mình. Đây là thời kỳ diễn ra sự biến động và khủng hoảng sâu sắc về
xã hội và tư tưởng, trong đó nổi bật là khủng hoảng về hệ giá trị. Hệ giá trị
của Hi - La cổ đại mất dần vị thế. Hàng loạt giáo thuyết, học thuyết xuất hiện
nhằm tạo ra một hệ giá trị mới thay thế cho sự suy tàn của hệ giá trị cũ. Trong
số những học thuyết lúc đó, nổi bật là Kitô giáo.
Sự suy tàn của đế chế La Mã lại trở thành một trong những điều kiện
mở đường cho sự thắng lợi của Kitô giáo. Vào thế kỷ IV, Kitô giáo đã chinh
phục toàn bộ Địa Trung Hải, đặc biệt với “chỉ dụ Milan” của hoàng đế
Constantine năm 313, Kitô giáo đã mở rộng sang đế chế La Mã. Cuối thế kỷ
IV, dường như đa số dân cư phần phía đông của đế chế La Mã đã được Kitô
hoá. Đó chính là khởi đầu của vương quốc Kitô giáo. Tuy nhiên, sự dễ dàng

12
của niềm tin tôn giáo ấy đã khiến cho Kitô giáo đối diện với nguy cơ đức tin
bị sao nhãng và sự cạnh tranh của các học thuyết khác. Lúc này, mặc dù Kitô
giáo đang dần khẳng định được vị thế của mình nhờ sự nhiệt huyết của những
vị thánh đầu tiên của giáo hội. Tuy nhiên, để chống lại giáo lý của những học
thuyết khác vẫn cần có sự luận chứng cho Kitô giáo một cách hệ thống.
Từ bối cảnh lịch sử như vậy đã xuất hiện những giáo phụ học đầu tiên
đặt nền móng cho Kitô giáo như: Phaolo, Origien, Tectulieng, Justin,
Ambrosio, Augustinô … Trong đó, Augustinô được xem là một trong những
nhà giáo phụ học vĩ đại nhất, là một trong những trụ cột của Kitô giáo và tư
tưởng phương Tây. Các giáo phụ còn được xem như những người xây dựng
nền tảng cho triết học và thần học trung cổ. Họ cũng đồng thời đóng vai trò là
chiếc cầu nối triết học cổ đại và triết học trung cổ.
Thời kỳ giáo phụ học là giai đoạn đầu của thời kỳ trung cổ. Các nhà
giáo phụ là những người đặt nền móng và cũng là những người có ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của Kitô giáo cũng như Giáo hội. Các giáo phụ được

chia thành 2 nhóm: các giáo phụ La tinh và các giáo phụ Hy Lạp (sự phân
chia được căn cứ vào ngôn ngữ mà các giáo phụ sử dụng khi viết các tác
phẩm của họ). Những nhà giáo phụ Hi Lạp là những người viết các tác phẩm
bằng tiếng Hi Lạp. Các giáo phụ La Tinh là những giáo phụ viết các tác phẩm
bằng tiếng La Tinh. Trong đó, các giáo phụ Hi Lạp ảnh hưởng đến Kitô giáo
phương Đông nhiều hơn, còn các giáo phụ La Tinh lại có ảnh hưởng đến
truyền thống Kitô giáo phương Tây [xem thêm 37, tr.369].
Augustinô là một trong những giáo phụ La tinh tiêu biểu nhất và có tầm
ảnh hưởng lớn ở phương Tây. Lập trường của Augustinô hướng tới sự tổng
hợp tích cực và có ý nghĩa lịch sử to lớn ở phương Tây từ trước tới nay.



13
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học của Augustinô
Augustinô đã xây dựng cơ sở vững chắc cho triết học trung cổ và Kitô
giáo: “Trong số tất cả các tác phẩm quan trọng nhất của các Cha viết về thời
Trung cổ, và thật ra cũng quan trọng đối với Đạo Cơ Đốc sau này, là tác phẩm
của thánh Augustinô, Giám mục xứ Hippo, sống vào cuối thế kỷ IV, đầu thế
V” [4, tr.204].
Augustinô đã viết phần lớn những tác phẩm khi đã ở giai đoạn chín
muồi về tài năng và trải qua những trải nghiệm thực sự. Do đó, tương đối có
sự nhất quán về tư tưởng trong các tác phẩm của ông.
Trước khi xây dựng học thuyết của mình, Augustinô đã tiếp xúc với
nhiều triết thuyết từ cổ đại đến đương thời. Nhờ khả năng bao quát và sự tổng
hợp tích cực, Augustinô đã xây dựng nên hệ thống triết học của mình - được
xem như là nền móng cơ sở của triết học trung cổ nói riêng và phương Tây
nói chung. Ông còn được đánh giá là một trong những nhân vật quan trọng
trong tư tưởng phương Tây, được xếp ngang hàng với Platon và Aristole.
Triết học thời kỳ các giáo phụ được xem là thời kỳ giao thoa giữa các

trào lưu tư tưởng trước công nguyên và đầu công nguyên. Hầu hết các giáo
phụ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc và kế thừa những tư tưởng của các triết gia
Hi Lạp, như là tiền đề để xây dựng học thuyết của mình. Các triết gia Hi Lạp
có sự ảnh hưởng sâu sắc đối với tư tưởng thời kỳ các giáo phụ cũng như tư
tưởng thời kỳ trung cổ, tiêu biểu là: Platon, phái Platon mới, Aristole, Pitagor,
phái Khắc Kỷ, Philon… “Triết học cổ đại đã chuyển tải một di sản tinh thần
mà hiện nay vẫn sống động trong tư tưởng phương Tây… Triết học cổ đại
không bao giờ lỗi thời… tư tưởng của Platon, Aristole, phái Platon mới, triết
học của phái Khắc Kỷ… đều là nền tảng tư tưởng của thế giới quan trung cổ”
[33, tr.3].

14
Đối với Augustinô, những học thuyết ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành triết học của ông cần phải kể đến: Tư tưởng của Platon, phái Platon mới
(đặc biệt là tư tưởng của Plotin), những bức thư của thánh Phaolo, tư tưởng
của thánh Ambrosio, tư tưởng triết học trong Kinh thánh…
Thomas Aquinô đã nhận xét về Augustinô trong tác phẩm Tổng luận
thần học như sau: “Augustinô hoàn toàn tiếp thu tư tưởng của phái Platon.
Những gì ông tìm thấy, ông đều tiếp nhận nó phù hợp với đức tin. Nếu thấy
chỗ nào chưa thật phù hợp với đức tin thì ông cải biến hoàn thiện chúng”
[Dẫn theo 34, tr.21].
Chính bản thân Augustinô cũng nhận định có sự gần gũi giữa những
người phái Platon mới với triết học thời kỳ ông. Sự ảnh hưởng của phái
Platon mới và Kinh thánh đối với Augustinô mạnh mẽ đến mức người ta gọi
ông là người đã “Kitô hoá” triết học của Platon.
Thứ nhất, về tư tưởng của phái Platon mới, đặc biệt là tư tưởng của
Plotin
Phái Platon mới được xem là những triết gia thực hiện sứ mệnh tái sinh
tư tưởng của Platon trên quy mô lớn. Các nhà tư tưởng phái Platon mới cũng
tự nhận mình là những người kế thừa Platon. Các khái niệm, thậm chí ngôn từ

của Platon thực sự trở về trong tác phẩm của phái Platon mới một cách đầy
đủ. Tuy nhiên, trong đó cũng có ít nhiều điểm mới mẻ. Tư tưởng của phái
Platon mới có tác động lớn, ảnh hưởng lớn đến Kitô giáo nguyên thuỷ và thời
trung cổ.
Trong số những triết gia của phái Platon mới, Plotin là triết gia tiêu
biểu nhất, là người sáng lập thực sự của phái Platon mới. Augustinô đọc tác
phẩm của Plotin trong bản dịch tiếng La tinh của tác giả Marius Victorianus
(sự kiện này ông đã viết trong cuốn Tự thuật). Những quan điểm cơ bản trong
triết học của Plotin như: Chúa trời là Đấng duy nhất, Đấng thánh thiện; Khái

15
niệm sự phát xạ, tư tưởng về sáng thế; tư tưởng về linh hồn… đều được
Augustinô tiếp thu. Chúng ta dễ dàng nhận thấy tư tưởng của Plotin về Chúa
trời là Đấng duy nhất, có trước mọi sự, sản sinh ra mọi vật, nằm ngoài không
gian và thời gian, là cái toàn thiện, toàn hảo… lại được tái hiện sống động
trong tư tưởng của Augustinô. Ngoài ra, những tư tưởng về “hồi tưởng” ở
Platon hay “phát xạ” ở Plotin hoặc tư tưởng sáng thế… cũng được Augustinô
kế thừa. Một trong những tư tưởng sáng tạo của Plotin được Augustinô tiếp
thu một cách triệt để là tư tưởng về tình yêu, ý chí. Theo Plotin, “những hệ
quả của cái Duy nhất (Chúa) chỉ là những biểu hiện cụ thể của ý chí của cái
Duy nhất, bởi vì cái Duy nhất không thể gây tác động nếu thiếu mong muốn.
Hoạt động của cái Duy nhất phù hợp với lương tâm bản chất của nó. Ý chí và
bản chất của cái Duy nhất là như nhau” [Dẫn theo 33, tr.364]. Trong tư tưởng
của Augustinô, có thể thấy sự hiện diện của Chúa trời như một nhân cách, với
ý chí toàn năng. Luận điểm của Plotin về nhân cách con người và sự hướng
đến Chúa, như tồn tại chân chính và tiên khởi, cái khởi nguyên, cái đích thực
trong con người… là cách con người hướng đến sự tồn tại của mình.
Augustinô cũng nhắc đến quan điểm tương tự trong học thuyết về linh hồn:
Chúa thông qua linh hồn con người và linh hồn con người thông qua Chúa.
Trong tác phẩm Tự thuật (Confessiones), Augustinô đã thuật lại ảnh

hưởng của Plotin với ông: “Trong sách đó con đã đọc… mọi vật đều nhờ Ngài
mà thành sự, và không Ngài thì không có gì thành sự được…” [1, tr.433 -
434]. Những tư tưởng của Plotin đã soi sáng tạo nên một bước ngoặt trong
việc tìm hiểu về Thiên Chúa và Kitô giáo. Augustinô đã viết: “Sau khi đọc
các sách của phái Platon, con thấy mình được thúc giục phải tìm chân lý vô
hình và con đã thấy những sự vô hình về Chúa được trí khôn hiểu biết qua
những việc Chúa làm … lúc đó con biết rằng: Chúa hiện hữu, Chúa vô cùng,
mà không tràn lan qua không gian hữu hạn hay vô hạn, Chúa thật là Đấng tự

16
hữu, bao giờ cũng vốn là một, không khi nào trở thành ai khác, hay sống cách
khác, do sự phân chia hay sự biến đổi nào hết” [1, tr.450 - 451].
Tư tưởng của Plotin đã mở đường cho Augustinô tìm hiểu Kinh thánh
và cũng là tư tưởng nền tảng để Augustinô hiểu bản chất của sự vật hiện
tượng, hiểu về thiện ác … Đó là những tư tưởng mở đường “hoán cải” cuộc
sống và tư tưởng của Augustinô. Đó là cơ sở nền tảng lý luận để Augustinô
xây dựng học thuyết của mình.
Thứ hai, những bức thư của Phaolo đóng một vai trò to lớn đối với
Augustinô
Augustinô đã viết: “Con rất ham mê cầm giữ sách đáng kính của Thần
Linh Chúa, và nhất là sách của Tông đồ Phaolo. Và con thấy tan biến mọi
thắc mắc, mà trước đây, đã làm cho con thấy như ngài tự phản lại mình và lời
nói của ngài như không hợp với các chứng cứ lề luật và các tiên tri … Con đã
bắt đầu làm việc và nhận thấy là tất cả những gì chân thật, mà con đã đọc
được ở sách của Platon, đều được trình bày trong sách này …” [1, tr.453].
Những bức thư của thánh Phaolo đã mở đường cho Augustinô đến với Kinh
thánh và Kitô giáo.
Phaolo là một trường hợp đặc biệt trong số những người có ảnh hưởng
lớn đối với Kitô giáo. Ông cũng là người bị tranh cãi nhiều giữa người Do
Thái và Kitô giáo. Những bức thư của Phaolo được ghi trong Kinh thánh

được xem là bằng chứng sống động nhất về công lao của ông đối với Kitô
giáo. Trong những bức thư của mình, Phaolo đã đề cập đến những vấn đề nền
tảng của tư tưởng Kitô giáo: Về nước Trời, về tội lỗi, về sự cải hóa, về mạc
khải, về sự công chính hóa, về tình yêu thương… [xem thêm 37, tr.35 - 71].
Với những nội dung mang tính phổ quát như vậy, những bức thư của Phaolo
đã mở đường cho Augustinô tìm đến với Kitô giáo.

17
Thứ ba, ảnh hưởng của Giám mục Ambrosio có một tác động không
nhỏ đến Augustinô
Khi đến Milan để dạy tu từ học, Augustinô đã gặp Giám mục
Ambrosio. Lúc này Augustinô vẫn chưa từ bỏ học thuyết của phái Mani. Ban
đầu Augustinô tìm đến Ambrosio chỉ vì ham thích tài thuyết giảng và tò mò
về một người có tài hùng biện. Do vậy, Augustinô chỉ nghe mà không hề để ý
nội dung những gì Ambrosio đã nói. Tuy nhiên, khi có điều kiện tiếp xúc
nhiều hơn, Augustinô đã bị lôi cuốn bởi sự đức độ, đức khiêm tốn của
Ambrosio và ông đã từ bỏ phái Mani. Sau này, Ambrosio cũng chính là người
làm lễ rửa tội cho Augustinô.
Ambrosio đã giải thích về Kinh thánh với những ý nghĩa sâu xa nhưng
lại dễ hiều. Điều đó đã khiến Augustinô thích thú với việc nghiên cứu ý nghĩa
thâm thuý của Kinh thánh ẩn chứa dưới những từ ngữ đơn sơ. Cũng chính sự
ảnh hưởng mạnh mẽ của Ambrôsiô, sau này khi chú giải Kinh thánh,
Augustinô thường nhấn mạnh ý nghĩa thiêng liêng hơn là nghĩa đen.
Augustinô đã nói về Ambrosio: “Con cũng vui mừng vì được chỉ bảo phải
đọc các sách Cựu ước về lề luật và các tiên tri, không phải với cái nhìn xưa
kia, đã cho con thấy bao nhiêu điều phi lý, đã làm cho con buộc tội các vị
thánh của Chúa về những tư tưởng mà thực ra các ngài không có. Nhiều lần
con cũng sung sướng được nghe thánh Ambrosio, trong các bài giảng cho dân
chúng đã kỹ càng căn dặn điều này như một quy luật: “Văn tự giết chết, thần
khí mới tác sinh”. Và khi cất bỏ chiếc màn thần bí, ngài cho thấy ý nghĩa

thiêng liêng của các đoạn văn…” [1, tr.376 - 377]. Từ đó Augustinô đã đưa ra
nhận xét: “Vì những sự con không trông thấy, con cũng muốn biết được chắc
chắn như 7 với 3 là 10. Thực ra con chưa điên để đủ hiểu rằng: sự hiểu biết
không hoàn toàn đạt tới định lý số học như vậy” [1, tr.377]. Từ sự hướng dẫn
của Ambrosio, Augustinô đã tìm được cách lý giải những tầng nghĩa sâu xa

18
của Kinh thánh làm cơ sở cho những suy tư triết học của mình. “Và con thấy
rằng uy thế của Thánh kinh càng được tôn trọng và đáng tin hơn, khi nó vừa
dễ hiểu cho mọi người muốn đọc, vừa dành vinh dự màu nhiệm cho những trí
tuệ sâu sắc hơn. Với từ ngữ rất rõ ràng, với văn thể rất đơn sơ, Thánh kinh tự
hiến cho mọi người nhưng lại khích lệ sự cố gắng của những kẻ không phải
“nhẹ dạ”. Cho nên Kinh thánh đón nhận mọi người ở công trường nhưng chỉ
để cho một thiểu số đi qua cổng nhỏ hẹp để đi tới Chúa” [1, tr.381].
Thứ tư, ảnh hưởng của Kinh thánh đối với Augustinô là không thể phủ
nhận
Có thể nói rằng Kinh thánh là một trong những nguồn mạch tư tưởng,
một trong những cơ sở cho suy tư triết học của Augustinô. Hầu hết các tác
phẩm của Augustinô đều trích dẫn Kinh thánh, nhằm mục đích luận chứng
cho Kinh thánh và giáo lý Kitô giáo.
Kinh thánh theo tiếng Hi lạp có nghĩa là “những cuốn sách”. Đó là tập
hợp những cuốn sách với những tên gọi và đặc thù khác nhau. Các cuốn sách
trong Kinh thánh được chia thành hai phần: Cựu ước và Tân ước. Cựu ước
được bắt đầu sưu tập từ năm 1300 đến năm 100 TCN. Tân ước được sưu tập
từ thế kỷ 1 đề cập tới sự hiện thân của Chúa Giêsu và những gì gắn liền với
ngài. Các văn bản Kinh thánh được viết bằng 3 thứ tiếng: Hebrơ, tức Do Thái
cổ (phần lớn Cựu ước), một phần nhỏ viết bằng tiếng Aramia và một số văn
bản Cựu ước cùng toàn bộ Tân ước được viết bằng tiếng Hi Lạp. Vào thế kỷ
thứ III, toàn bộ Kinh thánh được dịch sang tiếng Hi Lạp. Thế kỷ thứ IV, Đức
cha Jêronim đã dịch Kinh thánh sang tiếng La Tinh. Bản dịch này được coi là

chính thống đối với Giáo hội phương Tây [xem thêm 27, tr.184 - 185].
Sự xuất hiện của Kitô giáo được xem là một bước ngoặt trong sự phát
triển tư tưởng phương Tây - đánh dấu một loại hình triết học mới với nội
dung tư tưởng cơ bản của Kinh thánh.

19
Tư tưởng cốt lõi của Kinh thánh là về Chúa và con người. Kinh thánh
có quan niệm rất độc đáo và sáng tạo về Chúa - như là một nhân cách. Biểu
hiện rõ nhất thông qua hình tượng của Chúa Giêsu. Từ quan niệm như vậy,
trong Kinh thánh đã xác lập mối quan hệ rất gần gũi, yêu thương giữa Chúa
và con người. Tuy nhiên, về bản chất Chúa lại đứng trên tất cả vạn vật.
Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới vạn vật và con người từ hư vô. Con
người được sáng tạo theo hình ảnh của Chúa. Đó là sự sáng tạo đặc biệt, là
trung tâm của sự sáng tạo. Điểm đáng lưu ý trong tư tưởng Sáng thế của Kinh
thánh đề cập đến chính là “bên cạnh yếu tố chấn chỉnh”, thì Chúa mang lại tự
do cho thế giới. Do vậy, tồn tại thế tục “có khả năng đi chệch khỏi ý Chúa”
[xem thêm 27, tr.190 - 191]. Tình yêu của Chúa đối với con người thể hiện
yếu tố nhân từ và vị tha. Do đó, thái độ của con người đối với Chúa đòi hỏi
chân lý mặc khải và tình yêu đối với Chúa.
Con người được hưởng đặc ân từ Chúa và được mang hình ảnh của
Ngài. Do đó con người trở thành trung tâm của trần gian. Con người sẽ có
được cuộc sống tốt đẹp nếu sống có đạo đức, tuân thủ các điều răn, các lề luật
của Chúa… đã mặc khải trong Kinh thánh, đồng thời có niềm tin, hy vọng và
lòng kiên trì để vượt qua khó khăn, đau khổ, tội lỗi của thế giới trần tục.
Tất cả những nội dung của Kinh thánh in đậm dấu ấn trong tư tưởng và
trong những tác phẩm của Augustinô. Hầu hết các tác phẩm của Augustinô
nhằm luận chứng cho Kitô giáo và chống lại các thuyết khác mà ông coi là
các tà thuyết. Bên cạnh đó Augustinô còn hệ thống lại một số những tư tưởng
của Kinh thánh, trong đó có 10 điều răn của Chúa [xem thêm 51, tr.191 -
196].

Augustinô đã có sự tổng hợp hết sức tích cực để tạo nên hệ thống triết
học của mình. Đó là sự kế thừa có chọn lọc những học thuyết triết học cổ đại,
tư tưởng của các triết gia cùng thời và tư tưởng của Kinh thánh. Sự độc đáo

20
trong triết học của Augustinô là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư
tưởng với những trải nghiệm cuộc đời đầy ắp mâu thuẫn và biến cố. Điều đó
một mặt khẳng định một nhân cách vĩ đại, mặt khác tạo nên những tác phẩm
để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử tư tưởng phương Tây.

1. 2. Đôi nét về thân thế và các tác phẩm của Augustinô
1.2.1. Thân thế
Cuộc đời với nhiều biến động và khủng hoảng của Augustinô có ảnh
hưởng rất lớn đối với sự hình thành tư tưởng triết học, cũng như sự nghiệp vĩ
đại của ông. Có thể nói rằng “trong trường hợp của Augustinô, ta thấy bản
tính của con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu tư
tưởng của con người. Tính khí của cái dòng máu người Cacphaghen, bản lĩnh
của người La Mã và trước hết là sự vĩ đại trong trái tim của người La Mã
không phải là cái gì đó xa lạ với con người, nhưng cũng không phải ai cũng
có được” [34, tr.31 - 38].
Augustinô sinh năm 354 tại Tagate, Numidia, Bắc Phi, thuộc Roman
trong một gia đình thành thị. Cha của Augustinô là Patrice, một người ngoại
đạo. Mẹ của ông là bà Monica, một Kitô hữu nhiệt thành. Cha của Augustinô
là một người tự do, vô lo. Ngược lại, mẹ Augustinô lại là người từ tốn và
mong muốn con trai mình theo Chúa, coi Chúa là người Cha đích thực. Sự
không thuần nhất trong gia đình cùng với những cuộc tranh luận của cha mẹ
đã khiến Augustinô xem nhẹ những lời giáo huấn, trở nên bướng bỉnh, nghịch
ngợm, ghét học hành, ham chơi và không từ một trò gian dối nào.
Mặc dù cha mẹ của Augustinô có nhiều bất đồng song họ lại thống nhất
với nhau trong việc mong muốn cậu con trai của họ có một cuộc sống hạnh

phúc, một tương lai sáng lạn, giàu có. Cha của Augustinô tìm mọi cách để tạo
điều kiện cho con trai có thể học hành thật tốt. Năm 13 tuổi, Augustinô được

21
gửi đến Madaura để học ngành tu từ học - một ngành rất có tương lai lúc đó.
Tại đây, một sự biến đổi lớn đã xuất hiện, từ một học trò lười học, ham chơi,
Augustinô đã trở nên chăm chỉ và tiến bộ mau chóng. Trong các môn học thì
ông say sưa nhất môn tiếng La Tinh và văn chương cổ điển Roma, còn ghét
môn tiếng Hi Lạp. Trong hai năm cuối, do cha của Augustinô không đủ điều
kiện chu cấp tài chính nên ông phải trở về Tagate.
Việc dang dở học hành đã tạo nên những sự kiện khủng hoảng đầu tiên
trong lối sống và tinh thần của Augustinô. Trở về Tagate từ Madaura,
Augustinô đã dành toàn bộ thời gian nhàn rỗi của mình vào những trò quậy
phá, chơi bời. Sự tinh nghịch của một thiếu niên cùng với sự phóng túng quá
đà của một thanh niên đã đẩy Augustinô buông mình trong những thói hư, tật
xấu: phá phách, trộm cắp, đam mê nhục dục Những điều này đã được
Augustinô viết trong Tự thuật: “Vào năm con 16 tuổi, vì gia đình thiếu
phương tiện, con không đi học nữa, thì các gai góc mọc lên quá đầu con, mà
không một bàn tay nào nhổ chúng đi cho” [1, tr.228]. Sự bàng quan và dễ dãi
của người cha đã gián tiếp tiếp tay cho sự phá phách của Augustinô, làm thổi
bùng lên ngọn lửa đam mê trong tâm hồn ông. Gạt sang một bên tất cả sự
khuyên can, năn nỉ của người mẹ, trong suốt quãng thời gian nghỉ học giữa
chừng, Augustinô đã chạy theo những đam mê xấu xa cùng đám bạn hư hỏng.
Năm 17 tuổi, khi cha Augustinô đã chắt bóp đủ tiền để cho ông tiếp tục
theo học, Augustinô lên đường tới Carthage học tiếp môn tu từ học, với khát
vọng thành đạt, địa vị, giàu sang và một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Tuy nhiên,
Carthage cũng như các thành phố lớn lúc đó tràn ngập những đam mê, cám dỗ
suy đồi của sự phù hoa đã dễ dàng lôi kéo Augustinô chìm đắm trong những
đam mê khoái lạc. Trong quãng thời gian đầy tội lỗi ấy, Augustinô đã đính
ước với một phụ nữ. Sau một năm, người phụ nữ ấy đã sinh cho Augustinô

một cậu con trai và Augustinô đã đặt tên là Adeodat (có nghĩa là “món quà

22
của Chúa”). Trong cuốn Tự thuật, Augustinô ít nhắc đến người phụ nữ này và
cũng không nêu tên bà, nhưng ông đã sống với bà 15 năm, sau đó hai người
đột ngột chia tay vào năm 385.
Trong khi Augustinô đang học tại Carthage, cha của ông qua đời. Sự ra
đi đột ngột của người cha, đã khiến cho cuộc đời của Augustinô rẽ sang một
hướng mới. 18 tuổi, Augustinô đã trở thành chủ gia đình thực sự. Sự nghiệp
học hành của ông một lần nữa lại dang dở. Augustinô phải bỏ học và đi dạy
môn tu từ học, nhằm đảm bảo cuộc sống cho cả gia đình. Với tài hùng biện
thiên phú và tư chất thông minh, Augustinô đã nhanh chóng vững vàng trong
nghề nghiệp. Tuy nhiên cùng với việc tạo chỗ đứng trong nghề nghiệp, những
khao khát danh vọng và tiền bạc của Augustinô cũng theo đó mà lớn lên.
Thời gian ở Carthage tuy đầy sóng gió nhưng cũng là thời điểm
Augustinô tiếp cận được sự ảnh hưởng về tư tưởng đầu tiên, khi ông đọc được
cuốn Hortensius của Cicero, bàn về các vấn đề triết học. Những cuộc tranh
luận về triết lý trong cuốn sách đã tác động mạnh đến tư tưởng của Augustinô,
khiến ông nhen nhóm tình yêu với triết học, muốn khám phá về “yêu mến sự
thông thái”. Những ấn tượng mạnh mẽ về triết học khiến Augustinô đã nhìn
lại quãng thời gian đam mê phóng túng của mình. Trong sự trào dâng những
suy tư nội tâm, Augustinô lần đầu tiên đã đọc Kinh thánh như một cứu cánh
của tâm hồn. Tuy nhiên, bản dịch La Tinh của Kinh thánh lúc đó không tốt
cùng với những tầng nghĩa ẩn dụ sâu xa của Kinh thánh khiến cho Augustinô
chán ngán. Bỏ lại Kinh thánh, Augustinô đã tìm cho mình một học thuyết
khác, đó là học thuyết của phái Mani (Manichaesm). Đây là giáo phái mang
danh Kitô giáo nhưng thực chất nó nghiêng về đa thần giáo, do một người Ba
Tư sáng lập và du nhập vào La Mã.
Sau một thời gian ở Carthage, Augustinô trở về Tagate làm giáo sư tu
từ học. Tại đây, Augustinô đã trở thành một giáo sư hùng biện có tiếng tăm.

×