Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh (qua thực tế tại trường Đại học Ngoại Thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*****






NGUYỄN THỊ THUÝ THANH





GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (QUA THỰC TẾ TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG)



CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60 22 80




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN VĂN KHÁI








HÀ NỘI -2007

NGUYỄN THỊ THUÝ THANH * LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC * HÀ NỘI - 2007



1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 4
2.Tình hình nghiên cứu đề tài 6
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Kết cấu của luận văn 8
Chƣơng 1 9
NỘI DUNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 9
1.1. Lý luận chung về đạo đức 9
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất của đạo đức 9
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức 9
1.1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của đạo đức 11
1.1.2. Chức năng và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội 14
1.1.2.1. Chức năng của đạo đức 14

1.1.2.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội 15
1.2. Nội dung tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh 19
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 19
1.2.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới 26
1.2.2.1. Trung với nƣớc, hiếu với dân 26
1.2.2.2. Yêu thƣơng con ngƣời 29
1.2.2.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ 31
1.2.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới 36
1.2.3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gƣơng về đạo đức 36
1.2.3.2. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi 39

2
1.2.3.3. Phải tu dƣỡng đạo đức suốt đời 41
Chƣơng 2 44
TẦM QUAN TRỌNG VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 44
2.1. Sự cần thiết phải giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh 44
2.1.1. Vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước 44
2.1.2. Thực trạng đời sống đạo đức thế hệ trẻ hiện nay 47
2.2. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay 60
2.3.Thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở trƣờng Đại học
Ngoại thƣơng hiện
nay……………………………………………………………………………
……………………………………………….…………… 68
2.3.1. Một số đặc điểm của sinh viên Đại học Ngoại thương 68
2.3.2. Thực trạng của việc giáo dục đạo đức ở Trường Đại học Ngoại thương 72
Chƣơng 3 87

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG 87
3.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
tại Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 87
3.1.1 Giáo dục lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc; trung với nước, hiếu
với dân 87
3.1.2. Giáo dục thế hệ trẻ các phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư 89
3.1.3. Giáo dục lòng nhân ái, trọng tình nghĩa, lối sống lành mạnh 92
3.1.4. Giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng 94
3.1.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh 95
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cƣờng giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh tại Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 99
3.2.1. Về mặt nhận thức, cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc tăng cường
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh 99

3
3.2.2. Vận dụng phương pháp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh 103
3.2.3. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội trong nhà trường 108
3.2.4. Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, tốt về phẩm chất đạo đức, gắn “dạy chữ” với “dạy người” 110
3.2.5. Nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên 112
3.2.6. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội . 115
3.2.7. Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật và ý thức thẩm mỹ cho sinh
viên 121
3.2.8. Hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho sinh viên 122
3.2.9. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa -

cơ sở của việc xây dựng nền đạo đức mới 124
KẾT LUẬN 126














4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - danh nhân văn hoá thế giới, vị anh hùng vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Người đã để lại một di sản lý luận quý báu
cho chúng ta học tập và noi theo. Đối với Đảng và cách mạng nước ta, việc
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là vấn đề có tính nguyên tắc số một, cần được quán triệt trong mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trân trọng ghi vào cương lĩnh: “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [16, tr.127]. Đại
hội IX tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta”[20, tr.21]. Quả thật, cách mạng Việt Nam có được thắng lợi như
ngày hôm nay là nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn
lối. Vì vậy trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta càng cần phải quán
triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những biến đổi sâu sắc về nhiều
mặt. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế và đang có những bước phát
triển mạnh mẽ. Văn hoá xã hội cũng có những tiến bộ đáng kể, đời sống nhân
dân tiếp tục được nâng cao, niềm vui đang đến với mọi nhà. Có thể nói, kinh
tế thị trường đã kích thích được tính tích cực, sáng tạo của mọi người, khắc
phục tình trạng ỷ nại, bảo thủ trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực đó, kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng gây nên

5
những tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội như: lối sống thực dụng, lãng
phí, xa hoa, nhiều tệ nạn xã hội cũng theo đó mà nảy sinh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã khẳng định:
Tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với đất nước ta hiện nay. Có thể
nói tham ô, lãng phí, xa hoa… đã trở thành căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội
Việt Nam hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, một trong
những nguyên nhân quan trọng đó là sự sa sút về đạo đức. Đáng nói hơn, sự
sa sút về đạo đức đã xuất hiện ở một bộ phận thanh thiếu niên, thế hệ trẻ của
chúng ta. Bên cạnh những sinh viên, học sinh có hoài bão, lý tưởng đúng đắn
vẫn còn không ít những thanh thiếu niên, sinh viên thờ ơ với lý tưởng đạo đức
cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng, xa hoa và sa vào các tệ nạn xã hội.
Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tăng cường giáo dục đạo đức cho mọi người, đặc
biệt là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước - học tập và làm
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, của
thế hệ trẻ cũng như của công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ đối với sự
phát triển của đất nước. Người luôn quan tâm sâu sắc đến việc giáo dục, bồi
dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người vừa "hồng" vừa "chuyên". Vì vậy,
việc nghiên cứu, vận dụng và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là một việc làm thực sự cần thiết hiện nay, đặc biệt đối với
Trường Đại học Ngoại thương - nơi đào tạo ra những người hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại - đòi hỏi sinh viên không chỉ giỏi về kiến thức chuyên
môn mà cần phải có đạo đức cách mạng, có phẩm chất chính trị vững vàng. Vì lẽ
đó, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng
Hồ Chí Minh (qua thực tế tại trường Đại học Ngoại Thương)” làm đề tài
nghiên cứu.

6
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng.
Đây là vấn đề không chỉ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học Việt
Nam mà còn thu hút không ít sự quan tâm của các nhà khoa học nước ngoài.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:
Đạo đức Hồ Chí Minh - tư tưởng nhân đạo, dân chủ, Phạm Ngọc Uyển,
Nxb Đà Nẵng, 1990.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống dân tộc và nhân loại,
Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Thành Duy chủ biên, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nguyễn Thế Thắng, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2002.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên,
Phạm Quốc Thành. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau,
Trần Quy Nhơn. Nxb Giáo dục, 2004…
Những công trình kể trên là nguồn tư liệu quý giúp tác giả tham khảo,
định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình; các công trình đó cũng đã nêu lên
một cách tổng quát về nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là thuận
lợi cơ bản cho tác giả trong quá trình nghiên cứu.Tuy nhiên, những công trình
này chưa đi sâu vào việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để giáo dục
cho thế hệ trẻ, đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Đại học Ngoại
thương. Đó là điểm mới mà luận văn này cần phải làm rõ.

7
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và
việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua thực tế
tại Trường Đại học Ngoại thương.
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một vấn đề có
phạm vi rộng mà việc nghiên cứu đòi hỏi nhiều sự đầu tư trí tuệ, công sức.
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung đề cập, nhấn
mạnh đến việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, sinh viên tại Trường Đại học
Ngoại Thương - học tập và tu dưỡng đạo đức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những nội dung cụ thể của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, công trình nghiên cứu góp phần luận giải sự cần
thiết và những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, mà
trước hết là tại Trường Đại học Ngoại thương, theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất, phân tích nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Thứ hai, nêu lên tầm quan trọng và thực trạng của việc giáo dục đạo
đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, nêu ra những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường giáo dục đạo đức
cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Đại học Ngoại Thương.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả khai thác trực tiếp tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển
của xã hội và về việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ; đồng thời dựa trên lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và hình thái ý thức đạo đức, các
quan điểm của Đảng về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc giáo dục đạo

8
đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh; tham khảo các công trình đã
công bố có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu bằng cỏc phương
pháp: phân tích, chứng minh, đối chiếu, so sánh, phương pháp kết hợp giữa
lịch sử và lôgic, lý luận gắn với thực tiễn trờn cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
thực trạng đạo đức của thế hệ trẻ và việc giao dục đạo đức cho thế trẻ hiện
nay, từ đó đề xuất các giải pháp giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho thế
hệ trẻ nói chung và sinh viên Trường Đại học Ngoại thương nói riêng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Chương 2: Tầm quan trọng và thực trạng của việc giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường giáo dục đạo đức

cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh tại Trường Đại học Ngoại thương.

9
Chƣơng 1
NỘI DUNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất của đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một phạm trù rất rộng nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc sống
hàng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức trên mọi lĩnh vực: đạo
đức gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp,v.v
nói rộng ra là đạo đức của cả một dân tộc. Tuy nhiên khi sử dụng cụm từ này,
ít ai quan tâm đến nội hàm của khái niệm. Vậy đạo đức là gì?
Với tư cách là bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La Tinh là mos (moris) - lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp,
đạo đức được xem như đồng nhất với “luân lý học” và được bắt nguồn từ chữ
Êthicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là nói
đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và
người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
đường đi. Về sau, đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo còn là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm Đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói
đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa,

là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ

10
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phải tuân theo.
Trước C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm lẫn duy
vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ
không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã
hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với các quan điểm trên, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, trước khi sáng lập các quan điểm tư tưởng,
lý luận, con người đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra các tư liệu vật
chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong các hình thái ý
thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội đó. Ý thức xã hội của con người là sự phản ánh tồn tại xã hội của họ.
Các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh những mặt khác nhau của đời
sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh
hành vi của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể hiểu khái
niệm đạo đức như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân và xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải là cái có sẵn ở đâu đó, nó được hình
thành từ khi có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người. Tuy
nhiên, hệ thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch
sử vì với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại
xã hội, mà tồn tại xã hội lại không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức
giúp con người điều chỉnh hành vi của mình, hướng con người tới cái tốt, cái

thiện.

11
1.1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm trong lịch
sử, nó được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Trong lịch sử, đã
có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất của đạo đức.
Tiêu biểu là một số quan điểm cơ bản sau đây:
* Quan điểm của tôn giáo:
Trong giáo lý của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo đều đề cập đến tính thiện. Điều đó khiến một số nhà tôn giáo hoặc ngộ
nhận, hoặc cố tình kết luận đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và đạo đức
mang bản chất tôn giáo. Họ cho rằng mọi ân đức đều do trời, do chúa, do thần
thánh đem đến và ban phát cho loài người. Thiên chúa giáo cho rằng, Thượng
đế là đấng tối cao có trách nhiệm ban phát phước lành và cứu rỗi cho loài
người và mỗi người phải có bổn phận chấp hành mọi nghĩa vụ trước Thượng
đế. Phật giáo thì cho rằng, có một thế giới thần tiên đối với con người, đó là
cõi “niết bàn”. Sai lầm của các quan điểm tôn giáo là đã đồng nhất đạo đức
với tôn giáo. Thực ra, đạo đức và tôn giáo tuy cùng đề cập đến tính thiện,
nhưng đạo đức khác về bản chất so với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều
xuất phát từ đời sống hiện thực, đều có giá trị thực tiễn đối với đời sống con
người. Còn tôn giáo là một thế giới do con người tưởng tượng ra, là thế giới
của hư ảo.
* Quan điểm tự nhiên
Những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng nguồn gốc của đạo đức
có từ bản năng động vật. Động vật cũng có hoạt động sinh con, nuôi con, cho
con ăn, bảo vệ con. Loài vật sinh sống và quan hệ với nhau một cách tự nhiên.
Xu hướng của loài vật là loài mạnh thắng loài yếu, vì chúng hành động theo
tính bản năng của nó. Do vậy có người cho rằng loài người cũng là một sinh
vật nên không tránh khỏi xu hướng tự nhiên vốn có này. Từ đó họ kết luận,


12
chủ nghĩa cá nhân, đạo đức vị kỷ là bản chất vĩnh viễn của con người. Con
người trước hết phải sống vì cái tôi, cho cái tôi.
Quan niệm trên đây là sai lầm, các loại sinh vật chưa bao giờ ý thức
được về nó. Mọi hoạt động của loài vật hoàn toàn chỉ dựa vào tính bản năng.
Điều này được C. Mác chỉ rõ: một người kiến trúc sư dù tồi nhất, vẫn hành
động khác về chất so với những con ong khéo léo nhất. Do đó không thể lấy
loài vật ra so sánh với loài người. Bản chất nổi bật nhất của con người không
phải ở bản chất tự nhiên. Cái tạo nên con người, làm cho con người khác loài
vật, chính là từ bản chất xã hội. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội.
* Quan điểm xã hội
Những người theo quan điểm xã hội cho rằng, cơ sở, nguồn gốc đạo
đức là từ đời sống xã hội, nhưng khi giải thích về bản chất đạo đức họ lại gắn
những suy nghĩ chủ quan nào đó. Họ coi đạo đức như những quy ước chung,
có tính chất chủ quan xã hội. Những chuẩn mực đạo đức hiện tồn tại trong xã
hội là do chủ quan của con người đặt ra, thành những tôn ti trật tự xã hội. Mỗi
người phải có nghĩa vụ, suy nghĩ và hành động theo những khuôn mẫu đó,
nếu làm trái sẽ bị đánh giá là vô đạo đức.
* Quan điểm của các học giả tư sản
Các học giả tư sản cho rằng, bản chất của đạo đức mang tính vĩnh viễn,
không thay đổi, đứng trên mọi giai cấp, có một thứ đạo đức chung cho tất cả
loài người đó là đạo đức tư sản.
Có thể nói, tất cả các quan điểm trên đều chưa giải thích một cách đầy
đủ và khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Họ không thấy được
cơ sở cho đạo đức ra đời đó chính là hiện thực xã hội, họ xoá nhoà bản chất
giai cấp của đạo đức. Những học thuyết đó đều nhằm bảo vệ cho lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin


13
Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích
một cách khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử, nó mang tính lịch sử. Chính con người bằng hoạt động thực tiễn
(mà trước hết là lao động sản xuất) và hoạt động xã hội, đồng thời qua kinh
nghiệm lịch sử của mình đã xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức nhằm
điều chỉnh hành vi trong mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và
cộng đồng xã hội
Bản chất của đạo đức không phải là một cái gì có sẵn, hoặc tiên định.
Nếu không có con người và xã hội loài người thì chẳng có đạo đức nào cả.
Đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa người và người về cái thiện và cái ác; tuy
nhiên quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện tượng xã
hội có tính người sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì nó có mặt
trong tất cả các quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt động của con người.
Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Mặt khác, đạo
đức còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn cảnh sống,
trước đồng loại. Do đó, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những yếu tố
khách quan và những nhân tố chủ quan. Mặt khách quan là những hiện thực
được phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là những nỗ lực vươn tới
của của con người nhằm đạt tới những giá trị đạo đức đích thực.
Nói cách khác, bản chất của đạo đức không phải là bất biến, đạo đức
luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Trong xã hội có
giai cấp, bản chất của đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong tác phẩm
Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen khẳng định: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết
về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của
xã hội lúc bấy giờ” [3, tr.137].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức
tương ứng. Từ đạo đức của xã hội nguyên thuỷ đến đạo đức của xã hội chiếm


14
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc thang
đánh dấu sự tiến bộ về mặt đạo đức của lịch sử loài người. Quá trình phát
triển đạo đức là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt, các hình thái sau
kế thừa các hình thái trước, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù hợp với
tồn tại xã hội tương ứng. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo xu
hướng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do lực
lượng sản xuất xã hội ngày phát triển và hoàn thiện. Nhưng cũng phải thấy
rằng nếu con người không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp với yêu cầu
cuộc sống, thì ý thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành vật cản đối với sự
phát triển xã hội.
1.1.2. Chức năng và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội
1.1.2.1. Chức năng của đạo đức
a. Chức năng giáo dục
Con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho
những hành vi của mình được xã hội chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên
án thì họ phải nắm được những quan điểm, những chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Chẳng hạn, nguyên tắc sống của con người phải trung thực, thật thà. Nhìn vào
nguyên tắc này, mỗi con người phải tự giác tuân theo, hoặc ai vi phạm, như
ăn cắp, nói dối sẽ bị dư luận phê phán. Vì vậy, chức năng giáo dục của đạo
đức đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách con người.
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục sẽ giúp con người
càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, nghĩa vụ, danh dự và những phẩm
chất đạo đức cần thiết của cá nhân mình đối với đời sống của cộng đồng. Nhờ
có chức năng giáo dục và tự giáo dục, con người học tập được ở những tấm
gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa, hy sinh quên mình cho đất
nước, kiên cường đấu tranh cho chân lý… Chính vì vậy làm cho xã hội ngày
càng công bằng, văn minh, tiến bộ.
b. Chức năng điều chỉnh hành vi


15
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức có tác dụng làm cho hoạt
động của con người phù hợp với các chuẩn mực của cộng đồng, với lợi ích
của xã hội. Nếu như pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh
cưỡng bức của nhà nước thông qua các đạo luật, thì đạo đức điều chỉnh hành
vi của con người qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư
luận xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống và sự kiểm soát của lương tâm.
Trong cuộc sống hiện thực, con người có rất nhiều mối quan hệ rất đa
dạng, phức tạp đòi hỏi phải giải quyết, nhất là các mối quan hệ có liên quan
đến lợi ích, chúng luôn có những mâu thuẫn giằng xé nhau buộc chủ thể đạo
đức phải đấu tranh với chính bản thân, nhiều lúc vô cùng quyết liệt. Những
mối quan hệ này lại nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, nếu
không dựa vào hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của
xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi là quá trình đấu tranh chiến
thắng của cái thiện với cái ác, của cái tốt với cái xấu, của cái lương tâm với
cái vô lương tâm. Như vậy, chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành
vi của đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.
c. Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Các quan điểm, chuẩn mực đạo đức
chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp yêu cầu phát triển của xã
hội. Vì vậy, nó được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những
khuôn mẫu về mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó mà tự xem xét, tự
đánh giá, tự điều chỉnh bản thân.
1.1.2.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội
Cách đây hàng nghìn năm, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được
các nhà xã hội học xem xét và bàn luận tới.


16
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI tr CN) đã khuyên
học trò “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn,
gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Mạnh Tử rất đề cao đạo
đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị. Trong xã hội Ấn Độ cổ
đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu ni sáng lập đã đề cập đến nhiều
vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ thống đạo đức Phật giáo là khuyên
con người sống thiện, biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục con
người được thông qua những truyền thuyết, các sử thi nhằm đề cao những giá
trị đạo đức của con người. Đó là nữ thần Atina đẹp như mặt trăng, đầy tình
nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt có tài - đức vẹn toàn. Ôđixê
là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực, lòng dũng
cảm, sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu…Tất cả những hình tượng đó đều
là những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của con người.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được các nhà nghiên cứu xã hội đặt ra rất
sớm. Đặc biệt trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, nhân dân ta đã đề cao
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp con người hướng tới
những điều tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trạng Quỳnh…đều
giáo dục con người hướng thiện và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Vấn đề đặt ra là tại sao con người lại sớm quan tâm đến đạo đức? Bởi
vì đạo đức có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Trong
đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống
trong xã hội, ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con
đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng
đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.

17

Thứ hai, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự, bình ổn
và phát triển xã hội. Xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay trì trệ, suy
cho cùng là do tính tự nguyện tự giác của con người, đồng thời do mức độ con
người nhận thức được quy luật và hành động phù hợp theo quy luật. Chính
đạo đức đã đóng vai trò quan trọng để tạo dựng nên cuộc sống tốt đẹp cho xã
hội và giúp con người hoàn thiện nhân cách. Từ khi con người và xã hội loài
người xuất hiện, đạo đức cũng hình thành và tham gia vào quá trình điều
chỉnh ý thức và hành vi của con người. Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần
quan trọng vào việc điều chỉnh thái độ, hành vi con người, qua đó điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Mặc dù pháp luật thì chặt chẽ, chính xác, ghi thành văn có
tính bắt buộc và khung hình phạt có nhiều nấc, nhưng lại không trừng phạt
được từ trong ý nghĩ (ý nghĩ phạm tội). Trong khi đó, đạo đức mang nặng tính
khuyên nhủ, khung hình phạt không có các nấc trung gian, chỉ có thiện và ác,
tốt và xấu, nhưng nó lại có thể trừng phạt người ta ngay từ trong ý nghĩ (ý
nghĩ xấu) nhờ sự phán xử của lương tâm. Đó chính là một nét đặc thù của đạo
đức, tạo nên sức mạnh to lớn của đạo đức trong đời sống xã hội.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận
thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và
người. Đồng thời đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, gìn giữ
phẩm giá, làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm
chất cao quý, đó là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn… Đạo đức
như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những
cái ác, cái xấu, giữ gìn và phát huy những cái tốt, cái thiện. Nói cách khác,
đạo đức luôn hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Xã hội loài người càng tiến lên thì vai trò của đạo đức cũng tăng lên, có thể
đạo đức sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con
người bằng pháp luật. Khi xã hội phát triển đạt đến trình độ văn minh cao thì

18

một số hình thái ý thức xã hội sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát
triển cùng với loài người.
Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời sống xã hội
có tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận động của xã hội thì nó sẽ
có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển; nếu ngược lại, nó sẽ gây nên
những tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng xã hội mới, chúng ta phải biết kế thừa và phát triển những giá trị
đạo đức truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực
đạo đức cũ, không còn phù hợp, đồng thời xây dựng những chuẩn mực đạo
đức mới nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.

19
1.2. Nội dung tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà cách mạng bàn
nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Mặc dù không phải là người chuyên nghiên
cứu về vấn đề đạo đức, cũng không có những tác phẩm lớn về đạo đức, nhưng
tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động trong những bài
nói, bài viết ngắn gọn của Người, quan trọng hơn chính cuộc đời Người là
một tấm gương sáng về đạo đức cho chúng ta học tập và noi theo.
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức
ở Việt Nam. Nhờ đó, nền đạo đức Việt Nam đã mang bản chất mới và được
Người gọi là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Gọi là đạo đức mới vì nó chưa
hề xuất hiện trong lịch sử, nó chỉ hình thành và phát triển cùng với tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Gọi là đạo đức cách mạng vì nó là đạo
đức phục vụ cách mạng, là đạo đức được nảy sinh và phát triển trong cách mạng.
Vậy, đạo đức cách mạng là gì?
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là “đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,

của dân tộc, của loài người” [40, tr.252], “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân" [44, tr.258].
Trong đạo đức của xã hội phong kiến, nhân dân là kẻ thấp hèn chỉ đáng
cho người “quân tử ” dạy bảo và sai khiến. Đạo đức tư sản được xây dựng
trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của giai
cấp tư sản là những kẻ cướp của chung do xã hội sản xuất ra làm của riêng để
chúng “ngồi mát ăn bát vàng” nhưng miệng chúng vẫn luôn huênh hoang
những danh từ “đạo đức “, “tự do”, “dân chủ”.
Hồ Chí Minh đã lật ngược lại các kiểu đạo đức cũ của các giai cấp
thống trị, áp bức nhân dân lao động. Theo Người đạo đức mới xoá bỏ các
chuẩn mực đạo đức phong kiến trói buộc con người vào những lễ giáo hủ bại,

20
phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong
kiến. Đạo đức mới hoàn toàn trái ngược với đạo đức cá nhân chủ nghĩa, ích
kỷ cực đoan của giai cấp tư sản. Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu
tư sản kìm hãm con người trong những lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi. Nó
cũng không giống với đạo đức tôn giáo luôn khuyên con người khắc kỷ, cam
chịu, chấp nhận số phận trong chốn trần tục để hướng tới cuộc sống tốt đẹp ở
thế giới bên kia… Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó phải tự xoá
đi những gì đã lỗi thời, lạc hậu, đạo đức cách mạng phá tan sự ràng buộc, nô
dịch về tinh thần mà chế độ phong kiến và thực dân đã đem lại cho nhân dân
ta. Cách mạng giải phóng cho con người về mặt kinh tế, chính trị, đồng thời
giải phóng cho con người về mặt đạo đức. Không có lý do gì khi con người
sống trong điều kiện kinh tế mới lại phải thực hiện những chuẩn mực đạo đức
của xã hội cũ.
Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức của Hồ Chí Minh là một sự biến
đổi về chất của truyền thống đạo đức, là sự phủ định biện chứng đối với đạo
đức cũ, kiên quyết xoá đi những cái đã lỗi thời của đạo đức phong kiến. Cái
mà đạo đức phong kiến tôn thờ chính là cái Hồ Chí Minh đã lật đổ một cách

triệt để. Đó là xoá bỏ vị trí độc tôn của vua chúa phong kiến, đặt vào đó vị trí
của người dân lao động, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao động từ
chỗ bị áp bức và bị thống trị trở thành người chủ đất nước. Hồ Chí Minh đã
từng nói rõ: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác
nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều.
Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới
như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [41, tr. 320,
321].
Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của đạo đức đối với người cách mạng.
Người khẳng đinh: Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách
mạng.

21
Hồ Chí Minh coi đạo đức như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông
suối: “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” [40, tr.252].
Vì sao người cách mạng trước hết phải có đạo đức?
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng bởi vì muốn làm cách mạng thì
trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc. Cái tâm, cái đức ấy lại phải
được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với nước, với
đồng chí, đồng nghiệp, với những người xung quanh mình. Người khẳng
định: “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một
công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã
hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” [40, tr.253].
Năm 1958, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành một xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang; nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất

nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [44, tr.283].
Đạo đức cách mạng có vai trò rất lớn trong sự nghiệp xây dựng đất
nước. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp thuận lợi hoặc thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn…” [44, tr.284]. Người kết luận:
“Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng, hay là không” [42, tr.480].
Hồ Chí Minh đề cập đến đạo đức cách mạng ở mọi đối tượng, nhưng
lĩnh vực Người quan tâm nhất là đạo đức cách mạng ở cán bộ, đảng viên.

22
Đối với người cán bộ, đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: “Nhận
rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân” [42,
tr.480]. Người cán bộ phải: “Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức
cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần
chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn” [41, tr. 50].
Đối với người đảng viên, “Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng…giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối, chính sách của Đảng” [44, tr.285], “Đạo đức cách mạng là hoà
mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng…”[44, tr.290].
Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Người đảng viên, người cán bộ tốt
muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó
hoàn toàn do lòng mình mà ra… Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt
ấy có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [40, tr.251].
Đối với thanh niên, đạo đức cách mạng là: “Bất kỳ ở cương vị nào, bất
kỳ làm một công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một

dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây
dựng chủ nghĩa xã hội ” [45, tr.306].
“Thanh niên phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách
mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
Trung thành: trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ
quốc, với Đảng, với giai cấp
Dũng cảm: không sợ khổ, không sợ khó thực hiện. “Đâu cần thanh niên
có, việc gì khó có thanh niên làm”, “gian khổ đi trước, hưởng thụ sau mọi
người”
Khiêm tốn: không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không
tự phụ” [45, tr.621].

23
Thanh niên “Phải giữ vững đạo đức cách mạng, phải khiêm tốn, cần cù,
hăng hái, dũng cảm. Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư, tự lợi”
[43, tr.263]. Thanh niên “Phải cố gắng học hỏi, để không ngừng nâng cao
trình độ chính trị, văn hoá và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”
[45, tr.106].
Đối với cán bộ quân sự, muốn có đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí
Minh phải có năm điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm. Phát biểu tại buổi lễ
phong quân hàm cấp tướng cho cán bộ cao cấp trong quân đội, Người yêu
cầu: “Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí phải trau dồi
đạo đức cách mạng… Dù ở cương vị nào chúng ta cũng phải cố gắng để xứng
đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân dân” [44, tr.496].
Đối với công nhân, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân là đạo
đức chân chính, là đạo đức tiến bộ của loài người bởi vì nó phục vụ lợi ích
của nhân dân, nó được hình thành trong đấu tranh cách mạng.
Đối với nhi đồng, “Đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu không
giống với người lớn. Ví dụ như đối với người nông dân tập thể thì là sản xuất
cho nhiều, cho tốt…Thầy giáo thì dạy cho tốt, cho dễ hiểu. Đạo đức cộng sản

chủ nghĩa đối với các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ luật
tốt ” [45, tr.680].
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức cách mạng, đồng thời Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra những căn bệnh trái với nó, những căn bệnh mà cán bộ, đảng viên
dễ mắc phải như: bè phái, nể nang, ham chuộng hình thức, chủ nghĩa cá
nhân…Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh đến căn bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách
mạng, “chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các
thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ như những bệnh sau đây: bệnh tham lam…
bệnh lười biếng…bệnh kiêu ngạo…bệnh hiếu danh… thiếu kỷ luật” [40,
tr.255,256].

24
Vì mắc phải chủ nghĩa cá nhân mà “có đảng viên còn “kể công” với
Đảng. Có ít nhiều thành tích thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ, họ đòi ưu đãi,
danh dự và địa vị… Nếu không thoả mãn nhu cầu của họ thì họ oán trách
Đảng…dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật
Đảng” [44, tr.289].
Đối với quân đội thì chỉ vì chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra thiếu kiên
quyết chấp hành mệnh lệnh, do đó mà: “đáng lẽ thắng to thì chỉ giành được
thắng nhỏ, và thắng rồi không phát triển được” [41, tr.318].
Đối với công an, chủ nghĩa cá nhân là: “so bì đãi ngộ, lương thấp cao,
quần áo xấu, đẹp, là uể oải, muốn hưởng thụ, an nhàn…” [44, tr.31].
Đối với sinh viên: “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra tư tưởng danh lợi, chỉ
muốn làm ông này, ông khác, bà này, bà khác” [44, tr.172].
Cùng với chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh ba căn
bệnh nguy hiểm trong cán bộ, đảng viên là: tham ô, lãng phí và quan liêu.
Người giải thích: “Bệnh quan liêu tỏ ra ở chỗ thích giấy tờ, xa quần
chúng, không điều tra nghiên cứu, không kiểm tra theo dõi việc thi hành,
không học tập kinh nghiệm của quần chúng” [41, tr.167]. Người cũng nêu ra

những nguyên nhân của căn bệnh ấy là: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân
dân, không tin cậy nhân dân, không yêu thương nhân dân…Từ đó chúng ta
phải mau chữa căn bệnh nguy hiểm ấy bằng cách: “Đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng phải bàn với nhân
dân, giải thích cho dân dân hiểu rõ… Có khuyết điểm thì thật thà phê bình
trước nhân dân…Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải gương mẫu…để
nhân dân noi theo” [41, tr.293].
Hồ Chí Minh cho rằng tham ô, lãng phí đều do bệnh quan liêu mà ra;
“Vì cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành quan liêu không đi sát công việc, cán
bộ, quần chúng nhân dân. Có thể nói bệnh quan liêu là chỗ gieo hạt vun trồng
cho tham ô lãng phí nảy nở” [41, tr.436], “Vì những người và những cơ quan

×