Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tác động của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THỊ NHUNG



TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI
VỚI QUAN HỆ
GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 08

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS DƯƠNG VĂN THỊNH





Hà nội - 2008
MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1


Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa
con người và tự nhiên
7
1.1. Quan niệm về con người và tự nhiên của triết học Mác - Lênin
7
1.1.1. Quan niệm về tự nhiên
7
1.1.2. Quan niệm về con người
15
1.2. Cơ sở lý luận của quan hệ giữa con người và tự nhiên
22
1.2.1. Về tính thống nhất vật chất của thế giới
22
1.2.2. Về lực lượng sản xuất
25
1.2.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa
con người và tự nhiên
29
Chương 2. Tác động của nền kinh tế thị trường và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với quan hệ
giữa con người và tự nhiên
39
2.1. Khái quát về kinh tế thị trường và sự tác động của nó đối với mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên
39
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế thị trường
39
2.1.2. Hai hướng tác động của nền kinh tế thị trường đối với mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên
45

2.2. Sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với mối quan hệ giữa con người và tự nhiên ở Việt
Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
52
2.2.1. Thực trạng sự tác động của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đối với mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên ở Việt Nam
52
2.2.2. Nguyên nhân của những tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
80
2.2.3. Một số khuyến nghị để giải quyết mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
85
PHẦN KẾT LUẬN
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
92

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội của Đảng như: Đại hội lần thứ
VIII, IX, X, nền kinh tế của đất nước đã thực sự có sự chuyển mình từ cơ chế
kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học, công nghệ,
của tri thức, bắt kịp với xu thế của thời đại mới.
Trong sự phát triển rất mạnh mẽ ấy của nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, có một nhân tố vô cùng quan trọng, nó là “hạt nhân”
của sự phát triển, nhân tố đó là con người và tự nhiên.
Tự nhiên và con người là hai hệ thống tương đối độc lập, xong nó có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau; Tự nhiên cần đến con
người để ngày càng được cải tạo và phát triển, để tự nhiên “ban tặng” những
món quà cho con người và con người cũng rất cần đến tự nhiên như một “lẽ
tự nhiên” để tồn tại, duy trì và phát triển.
Nhưng vấn đề nan giải ở chỗ, kinh tế thị trường phát triển như thế nào
để không gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên?
Cần có biện pháp đặt ra và giải quyết như thế nào cho đúng, kịp thời? đây là
câu hỏi lớn đặt ra những nhà nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Chủ trương của Đảng về sự chuyển dịch nền kinh tế đã làm cho nền
kinh tế nước ta có sức sống mới, có sự phát triển sôi động. Những tiềm năng
về con người và tự nhiên của đất nước được phát huy một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó, đó là nếu
không có sự điều tiết một cách đúng đắn sẽ tác động xấu đến tự nhiên, huỷ
hoại môi trường sống của con người. Điều đó lại ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu sự tác

2
động của kinh tế thị trường như thế nào đến mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên lại vừa đảm bảo sự phát triển kinh tế, giữ gìn môi trường sống cho con
người. Theo tác giả đây là vấn đề khó nhưng rất cần hiện nay, nhất là đối với
các nước đang phát triển như ở nước ta. Vì vậy tác giả chọn đề tài: "Tác động
của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên"
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa con người và tự nhiên xuất hiện từ khi con người biết dựa
vào tự nhiên để tồn tại. Từ đó những nghiên cứu về mối quan hệ này đã xuất
hiện. Mối quan hệ này được nhiều người bàn đến ở các góc độ khác nhau.

- Ở nước ngoài: Trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.
Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, nếu con người tác động đến tự nhiên mà phá
hoại sự cân bằng sinh thái thì loài người không tách khỏi những nguy cơ đe
dọa sự tồn tại của chính mình.
Trong tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên" Ph.Ăngghen đã nêu lên sự
khác nhau giữa loài vật và loài người trong mối quan hệ thích nghi và biến đổi
môi trường tự nhiên.
Trong tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" năm 1844 C.Mác cũng đã
phân tích và lập luận rất thuyết phục rằng: "Giới tự nhiên là thân thể vô cơ
của con người, con người là một bộ phận của tự nhiên".
Về môi trường: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, đặc biệt từ những
năm 60, 70 trở lại đây, cùng với việc gia tăng mạnh mẽ khả năng chinh phục
tự nhiên của con người thì môi trường ngày càng bị suy thoái. Từ đó xuất hiện
những công trình nghiên cứu đề cập đến sự xuống cấp của môi trường và sự
cần thiết phải bảo vệ tự nhiên.
Ở Liên Xô (cũ) ngay từ những năm 70 đã xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu có tính chất phương pháp luận, đề cập đến tính cấp bách, sự cần

3
thiết phải bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên một cách hợp lý. Đó là:
tác giả E.K.Phêđôrốp với tác phẩm: "Sự tác động lẫn nhau giữa xã hội và tự
nhiên", Lêningrat, 1972; Tập thể tác giả với cuốn: "Những khía cạnh phương
pháp luận của việc nghiên cứu sinh quyển, Matxcơva, 1975; V. P. Tugarinôp:
"Giới tự nhiên - Văn minh - Con người", Lêningrat, 1978; Tập thể tác giả:
"Bảo vệ môi trường và hiệu quả kinh tế - xã hội của nó", Matxcơva, 1980…
Gần đây, trong các công trình xuất bản như: "Tiếng chuông cảnh tỉnh
cho thế kỷ XXI", 1984 của Daisaku Ikeda và Aurelio Peccei; "Một thế giới
không thể chấp nhận được", 1988 của Rênê Duymông; "Chuẩn bị cho thế kỷ
XXI", 1993 của Paul Kennedy; "Làn sóng thứ ba"; "Cú sốc tương lai" của
Alvin Toffler… Các tác giả đã vạch ra cho chúng ta thấy hiện trạng nguy kịch

của môi trường tự nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái môi trường và
đồng thời cũng bàn tới tương lai sự tồn tại của hành tinh chúng ta.
- Ở Việt Nam:
Các tác giả như: Nguyễn Trọng Chuẩn với bài: "Những tư tưởng của
Ph.Ăngghen về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong "Biện chứng của tự
nhiên", tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường và
khủng hoảng sinh thái. Năm 1997, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm với tác phẩm
"Môi trường sinh thái: vấn đề và giải pháp" đứng từ góc độ triết học - xã hội
để xem xét qmh giữa con người và tự nhiên, đã phân tích rất kỹ sự thống nhất
của các yếu tố: Con người - Xã hội - Tự nhiên mà sự phát triển khách quan
của nó vốn tuân thủ theo nguyên tắc tự điều chỉnh, tự cân bằng, sự làm sạch,
tự bảo vệ theo cơ chế của chu trình sinh học hay chu trình trao đổi vật chất,
năng lượng thông tin của sinh quyển; vấn đề khủng hoảng sinh thái hiện nay
là hậu quả tất yếu của một quá trình tác động lâu dài, mạnh mẽ và mang nhiều
yếu tố tiêu cực, tự phát của con người và xã hội lên tự nhiên. Tác giả Chu
Tuấn Nhạ với tác phẩm: "Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, số 8 - 1998. Tác giả Phan Hoàng Dũng: "Về

4
vấn đề sinh thái xã hội ở Việt Nam hiện nay". Tác giả Bùi Văn Dũng: "Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu
bền", Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 1999.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ giữa con người
và tự nhiên, về môi trường, về sự phát triển, nhưng những nghiên cứu đó mới
chỉ dừng lại ở việc nghiờn cứu từng mảng của vấn đề hoặc là tự nhiên, con
người, hoặc là tự nhiên và con người với sự phỏt triển, hay vấn đề con người
và tự nhiên trong thời kỳ cụng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay khi khoa
học ngày càng phát triển, đời sống của con người có sự đổi thay thỡ con
người lại càng có điều kiện để chú ý đến nguồn gốc xuất thân cũng như sự tồn
tại của mỡnh. Vậy thực tế đời sống của loài người nói chung và con người

Việt Nam đặt trong quan hệ với tự nhiên đang phải chịu sự tác động của nền
kinh tế thị trường như thế nào? đặc biệt luận giải vấn đề này dưới góc độ triết
học thỡ rất hiếm, bởi đây là vấn đề bức thiết và cũng rất khó giải quyết khụng
chỉ của riêng một quốc gia mà là vấn đề chung của toàn cầu. Chớnh vỡ vậy
chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần tìm
ra giải pháp để điều chỉnh hoạt động của xã hội nhằm bảo vệ tốt hơn môi
trường tự nhiên cho con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trờn cơ sở nghiờn cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên, thực trạng sự tác động của nền kinh tế thị trường
đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên, luận văn chỉ ra một số nguyên nhân
và đưa ra lời khuyến nghị để giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan

5
hệ giữa con người và tự nhiên.
Thứ hai: Trình bày khái niệm và đặc điểm kinh tế thị trường và kinh tế
thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, mặt tích cực và mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường.
Thứ ba: Nghiên cứu sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên: mặt tớch cực và tiờu cực.
Thứ tư: Một số vấn đề đặt ra từ sự tác động của nền kinh tế thị trường
định hướng xó hội chủ nghĩa đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên ở
nước ta hiện nay, đề xuất một số khuyến nghị để giải quyết mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong điều kiện nền kinh
tế thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu sự tác động của kinh tế thị trường đối với mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên trong những năm gần đây ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
- Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên
- Quan điểm của Đảng ta về việc phỏt triển kinh tế thị trường và vấn đề
khai thỏc tài nguyờn tự nhiờn, bảo vệ mụi trường sống ở Việt Nam hiện nay.
Trong luận văn cú sử dụng một số kết quả nghiờn cứu của một số cụng trỡnh
gần đõy cú liờn quan đến vấn đề này.

6
Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài việc sử dụng phương phỏp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, luận văn cũng sử dụng chủ yếu phương pháp kết hợp giữa lô gíc và
lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đánh giá tầm quan trọng của con người đối với tự nhiên và tự nhiên đối
với con người trong hệ thống con người - xã hội - tự nhiên, đặc biệt ở Việt
Nam hiện nay.
Chỉ ra hậu quả tác động của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa
con người và tự nhiên ở nước ta hiện nay.
Chỉ ra nguyên nhân và đưa ra những khuyến nghị để phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường tác động đến mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên .

7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiờn cứu của luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy chương trỡnh kinh tế, mụi trường và bảo vệ môi trường.
- Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong quỏ trỡnh học tập
của sinh viờn cỏc trường Đại học, Cao đẳng và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được sắp xếp thành 2 chương 4 tiết.



7
Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LấNIN
VỀ QUAN HỆ GIỮA CON NGƢỜI VÀ TỰ NHIÊN

1.1. QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI VÀ TỰ NHIấN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
– LÊ NIN
1.1.1 Quan niệm về tự nhiên
Tôi không đồng ý kiến với các học giả Tư sản cho rằng: triết học Mác
không đề cập tới vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên. Lịch sử triết học
cho chỳng ta thấy từ khi triết học ra đời đến nay không triết gia nào (kể cả ở
phương Đông và phương Tây) là không bàn đến vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận. Điều đó chứng minh rằng triết học từ cổ đại đến đương đại rất chú
ý đến vấn đề con người, vấn đề tự nhiên, quan hệ giữa chúng và theo tụi thỡ
đây lại là vấn đề then chốt của mọi thời đại, đặc biệt trong thời đại hiện nay.
Bởi đây không phải đơn giản chỉ là vấn đề của khoa học, kinh tế, hay kỹ thuật
mà nó là vấn đề mang tính xã hội, dân tộc, chính trị, tư tưởng, nhân văn… Do
vậy, triết học phải cú nhiệm vụ lý giải nú thật sỏt với khoa học và phải xõy
dựng ý thức, tư tưởng đúng đắn cho con nười trong quan hệ, đối xử với tự

nhiên. Triết học có nhiệm vụ giải quyết vấn đề phương pháp luận về mối quan
hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên. Thực tế mối quan hệ biện chứng
giữa con người và tự nhiên đó là đối tượng nghiên cứu của các nhà tư tưởng và
khoa học. Trong lịch sử triết học, mỗi thời kỡ lịch sử đều đưa ra quan điểm khác
nhau về quan hệ giữa con người và tự nhiờn. Trong 5 điều dạy của đạo Phật:
Cấm sỏt sinh
Cấm ăn cắp
Cấm sa đọa hưởng lạc
Cấm núi dối
Cấm uống rượu

8
Đó nờu lờn những yếu tố cơ bản của một cuộc sống lành mạnh, của
một cộng đồng lành mạnh và là điều răn dạy hướng về một “tự nhiên” tốt
lành, hay trong luật “nhõn quả” của đạo Phật mà ứng dụng trong xó hội loài
người thỡ cú “ỏc giả ỏc bỏo, thiện giả thiện lai” và mở rộng hơn nữa đó là
quan điểm tác động qua lại giữa con người và tự nhiên đó là: Đối xử tốt với tự
nhiên, tự nhiên sẽ ban phúc lợi; tàn ác với tự nhiên, tự nhiên sẽ mang đến tai
họa.
Như vậy, triết học Phật giáo đó bật lờn một thỏi độ rất tôn trọng, nâng
niu tự nhiên và có thể coi đây như một tinh túy của đạo phật đối với thực vật,
động vật, đất đai, sông núi….và con người.
Cũn đối với Đạo giáo thỡ Lóo Tử (khoảng TK5 - TCN) đó cho rằng
con người và tự nhiên là một thể thống nhất là nguyên nhân của vạn vật: Lóo
Tử cho rằng: Trời cú tớnh đơn nhất mới sáng, đất có nó mới bền vững, thần
có nó mới thiêng, muôn vật có nó mới sản sinh mói mói, muụn vật vận động
theo hỡnh thức riờng, cuối cùng mới trở về Đạo, theo quy luật tuần hoàn tự
nhiên. Nhờ có tính đơn nhất ấy mà có sự hài hũa giữa con người và tự nhiên,
nếu làm ngược lại thỡ sẽ phỏ vỡ mối quan hệ này và đây chính là cơ sở triết
học căn bản khẳng định mối quan hệ quan trọng giữa con người và tự nhiên,

và điều này đó được thể hiện qua tư tưởng: “Thiên địa vạn vật thống nhất thể”
và “tự nhiên tương dữ” (Lóo Tử) nghĩa là trời và người giao cảm lẫn nhau.
Trong tư tưởng triết học của Khổng Tử (khoảng 551 - 479 TCN) cú rất
nhiều luận điểm nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, về môi
trường thống nhất với quan điểm: “Thiên địa vạn vật thống nhất thể” và “ tự
nhiên tương dữ” của Lóo Tử. Quan điểm của Nho giáo thể hiện mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên qua thuyết “thiên, nhõn hợp nhất”, nhằm nhân hóa
tự nhiên, đề cao vai trũ, phẩm chất con người và trách nhiệm của con người
trước tự nhiên
Một trong những nội dung khá quan trọng trong tư tưởng của Nho giáo

9
đó là "đức nhân". Nho giáo đặc biệt chú ý đến trật tự xó hội loài người
bởi:…Tự nhiờn cú trật tự hài hũa, xó hội loài người cũng thế, nên mọi sự hủy
hoại, làm suy thoái, gây hại đến tự nhiên, gây ra hậu quả xấu tới người khác,
như vậy đó gõy ra hai điều thất đức. Một là: Không kính trọng người khác.
Hai là: Không xứng đáng là người quân tử.
Khác với các triết gia phương Đông, thỡ cỏc triết gia phương Tây tiếp
cận mối quan hệ giữa con người và tự nhiên dưới nhiêu góc độ như Hêđôrốt
(khoảng 485 - 425 TCN) cho rằng: vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong
lũng nú luụn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, các lực lượng đối lập
nhau. Nhờ các cuộc đấu tranh đó mà sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời và
chớnh vậy làm cho vũ trụ trẻ mói.
Trong triết học duy vật Anh thế kỷ 16, 17, nhà triết học E. Bê Cơn
(1561-1626) đó khẳng định: Con người cần phải thống trị và làm chủ giới tự
nhiên, điều này có thực hiện được không? Tất cả tùy thuộc vào sự hiêủ biết
của con người: “Tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức” do đó rất cần một
khoa học để lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, mục đích là biến giới
tự nhiên thành “giang sơn” của con người, nghĩa là làm cho con người thống
trị những lực lượng của giới tự nhiên. Muốn chinh phục được tự nhiên, muốn

chế ngự nú thỡ trước hết phải tuân theo các quy luật của nó. Hơn nữa E. Bờ Cơn
cũn khẳng định: Mục đích của xó hội chỳng ta là nhận thức cỏc sự vật, đồng
thời mở rộng sự thống trị của con người đối với tự nhiên trong chừng mực
con người có thể làm được.
Cựng thời với E.Bê Cơn, nhà triết học Pháp R. Đề Các cũng rất chú ý
đến yếu tố khoa học khi con người tiếp cận với tự nhiên, nhưng khi R. Đề Các
bác bỏ chủ nghĩa kinh viện để tạo ra một thứ triết học thực tiễn ông gọi là siêu
hỡnh học để tăng cường sự thống trị của con người đối với tự nhiên. Trong
tác phẩm: “Luận về phương pháp” R.Đề Các viết: “…Thay cho triết học trừu
tượng dạy ở các trường, có thể lập một thứ triết học thực tiễn mà nhờ đó nếu

10
biết được sức mạnh và tác dụng của lửa, nước, khí, sao, trời và tất cả những
vật thể khác chung quanh ta một cách cũng rừ rệt như những người thợ lành
nghề của chúng ta biết các thứ nghề thủ công, thỡ chỳng ta sẽ cú thể, giống
như tất cả các công cụ của chúng, và do đó, trở thành kẻ thống trị và chi phối
giới tự nhiên [41,192-193].
Trong tỏc phẩm “Luõn lý học”, B.Spinụda thế kỉ 17 viết “…Giới tự
nhiên bao giờ và bất cứ chỗ nào cũng như thế, lực lượng và tác dụng hùng mạnh
của giới tự nhiờn nghĩa là những quy luật và quy tắc của nó mà theo đó mọi cái
đều xảy ra và đều biến đổi từ hỡnh thức này sang hỡnh thức khỏc, bao giờ và
bất cứ chỗ nào cũng như thế, do đó, cả phương pháp nhận thức bản chất của
các sự vật như thế nào cũng vậy, cần phải là một, tức là cần phải là sự nhận
thức bằng những quy luật và quy tắc phổ biến của giới tự nhiên…" [41, 150].
B.Spinụda cũn chỉ ra rằng: con người phải cố gắng không để: “giới tự
nhiên tuân theo mỡnh mà trỏi lại, mỡnh tuõn theo giới tự nhiờn” [41, 207].
Cũn trong nhận thức, con người làm cho trật tự tư tưởng của mỡnh phự
hợp với trật tự của toàn bộ giới tự nhiờn, tức là cú khả năng làm cho trạng thái
thân thể của mỡnh phự hợp với trật tự toàn bộ giới tự nhiờn. Do vậy, trước
giới tự nhiên, con người có thể chi phối những xúc cảm, cũng như những việc

làm của mỡnh.
Đến thế kỉ thứ 18, với thuyết duy địa lý của Môngtexkiơ và A-tuyếc-gô
đều cho rằng, các hiện tượng tự nhiờn và xó hội là thống nhất với nhau và
tuõn thủ chặt chẽ theo những quy luật nhất định. Từ đó, các ông khẳng định
rằng sở dĩ các dân tộc này khác với dân tộc kia về màu da, lối sống văn hóa,
luật pháp, tư tưởng…là do khí hậu có một quyền uy cực mạnh và quy định
những yếu tố trên vỡ hầu như sự nhu nhược của các dân tộc vùng khí hậu
nóng đó làm cho họ luụn trở thành nụ lệ trong khi đó những người ở vùng khí
hậu lạnh luôn là người có tự do và dũng cảm, vậy nên, luật pháp, thể chế nhà
nước, sự phát triển của cỏc quốc gia đều phải căn cứ vào điều kiện khí hậu và
vị trí địa lý. Đây là hạn chế của Mụngtexkiơ và A-tuyếc-gụ khi cho rằng yếu

11
tố địa lý giữ vai trũ quyết định.
Túm lại, với những quan điểm về mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trước Mác, chúng ta đó thấy được các nhà triết học đặt ra ở những góc
độ khác nhau, mặc dù là siêu hỡnh xong vai trũ của từng yếu tố trong mối
quan hệ này đó được khẳng định rất rừ ràng.
Bước đột phá trong tư tưởng về mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên đó là tư tưởng của C.Mác và Ăngghen. C.Mác và Ph.Ăngghen đó nờu
lờn những tư tưởng có căn cứ khoa học và căn cứ lịch sử. Tư tưởng đó đó
được các ông giải thích về vai trũ của sản xuất và tỏi sản xuất xó hội đây là
điều kiện thường xuyên, liên tục, và không thể thiếu được của con người và
xó hội.
Sản xuất vật chất là quỏ trỡnh con người sử dụng công cụ lao động, tác
động vào tự nhiên nhằm cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của
cải vật chất phục vụ cho đời sống ngày càng cao của con người bởi. Điều này
C. Mác đó từng chỉ ra rằng: con người trước hết cần phải ăn, uống, ở, mặc đó
rồi mới cú thể làm chớnh trị, khoa học, nghệ thuật, tụn giỏo….
Tư tưởng về mối quan hệ giữa con người và tự nhiờn cũn được C.Mác,

Ph.Ăngghen thể hiện khi nghiờn cứu lịch sử phỏt triển của xó hội loài người
qua sự phát triển thay thế nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Phương thức sản suất được hợp thành bởi hai mặt: lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
Trong đó lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và
tự nhiờn. Trỡnh độ của lực lượng sản xuất thể hiện trỡnh độ trinh phục tự
nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là thước đo
năng lực thực tiễn con người trong quá trỡnh cải tạo tự nhiờn nhằm đảm bảo
sự sinh tồn và phát triển của loài người. Trong quá trỡnh phỏt triển của xó hội
thỡ lực lượng sản xuất không ngừng được cải tạo để hoàn thiện mà trước hết
là thay đổi về trỡnh độ của công cụ lao động và trỡnh độ của người lao động

12
khi tác động vào giới tự nhiên (đối tượng lao động) và cũng chớnh trỡnh độ
của lực lượng sản xuất thay đổi cũng đó thể hiện “trỡnh độ” biến đổi giới tự
nhiên trong việc thỏa món nhu cầu vật chất và tinh thần của con người như C.
Mác viết: “…Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cỏi gỡ, mà là ở chỗ chỳng sản xuất bằng cỏch nào, với những tư liệu
lao động nào…” [6, 269] và mỗi một cuộc cách mạng trong lực lượng sản
xuất đó khụng chỉ tạo ra sự thay đổi về chất trong nó mà nó chính là cơ sở, là
tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau của các thời đại kinh tế khi đặt quan hệ
với tự nhiên.
Như vậy, trong lực lượng sản xuất, trong mỗi phương thức sản xuất hay
trong mỗi chế độ xó hội là sự thể hiện rất rừ ràng trước hết là việc sản xuất
của cải vật chất, sau đó là sự phát triển của trỡnh độ lực lượng sản xuất đó thể
hiện rất rừ mối quan hệ khăng khít giữa con người và tự nhiên, tất nhiên yếu
tố khoa học bao giờ cũng nằm len lỏi vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và
cùng vào mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây chính là cơ sở khoa
học mà C.Mác và Ph.Ăngghen đó khẳng định nó là yếu tố quyết định sự sống
cũn của con người trước tự nhiên, vậy, để điều khiển được mối quan hệ giữa

con người và tự nhiên, trước hết phải nhận thức được những quy luật tồn tại
và phát triển của giới tự nhiên và sau đó phải biết vận dụng một cách đúng
đắn, chính xác những quy luật đó vào quá trỡnh hoạt động thực tiễn của xó
hội, mà quan trọng nhất là vào lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất.
Lịch sử xó hội đó chứng tỏ rằng, quỏ trỡnh phỏt triển của xó hội là quỏ
trỡnh con người không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, phỏt triển và
hoàn thiện dần cụng cụ lao động, điều đó có nghĩa là con người đó khụng
ngừng tấn cụng vào tự nhiờn, đồng hóa các đối tượng của tự nhiên, biến
chúng trở thành sức mạnh của xó hội…[34, 112].
Qua sự phân tích các quan điểm triết học về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên ở trên chúng ta thấy mối quan hệ giữa con người và tự

13
nhiên là vấn đề được đưa ra bàn bạc, nghiờn cứu từ rất lõu. Và chắc chắn rằng
hiện nay và mói mói về sau nú là vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất khi xó
hội ngày càng phỏt triển, khi khoa học đó phỏt triển đến đỉnh cao thỡ mối
quan hệ này càng được làm sáng tỏ.
Vậy đến đây chúng ta có thể đưa ra cách hiểu về tự nhiên và con người
dưới góc độ triết học, để từ đó nâng mối quan hệ này lờn thành triết lý của
cuộc sống .
Đến nay, tự nhiên được hiểu theo nhiều nghĩa tựy thuộc vào góc độ
nghiên cứu của cỏc ngành khoa học, xong cú thể hiểu tự nhiờn theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng:
Tự nhiờn: là tất cả những gỡ đang tồn tại khách quan, là toàn bộ thế
giới vật chất với tất cả hỡnh thức biểu hiện muụn màu, muụn vẻ của nú; là tập
hợp cỏc điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn tồn tại ngoài tác động của con
người. Nghĩa là một tự nhiên “thuần túy”, “tinh khiết” nhưng bao la, rộng lớn.
Theo nghĩa này, tự nhiờn sẽ bao hàm cả giới tự nhiờn vụ sinh và hữu sinh
theo kết cấu, quy mụ của thế giới vật chất.
Giới tự nhiên vô sinh là toàn bộ các tổ chức vật chất từ các hệ thống

thiên hà; các hệ thống hành tinh, các hành tinh đến các vật thể vĩ mô; các
phõn tử, nguyờn tử, chõn khụng vật lý.
Cũn giới tự nhiờn hữu sinh cú cỏc trỡnh độ tổ chức vật chất là sinh
quyển, các sinh khu, quần thể, cơ thể đa bào, tế bào, tiền tế bào, các AND,
ARN (các axit nuclêich). Nếu hiểu như vậy thỡ khỏi niệm tự nhiờn đồng
nghĩa với khái niệm vật chất, là “tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn
ngoài tác động của con người” tức là tồn tại khách quan không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan của con người đó chính là những yếu tố như: đất đai, sụng,
hồ, rừng, biển, khớ hậu, khụng khớ, động, thực vật,….nghĩa là tất cả những
gỡ cần thiết để con người có thể tồn tại được và đến đây chúng ta khẳng định
được rằng tự nhiên là bộ phận gắn bú khụng thể tỏch rời con người. Con

14
người sẽ chết khi tồn tại độc lập tuyệt đối với tự nhiên, C.Mác đó khẳng định
điều này bằng một luận điểm: “…Giới tự nhiờn là thõn thể vô cơ của con
người, và chớnh nú là giới tự nhiờn trong chừng mực bản thõn nú khụng phải
là thõn thể con người. Con người sống dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự
nhiên là thân thể của con người; để khỏi chết, con người phải ở trong quá
trỡnh giao dịch thường xuyên với thân thể đó. Sinh hoạt vật chất và tinh thần
của con người liên hệ khăng khít với tự nhiên, điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa
là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiờn, vỡ con người là một bộ
phận của tự nhiên” [5, 91-92].
Nghĩa hẹp:
“Tự nhiờn” cũn được hiểu theo nghĩa: là tập hợp các điều kiện thiên
nhiên vốn có sẵn, vừa tồn tại ngoài tác động của con người vừa là điều kiện vật
chất cần thiết cho sự tồn tại của xó hội loài người do chính con người tạo ra.
Theo nghĩa này, chỳng ta thấy rừ một điều để xó hội loài người tồn tại
thỡ phải tiến hành sản xuất vật chất, và chớnh điều này đó buộc con người
phải tỡm đến những “điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn” để làm đầu vào của
quỏ trỡnh sản xuất như vậy thì khi xã hội phát triển từ phương thức sản xuất ở

trỡnh độ thấp lên phương thức sản xuất cao đã buộc con người phải tiến sõu
vào tự nhiờn, lấy của cải của tự nhiên để phục vụ nhu cầu cuộc sống của con
người. Yếu tố đặt giữa quỏ trỡnh phát triển là khoa học, kỹ thuật. Sự lớn
mạnh của lực lượng sản xuất càng phát triển bao nhiêu thỡ càng chứng tỏ sự
phỏt triển của khoa học bấy nhiờu và điều này chứng minh con người trong
quan hệ với tự nhiên ban đầu là “tiếp cận”, “lấy” đến “xõm phạm”, “tàn phỏ”,
rồi cuối cựng là “búc lột” và “trả giỏ” của tự nhiờn đối với con người. Đây
chính là vấn đề môi trường sống, môi trường sinh thái, môi trường địa lý, mụi
trường tự nhiên.
Và ở luận văn này chúng tôi xin được bàn đến “tự nhiên” theo nghĩa là
môi trường tự nhiên.

15
Môi trường tự nhiên là những điều kiện tự nhiờn bao quanh xó hội
gồm:
Môi trường đất.
Môi trường nước.
Môi trường không khí.
Môi trường sinh vật…
Giữa môi trường tự nhiên và con người luôn diễn ra quá trỡnh trao đổi
biện chứng với nhau đó là: con người cần đến môi trường tự nhiên, luôn làm
chủ với môi trường tự nhiên, chinh phục và sáng tạo trước môi trường tự
nhiên…, cũn mụi trường tự nhiên thỡ cung cấp những nguyờn vật liệu, năng
lượng, nguồn vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất của con người
và đồng thời môi trường tự nhiên là “bói chứa” những chất thải bỏ trong quỏ
trỡnh hoạt động sống của con người. Và ở đây nảy sinh ra một vấn đề đó là:
Văn hóa môi trường, đạo đức sinh thái, thẩm mỹ sinh thái, tinh thần sinh thỏi …,
như ở một vài công trỡnh nghiờn cứu đề cập đến.
Từ cỏch hiểu về tự nhiờn như vậy, chỳng tụi đưa ra cách hiểu của
mỡnh về mụi trường tự nhiên như sau:

Môi trường tự nhiên là tập hợp những yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống con người và lịch sử xó hội loài người.
1.1.2. Quan niệm về con ngƣời
Con người xuất hiện trong quá trình tiến hóa của vũ trụ,con người
không chỉ là sản phẩm của tự nhiên, bước ra từ tự nhiên mà hơn thế, còn là
sản phẩm cao nhất của sự tiến hóa của vật chất.
Ngay từ thời kỳ cổ đại, con người đã đặt ra rất nhiều câu hỏi: Mình
là ai? Sinh ra từ đâu? Tồn tại để làm gì? Tồn tại bằng cách nào? Trong
lịch sử triết học, cả ở phương Đông và phương Tây các nhà triết học bằng
mọi cách khác nhau, đã lý giải về nguồn gốc, bản chất, vai trò của con người
và đặc biệt là quan hệ với tự nhiên.

16
Ở phương Đông, Nho giáo quan niệm con người cũng là một vật, một
loài trong khối nhất thể bao gồm cả trời đất, muôn vật, muôn loài và là một bộ
phận nhỏ của tự nhiên, nên con người phải tuân theo nguyên lý "âm - dương
biến hóa" của đạo trời và "cương nhu tương thôi" của đạo đất [25, 76]. Quan
điểm này thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa con người và tự nhiên. Nho
giáo còn nhấn mạnh, cuộc sống con người do "thiên mệnh" chi phối, nên
con người và trời đất luôn có quan hệ "thiên nhân cảm ứng", trong cuộc
sống con người cần phải hiểu mệnh trời, sợ mệnh trời để biết "ứng thời" theo
"thiên mệnh".
Triết học Phật giáo (khoảng thế kỷ VI - TCN) cho rằng, thế giới luôn
là dòng biến ảo, vô thường, không ngừng, không nghỉ và trong dòng biến đổi
bất tận ấy, con người cũng do nhân duyên kết hợp cái danh với cái sắc mà tạo
nên tinh thần và thể xác. Nhân duyên chi phối sự kết hợp phong phú “ngũ
uẩn” tạo ra sự đa dạng của đời người.
Tuy những quan niệm về con người ở phương Đông mang tính chất
duy tâm, không giải thích được nguồn gốc, bản chất của con người một cách
thuyết phục, song đã đề cao con người và khẳng định con người có mối quan

hệ chặt chẽ với tự nhiên.
Ở phương Tây, các nhà triết học có rất nhiều cách tiếp cận cũng như
hiểu về con người, bản chất con người.
Trong triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại vấn đề con người đã được bàn
đến nhưng chủ yếu dưới khía cạnh xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức.
Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 TCN) là nhà triết học duy vật biện chứng, đồng
thời là người cống hiến tích cực về phương diện đạo đức học.
Đêmôcrit quan niệm về sự sống, sự sống là kết quả của quá trình biến
đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi
trường nước và bùn dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước,
sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn. Cuối cùng là con người

17
ra đời trên quả đất.
Từ quan niệm về sự ra đời con người, Đêmôcrít quan tâm đến vấn đề
đạo đức. Ông xác định, đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là cuộc sống,
là hành vi, là số phận của mỗi con người riêng biệt. Ông coi lương tâm và
sự lành mạnh về tinh thần của từng cá nhân là hạt nhân trung tâm trong đạo
đức học, đặc biệt ông nêu cao vai trò của trí tuệ trong đời sống hạnh phúc của
con người.
Theo Đêmôcrít, người hạnh phúc là người có trí tuệ và khả năng tinh
thần: Sống thiếu trí tuệ, không điều độ và không có lỗi lầm, có nghĩa là sống
không xấu, nhưng đó là chết dần.
Xôcrát (469 - 399 TCN) trong triết học Hy Lạp cổ đại là người đầu tiên
cho rằng, triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức của con người về
chính mình.
Với mệnh đề: Con người hãy nhận thức chính mình, đã chứng tỏ
Xôcrát rất chú trọng đến khía cạnh tri thức và đạo đức con người. Đạo đức
học của ông mang tính duy lý. Theo ông đạo đức con người và tri thức thống
nhất làm một trong bản thân mỗi người.

Arítxtốt (284 - 322 TCN) một bộ óc bách khoa, nhà triết học lớn nhất
của triết học Hy Lạp cổ đại đã có những đóng góp xuất sắc không chỉ trong
lĩnh vực nghiên cứu triết học mà còn là người đặt nền móng cho hàng loạt
ngành khoa học khác.
Arítxtốt cho rằng, con người là một thực thể chính trị (sau này C. Mác
gọi là một động vật chính trị). Con người về bản chất phải thuộc về Nhà nước.
Vì vậy, theo ông kẻ nào sống vượt khỏi khuôn khổ của Nhà nước thì kẻ đó
chưa phải là con người, hay chỉ là con người chưa phát triển về đạo đức, hay
đó chỉ là những động vật hay thánh nhân. Arítxtốt còn chỉ ra được mối quan
hệ giữa đạo đức và kinh tế, tìm ra cơ sở kinh tế của công bằng và bình đẳng
trong xã hội.

18
Trong nội dung đạo đức học của Arítxtốt, ông rất chú ý đến vấn đề
phẩm hạnh. Ông quan niệm phẩm hạnh thể hiện ở biết làm việc, biết định
hướng đúng, biết tìm ra cái thiện.
Nếu như triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại quan tâm nghiên cứu khía
cạnh xã hội của con người, đặc biệt là về đạo đức, phẩm hạnh, chính trị thì thế
kỷ 16, 17 triết học duy vật Anh và triết học duy vật Pháp lại bàn về tồn tại tư
duy, về trí tuệ con người. Cho đến thế kỷ 18 với sự xuất hiện triết học cổ điển
Đức, các nhà triết học lại quan tâm nhiều đến nguồn gốc, bản chất tự nhiên
của con người.
Tômát Hốpxơ (1588 - 1679) nhà triết học Anh thế kỷ 17 cho rằng, con
người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội và từ đó ông xây
dựng nên lý luận về xã hội và Nhà nước.
Về bản chất tự nhiên của con người, Hốpxơ đã viết: Giới tự nhiên đã
tạo ra mọi thứ người như nhau, cả về thể xác và tinh thần.
Theo Hốpxơ, để xã hội tồn tại và phát triển thì phải lập nên Nhà nước
trên cơ sở ký kết khế ước xã hội giữa người với người, chuyển thế giới từ
trạng thái tự nhiên sang trạng thái có Nhà nước, trạng thái công dân. Vì vậy,

theo Hốpxơ, Nhà nước có nguồn gốc thuần tuý trần gian, chứ không do một
thần thánh nào tạo ra, ông coi "Nhà nước tựa như một con người nhân tạo".
Như vậy, Hốpxơ đã khẳng định nguồn gốc tự nhiên của con người và bản tính
vốn có của nó là ác.
Bêkenit Xpinôda (1632 - 1677) nhà triết học duy vật nổi tiếng người
Hà Lan. Ông đã có quan niệm về con người tiến bộ hơn những quan niệm trước.
Theo Xpinôda thì con người là một dạng thức của thực thể, là sản phẩm của tự
nhiên, mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật của tự nhiên.
Nhiệm vụ của triết học là phải phục vụ cuộc sống của con người, giúp
con người có được học thức, biết nắm bắt quy luật của tự nhiên, hành động
theo quy luật và biết sống theo lý tưởng cao đẹp.

19
Xpinôda không chỉ cho rằng con người là một thực thể tự nhiên, biết tự
nhận thức, có ý thức về chính bản thân mình, mà hơn thế nữa, ông còn khẳng
định bản tính con người là nhận thức, nhu cầu nhận thức là khát vọng lớn nhất
của con người. Ông đề cao tri thức, sự nhận thức đến mức, coi nhận thức như
chiếc chìa khóa vạn năng, có thể giúp con người giải quyết được mọi tệ nạn
xã hội, có thể giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công. Vì con người
là một thực thể tự nhiên nên theo Xpinôda, con người cũng luôn nằm trong
quá trình phát triển và tiêu vong. Đây là một tư tưởng tiến bộ so với thời đại
vì nó chứa đựng tư tưởng biện chứng về con người.
Nhà triết học Rơnê Đềcáctơ (1596 - 1650) xem con người như một cỗ
máy và ông mô tả hình dáng cũng như cấu tạo cơ thể người chẳng khác nào là
một cỗ máy, để từ đó kết luận rằng, con người cũng chỉ là một thực thể tự
nhiên mang bản tính cơ hội.
G. Ph.Hêghen - nhà triết học duy tâm khỏch quan cổ điển Đức - đưa ra
quan niệm: con người là sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý
niệm tuyệt đối”. Trong quá trình hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới con
người, đã đạt đến khả năng tự ý thức, tự nhận thức về bản thân và trở về mình

trong “tinh thần tuyệt đối”.
Theo Hêghen: Sống là sự vận động đến cái chết, hay sự sống đã chứa
đựng bên trong nó mầm mống của sự chết. Đây là tư tưởng biện chứng sâu
sắc nhất của Hêghen về sự gắn kết giữa thế giới vô cơ với thế giới hữu cơ,
giữa sự sống và cái chết của con người.
Có lẽ nổi bật và đạt đến trình độ cao hơn cả trong quan niệm về con
người của lịch sử triết học trước Mác đó là quan niệm của L.Phoiơbắc. Ông là
người đầu tiên khẳng định: Cùng với tự nhiên con người là đối tượng nghiên
cứu chủ yếu của triết học.
L.Phoiơbắc cho rằng, con người là sản phẩm của tự nhiên, là một bộ

20
phận của thế giới khách quan. Con người là một sinh vật, có hình thể vật chất,
tồn tại trong không gian và thời gian, nên con người có năng lực biết tư duy.
Con người có bản chất tự nhiên, bản chất của một động vật và không bao giờ
thay đổi. Hơn nữa L.Phoiơbắc còn khẳng định: Trong con người, thể chất và
tinh thần thống nhất với nhau, ý thức là một thuộc tính đặc biệt của vật chất,
của bộ óc người. Từ đó ông xây dựng thuyết nhân bản và dựng để giải quyết
cho sự tồn tại của con người.
Những quan niệm trên của L.Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở
chỗ nó được xây dựng trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể
của con người, nhấn mạnh tính năng động và sáng tạo cá nhân của con người.
Nhưng L. Phoiơbắc lại không nhìn thấy được bản chất xã hội của con người
không nghiên cứu con người trong từng giai đoạn lịch sử, mà là con người
chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp. Đây là điểm hạn chế của
L. Phoiơbắc và sau này C.Mác bổ sung và phát triển.
Đến thế kỷ 19, khi triết học Mác - Lênin ra đời đã kế thừa, phát triển và
hoàn thiện quan niệm về con người.
Theo C.Mác, con người là một thực thể tự nhiên - xã hội. Xét về mặt
tiến hóa con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của tự nhiên, là sản

phẩm tiến hóa cao nhất của thế giới vật chất, C.Mác khẳng định rằng "Giới tự
nhiên là thân thể vô cơ của con người". "Con người sống dựa vào tự nhiên, có
quan hệ khăng khít với tự nhiên, là một bộ phận của tự nhiên" [10, 135].
Cạnh đó, con người sống có quan hệ với nhau, quan hệ đó tạo thành các
quan hệ xã hội, thành xã hội, nên con người phải là con người xã hội. "Con
người, theo nghĩa đen của nó là một động vật xã hội, không những là một
động vật có tính hợp quần, mà còn là một động vật chỉ có thể tách riêng trong
xã hội mà thôi" [9, 591].
C.Mác còn chỉ rõ bản chất xã hội của con người. Ông viết: "Trong tính

21
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa cỏc quan hệ xã hội" [8, 11].
Như vậy, dưới những góc độ khác nhau của lịch sử, văn hóa, chính trị,
thẩm mĩ, các nhà triết học đã lý giải về sự xuất hiện, cấu tạo, cũng như vai trò,
bản chất của con người mà đỉnh cao là quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Ph.Ăngghen đã tiếp thu học thuyết tiến hóa của Đác-uyn để khẳng định nguồn
gốc ra đời của con người chủ yếu do lao động. Điều này được trình bày trong
tác phẩm "Tác dụng của lao động trong quá trình biến vượn thành người".
Đây là sự lý giải rất thuyết phục.
Song hầu như các quan niệm trên kể cả quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen vẫn còn thiếu tính khoa học để lý giải một cách khoa học chính
xác nhất về nguồn gốc, năng lực vô tận của con người.
Với sự phát triển của nhiều ngành khoa học như: di truyền học phóng
xạ, sinh học phân tử, bào thai học, di truyền học, ngành cổ sinh học phát
triển từ những năm 50 của thế kỷ XX, với nhiều phương pháp nghiên cứu
như: dựa vào xương người và đồ hóa thạch, nghiên cứu nhóm máu ABO ở
hóa thạch người và đặc biệt trong 10 năm cuối cùng của thế kỷ XX những
thành tựu của khoa học hiện đại đã góp phần vào việc nghiên cứu nguồn
gốc, bản chất, cấu tạo của con người, điều này rất quan trọng giúp con
người có thể sống mạnh khỏe hơn, hạnh phúc hơn, đồng thời hiểu được quy

luật tự nhiên, quy luật xã hội trong chính bản thân con người để từ đó con
người làm chủ những hoạt động của mình trong quan hệ với tự nhiên.
Khoa học hiện đại tổng kết mặt sinh học trong con người đó là toàn bộ
những đặc điểm của con người với tư cách là một động vật cả về cấu tạo và
chức năng. Cấu tạo hình thể con người về cơ bản giống như động vật có vú
cao cấp. Quá trình con người phát triển trong bào thai là sự rút ngắn quá trình
tiến hóa của động vật. Sự khác nhau về mặt sinh học giữa người và vật là ở bộ
não. Bộ não người - với khả năng phản ánh cao nhất, sáng tạo nhất đã làm con
người khác xa con vật.

22
Mặt xã hội trong con người có thể hiểu đó là toàn bộ những đặc trưng
chỉ vốn có ở con người, được hình thành nên trong quá trình tác động qua lại
giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người mà trước tiên
được thể hiện trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
Mặt sinh học và mặt xã hội cùng tồn tại trong bản chất của con người,
luôn tác động qua lại với nhau để tạo thành bản chất của mỗi con người.
Trong mối quan hệ và tác động lẫn nhau đó, mặt sinh học là cơ chất hay là
nền vật chất để làm hình thành nên mặt xã hội.
Ngày nay khoa học hiện đại còn đi sâu vào khai thỏc nguồn gốc xã hội
dựa vào những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ giữa con người và tự
nhiên như: tính thống nhất vật chất của thế giới hay trỡnh độ phát triển của
lực lượng sản xuất để khai thác yếu tố tài năng, trí tuệ, ý thức của con người
để phục vụ cho sự phát triển của xó hội.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN HỆ GIỮA CON NGƢỜI VÀ TỰ NHIÊN
1.2.1. Về tính thống nhất vật chất của thế giới
Cú thể thấy rằng tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở lý luận
căn bản nhất của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về tớnh thống nhất vật chất của thế giới giữ một vị
trớ quan trọng trong triết học Mỏc- Lờnin, vỡ nú thể hiện một thế giới quan

khoa học rất triệt để, khi giải thích sự tồn tại của thế giới hiện thực.
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu mà nhân loại đó đạt được trong sự
phỏt triển lõu dài của triết học và khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó
khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật
chất của nó, điều này được Ph.Ăngghen nhấn mạnh trong tỏc phẩm "Chống
Đuy rinh” khi Ph.Ăngghen phê phán quan niệm của E.Đuyrinh cho rằng; tính
thống nhất của thế giới là ở sự tồn tại của nó và Ph. Ăngghen đó khẳng định:
“Tớnh thống nhất của thế giới khụng phải ở sự tồn tại của nú, mặc dự tồn tại
là tiền đề của tính thống nhất của nó vỡ trước khi thế giới có thể là một thể

23
thống nhất thỡ trước hết thế giới phải tồn tại đó…tớnh thống nhất thực sự của
thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh
không phải bằng vài ba lời lẽ khộo lộo của kẻ làm trũ ảo thuật mà bằng sự
phỏt triển lõu dài và khú khăn của triết học và khoa học tự nhiên” [27, 72].
Điều này rất cần thiết phải nhắc lại vỡ đây là điều có ý nghĩa nền tảng đối
với việc xem xét các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật
chất, đặc biệt mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Hơn nữa trong sự tranh
luận giữa Đuy Rinh và Ph. Ăngghen thỡ Ph. Ăngghen đó thể hiện quan điểm
hết sức khoa học của mỡnh là thừa nhận sự thống nhất của con người và giới
tự nhiờn ở tớnh vật chất trong sự tồn tại và tiến húa của chỳng. Hơn nữa sự
thống nhất này đó được chứng minh bởi sự phát triển lâu dài, khó khăn của
triết học, của khoa học, của thực tiễn, chứ không phải của “vài ba lời lẽ khộo
lộo của kẻ làm trũ ảo thuật….”.
Ph.Ăngghen cũn đặc biệt nhấn mạnh rằng, sự thống nhất vật chất của
thế giới được thể hiện ở sự vận động, chuyển hóa và phát triển không ngừng
của các thuộc tính, các quá trỡnh, cỏc kết cấu vật chất tạo nờn nú “vận động
là cách thức tồn tại của vật chất. Bất kỳ, bao giờ và ở đâu cũng không và
không thể có vật chất không có vận động” [29, 99].
Ph.Ăngghen đó chỉ ra, khoa học từ nhiều góc độ khác nhau, đó chứng

minh được sự hỡnh thành, vận động và phát triển của giới tự nhiên, khám phá
được bản chất của sự sống và sự thống nhất vật chất của nó với giới tự nhiên,
cả giới tự nhiên vô cơ, cả giới tự nhiên hữu cơ như khoa học sinh học, khoa
học vật lý đầu thế kỷ 19 đó chứng minh. Bởi vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đó
nhấn mạnh “trong tự nhiờn rỳt cục lại, mọi cỏi đều diễn ra một cỏch biện
chứng chứ khụng phải siờu hỡnh” [7, 36]. Với sự vận động và phát triển lâu
dài của tự nhiên đó làm thoỏt thai ra con người và xó hội loài người, nờn con
người là “một cơ thể phức tạp nhất mà tự nhiên sản sinh ra được” [7, 475]
điều này cho phép chúng ta hiểu được một luận điểm hết sức quan trọng, một

×