Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 100 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐỖ THỊ NGỌC



VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRONG VIỆCTHỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN
TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC







Hà Nội - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐỖ THỊ NGỌC


VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRONG VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80



Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Phan Thanh Khôi


Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………… 1
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, VỀ BÌNH
ĐẲNG DÂN TỘC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI VẤN ĐỀ NÀY Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY……………………………………………………………………………… 9
1.1. Nhận thức chung về giáo dục và đào tạo, về bình đẳng dân tộc………………… …9
1.2.Mối quan hệ giữa giáo dục và đào tạo với việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay………………………………………………………………………………… 35
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO

DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY………………………….………………………………………50
2.1. Thực trạng của giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay………………………………………………………………………………… 50
2.2. Một số giải pháp phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện bình
đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay 82
KẾT LUẬN………………………………………………………………………… …92
DANH MỤC TAIF LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….94


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục và đào tạo luôn là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân
tộc. Giáo dục và đào tạo đã góp phần to lớn trong việc tạo ra những con người có tài
năng, trí tuệ, là nguồn lực quyết định đến thịnh suy của một đất nước. Sự lạc hậu và
kém phát triển của một dân tộc, một quốc gia có nguyên nhân trực tiếp từ giáo dục và
đào tạo. Đặc biệt là trong thời đại khoa học và công nghệ hiện nay, khi hàm lượng
chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm lao động, thì dân tộc nào,
quốc gia nào coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài sẽ tận dụng được cơ hội, điều kiện để vươn lên kịp với đà tiến
chung của thế giới.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm tới
86,2%, còn lại là các dân tộc thiểu số, chỉ chiếm 13,8% dân số cả nước. Phần lớn, các
dân tộc thiểu số cư trú tập trung ở các vùng miền núi, nơi có điều kiện sinh sống còn
gặp nhiều khó khăn; đồng thời đây cũng là nơi có vị trí chiến lược quan trọng về kinh
tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái, sự thông thương với nước ngoài…, kẻ
thù hay tìm cách lợi dụng để phá hoại cách mạng nước ta ở những nơi này.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây
dựng, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của

nhân dân. Đến nay, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước vẫn nhất quán với
nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Thực tiễn cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn và khoa học của chính
sách dân tộc ở nước ta. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
hiện nay, giữa các dân tộc trong nước còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát
triển trên các lĩnh vực. Điều này đã tác động và gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, cần phải có những giải pháp phù
hợp nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn chính sách bình đẳng dân tộc ở nước ta.
Xuất phát từ thực trạng thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong
những năm qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
thực hiện bình đẳng dân tộc. Giáo dục và đào tạo có vai trò nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cần phải đi trước một bước mới tạo được sự bình

2
đẳng thật sự về cơ hội phát triển cho các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Có như
vậy, khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc sẽ dần được xoá bỏ,
dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, miền núi tiến kịp miền xuôi, bình đẳng dân tộc
được thực hiện trên thực tế. Đến lượt nó, khi bình đẳng dân tộc được thực hiện lại trở
thành một trong những yếu tố tạo động lực phát triển cho giáo dục và đào tạo nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nếu
không có kiến thức thì không thể bình đẳng với các dân tộc khác được. Như vậy, giữa
giáo dục và đào tạo với việc thực hiện bình đẳng dân tộc là có mối quan hệ tác động
qua lại, trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo cả nước nói chung, phát triển giáo dục
và đào tạo vùng dân tộc thiểu số nói riêng là cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng
dân tộc.
Do đó, tác giả chọn vấn đề: “Vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực
hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Ở Việt Nam, liên quan đến đề tài, đã có nhều công trình nghiên cứu. Xét theo
phạm vi và đối tượng nghiên cứu, có thể chia thành các nhóm như sau:

2.1. Nhóm nghiên cứu về giáo dục và đào tạo.
2.1.1. Các văn kiện của Đảng cộng sản và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục –
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã
nêu rõ thực trạng giáo dục và đào tạo; định hướng chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nhiệm vụ và mục tiêu phát triển
giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2000; những giải pháp chủ yếu; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục. Về giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số,
trong Nghị quyết nêu rõ: “Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xoá “điểm
trắng” về giáo dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và các trường bán
trú ở cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để đào
tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và
quản lý” [19, tr. 35 ].

3
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành trung ương khoá IX có Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII và phương hướng phát triển giáo dục từ nay đến năm 2005 và đến
năm 2010. Phần kiểm điểm, đánh giá, nguyên nhân tập trung vào 5 nội dung lớn: quy
mô giáo dục; chất lượng giáo dục; quản lý giáo dục; phát triển giáo dục vùng dân tộc
và các vùng khó khăn; giải quyết các điều kiện phát triển. Báo cáo đã nêu ra các chỉ
tiêu cụ thể đối với các cấp, bậc học, nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục… Liên
quan tới giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số có chính sách ưu tiên phát triển các
cơ sở giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số. Củng cố và tăng cường hệ thống trường
nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số… Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào
tạo theo địa chỉ đối với các vùng này.
- Chính phủ, số: 201/2001/QĐ-TTg, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010”, ngày 28/12/2001, đã

nêu rõ các vấn đề: tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay; bối cảnh và thời cơ, thách
thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới; các quan điểm chỉ đạo phát triển
giáo dục; mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010; các giải pháp phát triển giáo
dục; tổ chức thực hiện chiến lược. Liên quan tới phát triển giáo dục và đào tạo vùng
dân tộc thiểu số, trong Chiến lược đã nêu rõ: ưu tiên phát triển các cơ sở giáo dục ở
những vùng còn đặc biệt khó khăn
- Quốc hội, luật số: 38/2005/QH11, Luật Giáo dục (2005) đã khẳng định giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của cả toàn dân.
Luật nêu rõ mục đích, vai trò và căn cứ xây dựng luật, phạm vi điều chỉnh, quy định về
tổ chức và hoạt động giáo dục, những quy định chung về giáo dục… Liên quan tới
chính sách ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số ,
trong Luật Giáo dục đã có qui định rõ tại Điều 82, Mục 3, Chương IV về chính sách
đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, có điều kiện
kinh tế – xã hội còn đặc biệt khó khăn; Điều 89, 90 trong Mục 2, Chương V về chính
sách đối với người học, chế độ cử tuyển…
2.1.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Tập văn bản các chế độ chính sách có liên
quan tới học sinh, sinh viên (lưu hành nội bộ), tổng hợp các Quyết định, Nghị định

4
của Chính Phủ, các Thông tư liên tịch của các Bộ liên ngành về chế độ chính sách có
liên quan đến học sinh, sinh viên.
- Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Trung tâm Thông tin và tư vấn phát triển
(2005), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, nêu tổng
luận lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam qua từng thời kỳ: 1945 – 1986; 1986 –
1990; 1990 – 1995; 1995 – 2000; 2000 - 2003; 2003 – 2005. Trong mỗi thời kỳ, các
tác giả đưa ra số liệu cụ thể về số lượng trường, lớp, giáo viên ở từng cấp bậc học.
- GS,TS. Nguyễn Hữu Châu (Chủ biên) (2007), Giáo dục Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội, làm rõ một số vấn đề chung của giáo dục Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XXI: tình hình, phương hướng phát triển giáo dục Việt

Nam; hệ thống giáo dục quốc dân: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên.
- Tác giả Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoa (Chủ biên) (2008), Giáo dục và đào tạo
– chìa khoá của sự phát triển, Nxb Tài chính, làm rõ về vai trò của giáo dục và đào
tạo trong tư duy và thực tiễn phát triển hiện đại; những thành tựu và yếu kém của hệ
thống giáo dục; nguyên nhân của những yếu kém trong giáo dục và đào tạo; phát huy
tác dụng của giáo dục và đào tạo trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Nhóm nghiên cứu về vấn đề dân tộc (có đề cập đến bình đẳng dân tộc) ở
nước ta.
2.2.1. Các văn kiện của Đảng Cộng sản và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khoá IX về công tác dân tộc phân tích rõ những thành tựu đã đạt
được, những mặt thiếu sót, yếu kém trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, đưa
ra quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn cán bộ trong tình hình hiện nay. Dựa trên
những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với nguyên tắc cơ bản là:

5
“bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X , đã có sự điều chỉnh về nguyên tắc trong chính sách dân tộc của nước ta phù hợp
với đặc điểm tình hình mới là: các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định số
34/2006/QĐ-TTg, ngày 08 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Đề án đào tạo bồi dưỡng cán bộ. công chức xã, phường, thị trấn dân tộc thiểu số giai
đoạn 2006 -2010 xác định rõ mục tiêu: đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
xã người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có phẩm chất và năng lực, đảm bảo về tiêu chuẩn, cơ cấu dân tộc, trình độ…thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số.
- Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định số
07/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân
tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II ).
2.2.2. Các công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc (có liên quan đến bình đẳng
dân tộc) ở nước ta.
- GS.TS Trịnh Quốc Tuấn (Chủ biên) (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện
nay - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày nội
dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân
tộc, phản ánh thực trạng tình hình các dân tộc ở nước ta, sự phát triển không đồng đều,
tình trạng chênh lệch lớn trên nhiều lĩnh vực giữa các dân tộc, nguyên nhân của sự
chênh lệch, các giải pháp khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc.
- GS.TS Phan Hữu Dật (Chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách liên quan đến quan hệ dân tộc hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học KX 04 - 05 thuộc chương trình
khoa học và công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1996 – 2000. Nội dung chương I của đề
tài trình bày: khái niệm dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc. Trong chương III của đề tài bàn đến chính sách dân tộc của Đảng Cộng

6
sản Việt Nam và quan hệ dân tộc ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương với chuyên đề Vấn đề dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chuyên đề phân tích tình hình, đặc điểm mối quan hệ giữa các dân tộc, tộc người trên

thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra những cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc xây dựng chính sách dân tộc của Đảng, nội dung và những phương
hướng, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc.
- Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Bộ Khoa học và Công nghệ (2006),
Đề tài độc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu giải pháp đảm bảo bình đẳng và tăng cường
hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng đa dân tộc ở
miền núi”, chủ nhiệm đề tài GS,TS. Hoàng Chí Bảo. Đề tài đưa ra giải pháp: đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao cho các vùng dân tộc thiểu số và miền núi từ hệ thống
các trường DTNT, các trường đào tạo nghề, các trường đại học, cao đẳng.
- Tô Văn Vỹ (2009), Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số cơ sở quan trọng
để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc số 59. Trong bài
viết, tác giả đã nêu khái quát những thành tựu và hạn chế của giáo dục và đào tạo
vùng dân tộc thiểu số, tìm ra nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế, từ đó nêu ra
những vấn đề cần quan tâm trong sự nghiệp giáo dục của vùng. Bài viết đề cập đến
mối quan hệ giữa phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số với việc thực hiện bình
đẳng dân tộc ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu trên đây đều trực tiếp (hay gián tiếp) có liên quan đến
giáo dục và đào tạo, bình đẳng dân tộc và mối quan hệ giữa hai vấn đến này ở nước ta,
song vẫn còn thiếu những công trình lý luận phân tích một cách toàn diện, có hệ thống
mối quan hệ giữa giáo dục và đào tạo với việc thực hiện bình đẳng dân tộc theo góc
độ duy vật biện chứng để từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu nhằm phát huy tốt vai
trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận về giáo dục và đào tạo, về bình đẳng dân tộc và mối quan hệ
giữa hai vấn đề này, luận văn phân tích vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực
hiện bình đẳng dân tộc, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò

7
quan trọng này của giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề nhận thức chung về giáo dục và đào tạo; về bình đẳng
dân tộc .
- Phân tích mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và đào tạo với thực hiện bình đẳng
dân tộc ở nước ta.
- Phân tích thực trạng vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện bình
đẳng dân tộc ở nước ta.
- Đề ra những giải pháp phát huy tốt hơn vai trò của giáo dục và đào tạo trong
việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về vai trò của giáo dục và đào tạo với việc thực thực hiện bình đẳng
dân tộc ở nước ta từ khi có Văn kiện chuyên đề của Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII (1997) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 cho đến
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua ở nước ta
có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã đứng vững trên cơ sở phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời vận dụng đồng bộ các
phương pháp chuyên ngành và phương pháp liên ngành:
- Phương pháp lôgíc - lịch sử.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, hệ thống hoá.




8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về những vấn đề liên quan đến đề tài.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập, nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến đề tài.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.
Chương 1: Nhận thức chung về giáo dục và đào tạo, về bình đẳng dân tộc và
mối quan hệ giữa hai vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo
trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.



















9
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, VỀ BÌNH
ĐẲNG DÂN TỘC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI VẤN ĐỀ NÀY Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. Nhận thức chung về giáo dục và đào tạo, về bình đẳng dân tộc ở nước
ta hiện nay.
1.1.1. Nhận thức chung về giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
a. Quan niệm về giáo dục và đào tạo.
Giáo dục có thể hiểu một cách khái quát nhất là quá trình bao gồm tất cả các
hoạt động định hướng vào sự phát triển, rèn luyện năng lực (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo)
và phẩm chất (niềm tin, đạo đức, thái độ) ở con người để có được nhân cách đầy đủ và
trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Hiểu một cách hẹp hơn, giáo dục là quá trình
được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những
kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Nhờ có giáo dục mà các các thế hệ con
người nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá của mỗi cộng đồng dân tộc và nền văn
minh của cả nhân loại luôn được kế thừa, bổ sung.
Cùng với khái niệm giáo dục, người ta còn dùng khái niệm đào tạo. Đào tạo là
quá trình phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ, tư cách… đòi
hỏi ở một cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Như vậy, đào tạo
được hiểu là một dạng đặc thù của giáo dục, trong đó nó hướng nhiều về giáo dục
chuyên môn nghề nghiệp. Trong thực tế, nhiều khi giáo dục được dùng theo nghĩa
rộng bao hàm cả đào tạo, Nhưng đầy đủ nhất là dùng cụm từ giáo dục và đào tạo.
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều tư tưởng, quan điểm cùng các kiểu giáo dục
khác nhau, phù hợp với từng thời kỳ phát triển xã hội nhất định. C.Mác – Ph.Ănghen
và cả V.I. Lênin, trong các nghiên cứu lý luận của mình, đều rất quan tâm đến vấn
đề giáo dục. Sau này, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, cho thấy giáo dục luôn có

ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đến
nay, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [5, tr. 1].
Mục tiêu của giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,

10
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Để đạt được mục tiêu và đảm bảo tính chất của nền giáo dục Việt Nam, yêu cầu
đối với nội dung giáo dục và đào tạo nước ta là: “đi đôi với truyền thụ kiến thức, đào
tạo nghề nghiệp, nâng cao năng lực tư duy sáng tạo, cần đặc biệt quan tâm bồi dưỡng
phẩm chất, đạo đức cho học sinh, sinh viên; khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong
nhà trường. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin; giảng
dạy tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường học; coi trọng giáo dục về lịch sử, văn hiến
Việt Nam; giới thiệu tinh hoa văn hoá nhân loại cho thế hệ trẻ. Giáo dục, đào tạo phải
theo hướng cân đối giữa “dạy người”, dạy chữ, dạy nghề, trong đó “dạy người” là mục
tiêu cao nhất. Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có
bản lĩnh vững vàng. Có tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi, có chí học tập, rèn
luyện để lập thân, lập nghiệp, vững vàng tiếp bước các thế hệ đi trước, góp phần đưa đất
nước đến hưng thịnh, phú cường” [19, tr.10-11]. Yêu cầu về nội dung giáo dục phải
đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư
tưởng và ý thức công dân; kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm, sinh lý lứa
tuổi của người học.
Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
phải kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chúng ta cần ra sức phấn đấu xây

dựng một nền giáo dục tiên tiến có quy mô, trình độ và cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhiều tổ chức
chính trị – xã hội của nhân dân với quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, nền giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mới, góp phần nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam từng bước được kiện toàn
nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm đổi
mới và tạo tiền đề cho sự hội nhập quốc tế.
Theo quy định tại Điều 4, Chương I, Luật Giáo dục (2005), hệ thống giáo dục

11
quốc dân có giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ
đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân:
- Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm, giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi, gồm có:
+ Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ ba tháng tuổi đến ba tuổi.
+ Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi.
+ Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em
từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
- Giáo dục phổ thông gồm có:
+ Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm, tuổi của học sinh vào lớp một là sáu tuổi.
+ Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong bốn năm, từ lớp sáu đến
lớp chín. Học sinh vào lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là
mười một.
+ Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
mười đến lớp mười hai. Học sinh vào lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ
sở, có tuổi là mười lăm.
- Giáo dục nghề nghiệp gồm có:
+ Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ ba đến bốn năm học đối với

người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm đối với người có bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông.
+ Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp,
từ một đến ba năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng.
- Giáo dục đại học gồm có:
+ Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng trung học phổ thông hoặc có bằng tốt
nghiệp trung cấp; từ một năm ruỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
trung cấp cùng chuyên ngành.
+ Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tuỳ theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng
tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt

12
nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.
+ Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp đại học.
+ Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm đối với người có bằng thạc sĩ.
Giáo dục thường xuyên có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu thay đổi công nghệ trong sản xuất và đời
sống, xây dựng xã hội học tập. Giáo dục thường xuyên vừa là phương thức học tập,
mặt khác do nhu cầu phát triển đã trở thành một bộ phận quan trọng bên cạnh giáo
dục chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tại Mục 5, Chương 2, Luật Giáo
dục (2005) nêu rõ: giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên
tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm viêc làm, tự
tạo lập việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Giáo dục thường xuyên bao gồm
nhiều chương trình đào tạo: chương tình xoá mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết

chữ; chương tình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học, cập nhật kiến thức, kỹ
năng, chuyển giao công nghệ; chương trình đào tạo. bồi bưỡng nâng cao trình độ về
chuyên môn, nghiệp vụ; chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo
dục quốc dân theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn.
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại hình sau:
- Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đảm
bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
- Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cấp cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng
cơ sở sản xuất và đảm bảo kinh phí hoạt động.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí
hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để các trường công lập giữ vai trò nòng cốt.
Trong hệ thống giáo dục Việt Nam có trường của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, chính trị – xã hội có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trường

13
của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp và công nhân viên quốc phòng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh đó, trong hệ thống giáo dục Việt Nam còn có các loại trường chuyên
biệt, bao gồm trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú,
trường dự bị đại học; trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật; trường giáo dưỡng.
Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp với các loại hình đào tạo. Về
cơ bản đã xoá được “xã trắng” về giáo dục mầm non; trường tiểu học và trung học cơ
sở đã có tới xã; trường trung học phổ trung có tới huyện, phần lớn các huyện đều có
nhiều trường trung học phổ thông. Hệ thống các trường dạy nghề, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học tuy được phân bố chưa đều, nhưng ở hầu hết các địa phương
trong cả nước cũng có ít nhất một trong các loại trường nói trên.
Về qui mô học sinh, sinh viên đều tăng qua các năm học. Đội ngũ nhà giáo ở

các cấp bậc học tiếp tục được phát triển. Do số lượng giáo viên ở các cấp, bậc học đều
tăng lên, dẫn đến tỷ lệ giáo viên trên lớp cũng có những chuyển biến đáng kể trong cả
nước. Đại bộ phận nhà giáo tận tuỵ với nghề, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần
trách nhiệm cao, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ. Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên,
có trình độ lý luận chính trị, tin học và ngoại ngữ.
Trong những năm qua, giáo dục nhận được sự quan tâm và ưu tiên từ Trung
ương đến địa phương. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đã tăng đáng kể ngay
từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII).
Cùng với việc kiện toàn trong hệ thống giáo dục quốc dân, mạng lưới trường
lớp, các cấp bậc học, đội ngũ nhà giáo…, thì những vấn đề quan trọng khác của nền
giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay như: ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo đối
với vùng dân tộc thiểu số, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, chủ trương xã
hội hoá giáo dục… cũng đã có những bước chuyển biến đáng kể, đáp ứng phần lớn
nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặc dù vậy, so với đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới, nhất là từ khi chúng
ta bước vào quá trình hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều

14
hạn chế, bất cập. Giáo dục và đào tạo phải đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu học tập của
nhân dân, tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân có thể tham gia học tập ở các trình độ.
Giáo dục Việt Nam là một nền giáo dục cho mọi người và là một nền giáo dục thực sự
có chất lượng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo. Đại hội VII đã khẳng định phát triển
giáo dục (cùng khoa học, công nghệ) là quốc sách hàng đầu. Đến Nghị quyết Trung
ương 2 (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000, thì vai trò quan trọng
của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển của đất nước ngày càng được khẳng định

và giáo dục đã thật sự được coi là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội của nước ta. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
đã xác định rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta, đó là:
Thứ nhất, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Thứ hai, xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phát triển giáo dục và đào tạo phải đảm bảo gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng.
Thứ tư, giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam trong giai đoạn
2001 – 2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một
cách có hệ thống và đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo
dục; phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chấn hưng đất nước,
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chóng sánh vai cùng các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục đưa ra và dần đi đến hoàn thiện
Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 (dự thảo lần
thứ 23), lấy ý kiến của các cơ quan, ban ngành, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn này đã nêu ra: trong vòng 20 năm tới
phấn đấu xây dựng một nền giáo dục hiện đại, khoa học, dân tộc làm nền tảng cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền

15
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội học tập, có khả
năng hội nhập quốc tế.
Quan điểm lấy phát triển giáo dục và đào tạo (cùng với khoa học và công nghệ)
làm “yếu tố cơ bản, coi đó là khâu đột phá” [19, tr. 9] khi đất nước bước vào thời kỳ mới
của Đảng ta càng khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo trong sự phát
triển toàn diện của đất nước. Vì vậy, phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan
trọng nhất.

b. Tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển ở nước ta hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo. Điều đó chứng tỏ, tầm quan trọng
đặc biệt của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển toàn diện ở nước ta hiện nay. Trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định
huớng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã nêu rõ: “Giáo dục – đào tạo đã góp phần nâng cao dân
trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ cán bộ
đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Trong
nông nghiệp, công nghiệp và một số ngành khác, đội ngũ cán bộ và công nhân nước ta có
khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng một số công nghệ mới” [19, tr. 21]. Điều này
càng khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển ở nước ta
hiện nay.
Thứ nhất, giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao dân trí.
Dân trí là trình độ học vấn, trình độ hiểu biết về khoa học - kỹ thuật; tư tưởng-
chính trị, đạo đức và lối sống của nhân dân gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể về
kinh tế, văn hoá, chính trị - xã hội của dân tộc và quốc tế.
Trình độ học vấn là sự hiểu biết của nhân dân đối với những kiến thức phổ thông
về tự nhiên và xã hội. Trình độ hiểu biết khoa học - kỹ thuật là trình độ chuyên môn,
khả năng thực hành về một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Lập trường tư tưởng – chính
trị đúng, vững vàng, kiên định sẽ giúp con người có lý tưởng, có hoài bão, có sự định
hướng trong tương lai; đạo đức nhất là đạo đức cách mạng sẽ giúp con người tự điều

16
chỉnh hành vi, hoạt động phù hợp với sự phát triển đi lên của xã hội; lối sống giản dị,
văn minh, hiện đại sẽ dần loại bỏ những tập quán, thói quen, hủ tục lạc hậu.
Nâng cao dân trí là nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì, nâng cao dân trí, trước hết là phải làm cho người dân “biết đọc, biết

viết”, sau đó phải học tập văn hoá. Nếu không học tập văn hoá, không có trình độ văn
hoá thì không học tập được khoa học - kỹ thuật, không học tập được khoa học - kỹ
thuật thì không theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; nhưng phải chú ý học tập
chính trị vì nếu chỉ chỉ học văn hoá, kỹ thuật mà không học chính trị thì như người
nhắm mắt mà đi.
Nâng cao dân trí có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Nó là nhân tố cơ bản để phát huy nguồn nhân lực, là
một trong những yêu cầu của tiến bộ xã hội. Vì vậy, vấn đề nâng cao dân trí trở thành
vấn đề cấp bách trong quá trình phát triển đi lên của nước ta.
Như chúng ta đã biết, trình độ dân trí được đo bằng nhiều chỉ báo và được hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó học vấn được xem như là chỉ báo quan trọng
nhất. Giáo dục và đào tạo là thiết chế quan trọng trong việc nâng cao trình độ học vấn
và phổ cập tri thức nói chung, mang lại cho cá nhân và cộng đồng những tri thức cơ
bản đã được xã hội công nhận. Vì thế, giáo dục và đào tạo đã trở thành một trong các
nhân tố góp phần nâng cao dân trí (cùng với khoa học – công nghệ và hệ thống truyền
thông đại chúng).
Giáo dục và đào tạo là phương thức chủ yếu nhất, hữu hiệu nhất để phát triển trí
tuệ, trang bị kiến thức, hình thành kỹ năng, chuyên môn nghề nghiệp góp phần nâng
cao trình độ dân trí, cung cấp cho xã hội nguồn lao động có kỹ thuật cao – nhân tố
quyết định đến sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây cũng
chính là mặt trận hàng đầu trong công cuộc xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay, hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm từ giáo dục mầm non
đến giáo dục đại học, với các loại hình trường công lập và ngoài công lập, phương
thức đào tạo đa dạng chính quy và thường xuyên. Đây là tiền đề quan trọng để xây
dựng một xã hội học tập, nâng cao trình độ học vấn cũng như trình độ hiểu biết khoa
học - kỹ thuật, trang bị lập trường tư tưởng – chính trị vững vàng, đạo đức và lối sống
văn minh cho quần chúng nhân dân.

17
Giáo dục mầm non với mục tiêu giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí

tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Giáo dục phổ thông
với mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học
có sứ mệnh to lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Trình độ học vấn, trình độ hiểu biết khoa học - kỹ thuật, lập
trường tư tưởng – chính trị, đạo đức và lối sống - những nhân tố quan trọng của trình
độ dân trí được nâng cao chủ yếu là thông qua hệ thống giáo dục này.
Trong thời đại ngày nay, một quốc gia được coi là giàu mạnh khi quốc gia đó
có nền kinh tế mạnh, có trình độ văn hoá, khoa học và công nghệ tiên tiến, chính trị ổn
định, và một tiêu chí đặc biệt quan trọng là quốc gia đó phải có một trình độ dân trí
cao. Một quốc gia có trình độ dân trí cao bao giờ cũng là một quốc gia có một nền
giáo dục phát triển mạnh mẽ, thoả mãn nhu cầu học tập của nhân dân.
Để trở thành một quốc gia có trình độ dân trí cao, thì giáo dục xã hội được thực
hiện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, trong đó, con đường quan trọng
nhất là tổ chức dạy học trong nhà trường nhằm giúp học sinh, sinh viên nắm vững tri
thức khoa học và kinh nghiệm xã hội, hình thành phương pháp tư duy năng động và
sáng tạo và kỹ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Như vậy giáo dục trực tiếp bồi
dưỡng trình độ học vấn, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết khoa học - kỹ thuật, lập
trường tư tưởng – chính trị, đạo đức và lối sống lành mạnh cho mỗi cá nhân, đó là con
đường nâng cao dân trí xã hội.
Thứ hai, giáo dục và đào tạo góp phần cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một khu vực, một địa phương
là tổng hợp những tiềm năng lao động của con người có được trong một thời điểm xác
định, tiềm năng đó bao gồm thể lực, trí lực và tâm lực (đạo đức, lối sống, nhân
cách…) của bộ phận dân số có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Đây là
tài nguyên quan trọng nhất, cơ bản nhất của quốc gia, là yếu tố quyết định của lực


18
lượng sản xuất.
Khi xem xét đánh giá nguồn nhân lực ở bất kỳ quốc gia nào, người ta không
chỉ quan tâm về số lượng mà còn quan tâm về chất lượng với các yếu tố khác nhau
như: năng lực chuyên môn, trình độ tay nghề, khả năng biến trí thức thành kỹ năng lao
động… Để đáp ứng nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng được những đòi hỏi ngày
càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần đến một
hệ thống các giải pháp đồng bộ, từ giải pháp về giáo dục và đào tạo, về chăm sóc sức
khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống, đến giải pháp về phát
triển văn hoá, tạo ra các động lực kích thích tính tích cực của con người…Trong hệ
thống các giải pháp đó, phát triển giáo dục và đào tạo chiếm vị trí hàng đầu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã đề ra mục tiêu phấn đấu
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện mục
tiêu chiến lược mà Đại hội VIII đã đề ra, chúng ta cần khai thác và sử dụng nhiều
nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết
định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn han
hẹp. Trong Hội nghị lần hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã nêu rõ:
nguồn nhân lực là “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm
chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi bưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn
liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại. Giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào
tạo nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học và công nghệ” [21,
tr. 8]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: " Phát
triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững"[20, tr.108]. Một
trong những mục tiêu chung phát triển giáo dục của nước ta đến năm 2010 là: ưu tiên
nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học – công
nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề
trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Như vậy, trong quan niệm của Đảng và Nhà nước, phát triển mạnh giáo dục và
đào tạo là yếu tố không thể thiếu để phát huy nguồn lực con người trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là yếu tố tham gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định

19
trong chiến lược phát triển con người ở nước ta hiện nay.
Sở dĩ giáo dục và đào tạo được coi là “then chốt” để phát triển nguồn nhân lực
là vì trong các yếu tố cấu thành nên chất lượng lao động, thì hầu hết các yếu tố đều có
chịu sự tác động của giáo dục và đào tạo. Muốn có năng lực chuyên môn, trình độ tay
nghề hay khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động tốt…đòi hỏi người lao động
phải được đào tạo một cách bài bản, khoa học ngay từ dưới mái trường. Muốn có một
thể lực tốt, ngoài chế độ ăn uống, thì công tác giáo dục thể chất đóng vai trò quan
trọng. Giáo dục thể chất không những giúp cho con người có thể lực tốt mà nó còn có
tác dụng bổ trợ rất nhiều cho các kỹ năng, kỹ xảo trong các hoạt động sản xuất của
con người được nhanh nhẹn hơn, hoạt bát hơn.
Giáo dục và đào tạo là con đường không thể thiếu để nâng cao trình độ văn
hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học - kỹ thuật, xử lý công nghệ, tổ chức quản lý
và năng lực thực tiễn của người lao động. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, với nền
khoa học tiên tiến và quá trình hội nhập quốc tế, nhu cầu lao động xã hội rất đa dạng,
càng đòi hỏi người lao động phải được đào tạo qua hệ thống nhà trường, có kiến thức
sâu rộng, có nghiệp vụ, có phương pháp tư duy năng động…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp giáo dục mà chúng ta
xây dựng hiện nay có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung thành với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, có đầy đủ tài năng, phẩm chất và bản lĩnh để vượt qua
mọi thách thức, đưa nước phát triển hoà nhịp chung với các nước trong khu vực và quốc
tế. Giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng nhân cách và
định hướng nghề nghiệp để đào tạo công nhân kỹ thuật. Các trường dạy nghề, trường
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đang tham gia vào quá trình đào tạo công
nhân, nhân viên kĩ thuật lành nghề, chuyên gia giỏi cho các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
khoa học, công nghệ và quản lí nhà nước, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, mạnh về

chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười khai mạc Hội
nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã nêu rõ: “Phát triển
mạnh giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên mà trọng tâm là đào tạo công nhân lành
nghề có khả năng tiếp thu và ứng dụng các loại công nghệ thích hợp, kể cả công nghệ
hiện đại. Khuyến khích và hướng dẫn dạy nghề tại các doanh nghiệp. Mở rộng quy mô

20
với cơ cấu hợp lý và nâng cao chất lượng giáo dục đại học nhằm đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài” [19, tr. 11].
Tại Mục 3 và Mục 4, Chương II, Luật Giáo dục (2005) của nước ta đã quy định:
giáo dục nghề nghiệp có mục tiêu là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng
tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ. Đây chính là đội ngũ công nhân lành nghề, có trình độ và tay nghề cao, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng; giáo dục đại học có mục
tiêu chung là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân
dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo,
có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, giáo dục Việt Nam đã và đang khởi đầu thực hiện nhiệm vụ đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học và công nghệ. Với vai trò
cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay,
giáo dục và đào tạo ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc thay đổi nền sản xuất vật
chất của xã hội.
Thứ ba, giáo dục và đào tạo góp phần bồi dưỡng nhân tài
Nhân tài là những nhân vật xuất chúng, có năng lực trí tuệ đặc biệt, có tầm nhìn
xa, trông rộng, có khả năng phát hiện và giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả những
vấn đề phức tạp, nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống ở từng giai đoạn lịch sử. Nhân tài
xuất hiện trong các thời đại, ở nhiều lĩnh vực.

Từ những mầm mống tư chất về trí tuệ hay thể lực, với một phương pháp tiên
tiến, nền giáo dục hiện đại có thể sớm phát hiện để bồi dưỡng làm phát triển hết tài
năng của con người.
Mỗi quốc gia hiện nay đều quan tâm tới việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài,
đồng thời có chính sách trọng dụng nhân tài. Nhân tài được đào tạo, bồi dưỡng, được
tạo mọi điều kiện tốt nhất để làm việc, họ sẽ có những cống hiến hết sức to lớn, đem
lại vẻ vang cho đất nước.
Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên việc thực hiện phổ cập giáo
dục một cách rộng rãi, qua đó mà sàng lọc, lựa chọn, phát hiện nhân tài từ cơ sở, ở

21
mọi địa phương, mọi vùng dân cư. Mặt khác phải có sự đầu tư thích đáng, nhằm đảm
bảo cơ sở, điều kiện vật chất, kỹ thuật, tài chính nhất định, để hiện thực hoá các chủ
trương, biện pháp nhằm thực hiện tốt nhất tư tưởng chiến lược về đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài.
Hiện nay, ở nước ta đã tổ chức nhiều trung tâm giáo dục chất lượng cao với hệ
thống trường chuyên (dạy các môn văn hoá cơ bản), các trường năng khiếu đã tiến
hành tuyển chọn những học sinh có năng khiếu để đào tạo, bồi dưỡng bằng những
phương pháp sư phạm thích hợp.
Bên cạnh đó, việc đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề bậc cao, kỹ sư, cử
nhân tài năng (nhất là cho các ngành mũi nhọn như bưu chính viễn thông, dầu khí…)
đang dần được chú trọng. Những trung tâm giáo dục và đào tạo lớn của cả nước như:
Đại học quốc gia, trường đại học Sư phạm, trường đại học Bách Khoa… là nơi đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài trên nền tảng sáng tạo, nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ đỉnh cao, là nơi hội tụ những nhân tài khoa học
xuất sắc, sinh viên tài năng hàng đầu của cả nước.
Nhiều đề án gửi người đi học nước ngoài bằng ngân sách nhà nước bắt đầu từ
năm 2000 đã được Chính phủ phê duyệt. Đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
mang tính ưu việt nhằm bồi dưỡng nhân tài, phát triển tiềm năng trí tuệ của con người,
đó là tiềm năng của mọi tiềm năng, tài sản vô giá của cả dân tộc và thời đại.

Tuy nhiên, việc đào tạo nhân tài ở nước ta chưa đuợc quan tâm đúng mức,
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thiếu cơ chế,
chính sách trọng dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao. Trong hợp tác
quốc tế về giáo dục, chưa chú ý đúng mức đến nội dung và mục tiêu giáo dục; chưa
thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với các chương trình hợp tác quốc tế.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương khoá IX, đã
nêu rõ nhiệm vụ đào tạo nhân tài của nền giáo dục nước ta hiện nay là: “Đặc biệt chú
trọng phát triển nhân tài, tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tổ chức, phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thu hút nhân tài vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
các cơ quan Nhà nước, tạo môi trường thuận lợi để phát huy nhân tài. Trước mắt, sớm
có chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo và cán bộ khoa học có trình độ cao (giáo
sư, phó giáo sư, tiến sĩ khoa học). Xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy

22
học và đội ngũ giáo viên tại các trường phổ thông chuyên, đào tạo nghề kỹ thuật bậc cao,
kỹ sư và cử nhân tài năng, tập trung vào các ngành mũi nhọn ” [21, tr. 48].
Như vậy, với vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay đã thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu và là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước thắng lợi.
1.1.2. Nhận thức chung về bình đẳng dân tộc
a. Quan niệm về bình đẳng dân tộc
Khái niệm dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ. Điều đó, một
phần là do dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và góc độ khác nhau;
mặt khác, do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở
nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Đứng trên quan điểm mácxít và dưới góc độ
triết học chính trị, khái niệm dân tộc được hiểu là một cộng đồng xã hội ổn định có
những đặc trưng cơ bản sau:
- Có chung một lãnh thổ – không gian sinh tồn.

- Có chung một phương thức sinh hoạt vật chất kinh tế.
- Có chung một ngôn ngữ.
- Có chung những nét tâm lý biểu hiện trong bản sắc văn hoá.
Trên thế giới hiện nay có những quốc gia nhiều dân tộc, gọi là quốc gia đa dân
tộc, những cũng có quốc gia chỉ có một dân tộc, gọi là quốc gia dân tộc. Vì thế mà
khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Khái niệm dân tộc hiểu
theo nghĩa rộng tương ứng với quốc gia, đất nước. Với khái niệm này, đặc trưng lãnh
thổ rất được chú trọng. Khái niệm dân tộc hiểu theo nghĩa hẹp chỉ những tộc người,
những thành phần dân tộc trong quốc gia đa dân tộc. Với khái niệm này, đặc trưng
tâm lý dân tộc và các yếu tố về ý thức dân tộc là nổi bật. Trong các quốc gia đa dân
tộc, thường có dân tộc trội lên về mặt dân số được gọi là: dân tộc đa số; còn các dân
tộc còn lại là: dân tộc thiểu số.
Trong phạm vi của luận văn, nghiên cứu và sử dụng khái niệm dân tộc là theo
nghĩa hẹp: chỉ những tộc người, thành phần dân tộc trong quốc gia đa dân tộc.

×