Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tuyên Quang - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.7 KB, 76 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
***


Trần Hoài Thu



Vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Tuyên Quang-thực trạng và giải pháp




LUẬN VĂN THẠC SĨ






Hà nội – 2006





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
***


Trần Hoài Thu



Vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Tuyên Quang-thực trạng và giải pháp



LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Văn Dương










Hà nội – 2006
1


MỤC LỤC
Mở đầu……………………………………………………………… 2
Chương 1. Vai trò của giáo dục – đào tạo và yêu cầu phát triển giáo
dục - đào tạo ở tỉnh Tuyên Quang…………………………………………8
1.1. Giáo dục và đào tạo – nhân tố quan trọng để thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…………………………………8
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang……………… 14
1.3. Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo ở Tuyên Quang là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước……………… 21
Chương 2. Thực trạng giáo dục và đào tạo ở tỉnh Tuyên Quang 30
2.1. Những thành tựu đã đạt được…………………………………….30
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế của ngành giáo
dục và đào tạo tỉnh Tuyên Quang……………………………………………40
Chương 3. Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của
giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá. hiện đại hoá ở tỉnh
Tuyên Quang……………………………………………………………… 55
3.1. Nâng cao nhận thức trong nhân dân về vai trò của giáo dục và đào
tạo………………………………………………………………………… 55
3.2. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo……………………….58
3.3. Phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng
và phân bố hợp lý giữa các vùng…………………………………………….61
3.4. Đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo………………… 63
3.5. Tạo việc làm cho người học sau khi được đào tạo……………….65
Kết luận………………………………………………………………69
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………….71
2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi nhân loại đang bước vào nền
kinh tế tri thức, khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang
diễn ra mạnh mẽ, chúng ta càng xiết bao ngạc nhiên trước tầm nhìn xa, trông
rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh và càng thấm thía lời dạy của Người: “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người coi sự ngu dốt về tri thức là một thứ
giặc, toàn dân ta phải đồng sức, đồng lòng chống lại và tiêu diệt nó. Hồ Chí
Minh đã kêu gọi, động viên thế hệ trẻ nước ta - những chủ nhân tương lai của
đất nước- tiến lên chiếm lĩnh tri thức, văn hóa, giáo dục. Trong thư gửi học
sinh cả nước nhân dịp khai giảng năm học mới đầu tiên của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (tháng 9/1945) Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trước đây cha
anh các em, và mới năm ngoái cả các em nữa, đã phải chịu một nền giáo dục
nô lệ, nghĩa là nó chỉ đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho bọn
thực dân Pháp. Ngày nay, các em được hưởng cái may mắn hơn cha anh là
được hấp thu một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ
đào tạo nên các em những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một
nền giáo dục phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [20,
tr.10].
Ngày nay, khi Đảng và Nhà nước ta đang lãnh đạo đưa đất nước bước
vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhằm tạo
ra ngày càng nhiều những điều kiện vật chất và kỹ thuật để đẩy mạnh tốc độ
phát triển của đất nước, dần tiến kịp trình độ phát triển với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Để đạt được điều đó, chúng ta cần phải phát huy mọi
tiềm năng của đất nước, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò quyết định
sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Vì vậy, hơn
lúc nào hết, trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải nhanh chóng nâng cao
3

năng lực trí tụê, vốn văn hóa, kỹ năng và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp
cho người lao động, khai thác tốt tiềm năng và sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc
và thời đại phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần có sự quan tâm, đầu tư ở nhiều
mặt như: chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người,
phát triển giáo dục và đào tạo… Trong những nhân tố đó, giáo dục và đào tạo
đóng vai trò trực tiếp và quyết định nhất trong việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, hình thành nên những con người lao động phát triển đầy đủ
năng lực, trí tuệ, có vốn kiến thức khoa học hiện đại.
Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng và
Nhà nước ta đã đặt vấn đề phải đưa giáo dục và đào tạo trở thành quốc sách
hàng đầu. “Giáo dục – đào tạo phải có nhiệm vụ đào tạo ra nguồn nhân lực có
hàm lượng chất xám cao, đào tạo đội ngũ “công nhân khoa học” có khả năng
vận dụng tri thức và sản xuất ra tri thức như F. Ăngghen đã dự báo, nhằm
từng bước đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế lấy sản xuất ra tri thức làm
hoạt động chủ yếu.
Thực hiện chủ trương “xã hội hóa giáo dục”, Đảng và Nhà nước ta đã
lãnh đạo các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân ta hăng hái thi đua vì sự
nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của các tỉnh niền núi còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế - trong đó có tỉnh Tuyên Quang - đặc biệt coi trọng
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và đội ngũ cán bộ, đáp ứng các
yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và của cả nước, nhằm rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giữa miền ngược và miền xuôi, giữa đồng bằng
và miền núi, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội.
4

Mặc dù là một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, lại có
nhiều thành phần dân tộc sinh sống, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng ủy, các
ban ngành đoàn thể, đặc biệt trong đó có ngành giáo dục, cùng với sự quyết

tâm đi lên của người dân, trong những năm qua, ngành giáo dục tỉnh Tuyên
Quang đã đạt được nhiều thành tích góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã
hội và đời sống của các tầng lớp nhân dân cả về đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của tỉnh phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn trong những năm đầu của thế kỷ
XXI. Song bên cạnh đó, ngành giáo dục của tỉnh vẫn còn một số những bất
cập, yếu kém, chưa thật sự phát huy hết được vai trò của nó đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc đặt vấn đề nghiên cứu làm sao để tiếp tục
phát huy hơn nữa vai trò của giáo dục, đồng thời, khắc phục những hạn chế
còn vướng mắc trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo ở Tuyên
Quang, để từ đó góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của nền
giáo dục nước nhà là hết sức cần thiết.
Với suy nghĩ trên, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Vai trò của giáo dục
và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Tuyên
Quang - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, giáo dục và đào tạo là một trong những vấn đề được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, bởi nó sẽ tạo ra một nguồn lực đặc biệt -
nguồn lực con người - là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó các nguồn lực khác
mới phát huy được tác dụng để phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Điều
này được thể hiện trong nhiều văn kiện, nghị quyết quan trọng của Đảng, nhất
là từ khi thực hiện chính sách đổi mới. Đặc biệt bắt đầu từ Nghị quyết của
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa VIII bàn về vấn đề phát triển giáo
dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định: Giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
5

Trước tình hình đó, vấn đề giáo dục và đào tạo đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý đi xem xét,
nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau. Các đề tài nghiên cứu khoa học và

các cuốn sách viết về đề tài nay như: “Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai
vấn đề và giải pháp” của Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng; “Giáo dục
Việt Nam thế kỷ XXI” của Đoàn Văn Khoái… Ngoài ra, có rất nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí quan trọng như: Tạp chí Giáo dục thời đại; Tạp chí Cộng
sản; Tạp chí Nghiên cứu lý luận… Song để đi sâu nghiên cứu tình hình giáo
dục và đào tạo và vai trò của nó ở từng địa phương vẫn còn bỏ ngỏ, đặc biệt
với những tỉnh miền núi như tỉnh Tuyên Quang thì vẫn chưa có đề tài nào đi
sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, mặc dù đã có rất nhiều bài báo đăng trên
báo của địa phương, nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc phản ánh được một mảng
hay một khía cạnh nào đó mà chưa đi sâu khái quát được tình hình giáo dục
và đào tạo cũng như vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa
- hiện đại hóa của tỉnh Tuyên Quang.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
- Làm rõ vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước nói chung và yêu cầu phát triển giáo dục và đào
tạo ở Tuyên Quang
- Khái quát được những thực trạng và hạn chế của quá trình phát triển
giáo dục và đào tạo làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển hơn
nữa vai trò của giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh Tuyên Quang.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ quan điểm của Đảng và nhận thức của địa phương về
vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước nói chung và ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
6

- Đánh giá đúng thực trạng giáo dục và đào tạo của tỉnh Tuyên Quang
trong những năm qua.

- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục phát huy hơn
nữa vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa ở tỉnh Tuyên Quang.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiễn
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về giáo dục và đào tạo, về công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước
ta hiện nay.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực tế phát triển giáo dục - đào tạo, và vai
trò của giáo dục - đào tạo ở nước ta và ở tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chung nhất
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng
phương pháp kết hợp giữa logíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số phương pháp của xã hội học như:
điều tra, thống kê, so sánh để giải quyết những vấn đề đặt ra của luận văn.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề rất rộng, hơn thế nó là một trong
những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, phạm vi của đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vai trò và thực trạng của giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở tỉnh Tuyên Quang.
Thời gian khảo sát chủ yếu thực hiện từ giai đoạn đổi mới đất nước cho
đến nay.
7

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ hơn nữa vai trò
của giáo dục và đào tạo đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của

đất nước nói chung và đối với Tuyên Quang nói riêng .Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của giáo dục và đào tạo trong
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Tuyên Quang.
Kết quả của luận văn có thể làm cơ sở để Đảng bộ và ngành giáo dục
Tuyên Quang hoạch định chủ chương tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục và
đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Ở mức độ nhất định, kết quả của đề tài cũng có thể làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác giảng dạy và những vấn đề liên quan đến giáo dục
và đào tạo của tỉnh Tuyên Quang.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.











8

Chương 1
VAI TRÕ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở TỈNH TUYÊN QUANG

1.1. Giáo dục và đào tạo - nhân tố quan trọng để thúc đẩy nhanh

quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Giáo dục và đào tạo là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Người có công lao to lớn, đặt nền móng cho giáo dục nước
ta là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vị vĩ đại của dân tộc Việt
Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người
dành rất nhiều sự quan tâm , chăm lo đến giáo dục và đào tạo, mở mang dân
trí, coi đó là một điều kiện tất yếu cho một nước độc lập, tự do, tự chủ. Người
đã căn dặn: Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải có con người xã hội
chủ nghĩa. Để có được những con người ấy không thể bằng con đường nào
khác ngoài con đường là phải thông qua giáo dục và đào tạo. Và công việc
này là không thể xem thường mà phải tiến hành thường xuyên liên tục bởi:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Thấy rõ
được vai trò của tri thức, của trí tuệ đối với sự phát triển của quốc gia, dân
tộc, ngay trong ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà (9/1945) Hồ Chí Minh đã nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay: “… Trong những
năm học tới đây, các em hãy cố gắng siêng năng học tập, ngoan ngoãn nghe
thầy, yêu bạn. Sau 80 năm trời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay
chúng ta phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao
cho chúng ta theo kịp các nước khác trên toàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết
đó, nước nhà trông mong, chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một
9

phần lớn vào công học tập của các em” [29, tr.15]. Cũng chính từ việc sớm
nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự hưng
thịnh của đất nước, ngay khi trở thành người đứng đầu chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ trương phải xóa nạn mù chữ, và phải thực hiện “bình dân
học vụ”, vì lúc này hầu như dân ta không biết chữ, do vậy phải phấn đấu để

mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, bởi Người coi nạn dốt cũng là một
thứ giặc, đây là thứ giặc nội xâm nên rất nguy hiểm, đó là kẻ thù của dân tộc
ta. Do đó tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là xây dựng một nền
giáo dục phục vụ sự nghiệp nâng cao dân trí trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính
chất nham hiểm và khắc phục hậu quả tai hại lâu dài của chính sách ngu dân
mà chủ nghĩa thực dân để lại, để làm cho dân tộc Việt Nam trở nên một dân
tộc dũng cảm, yêu nước, yêu dân tộc, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập.
Trong tình hình đó, nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập ra đời
phải là một nền giáo dục nhân dân, một nền giáo dục phục vụ nâng cao dân
trí, để làm cho cả dân tộc thành một dân tộc thông thái, một dân tộc văn minh.
Với tinh thần đó, quy mô giáo dục được mở rộng hơn cho toàn thể nhân dân.
Nền giáo dục đó được coi là nền giáo dục mới, một sản phẩm vô giá của cuộc
Cách mạng tháng Tám.
Tiếp tục kế thừa những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục, từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục và đào tạo. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định: phát triển giáo dục và khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu; Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
khóa VII đã có nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo;
Đến hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã
khẳng định một lần nữa vai trò của giáo dục và đào tạo là: muốn tiến hành
10

công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào
tạo.
Bước vào thế kỷ XXI với một thách thức lớn của thời đại đó là cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đang bùng nổ mạnh mẽ với những tiến bộ kỳ
diệu của khoa học, công nghệ và bối cảnh giao lưu quốc tế hóa đời sống kinh
tế thế giới, đã mở ra những cơ hội thuận lợi cho tất cả các nước nhất là các

nước chậm phát triển, có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học kỹ
thuật của mình, để vươn lên mạnh mẽ, sánh vai với các cường quốc năm châu
nếu không muốn lỡ “chuyến tầu tốc hành” đi vào thế kỷ XXI này, để mãi mãi
chịu tụt lùi phía sau với cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu, với hiểm họa bị áp bức
bóc lột của các thế lực lớn mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị. Câu trả lời chỉ có
thể có được khi nền giáo dục nước ta phát triển với mục đích đào tạo ra đội
ngũ những tri thức cho chủ nghĩa xã hội, mang trong mình đầy tài năng và
nhiệt huyết phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Vậy thì trước hết giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu “nâng cao
dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và
đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an
ninh quốc phòng” [7, tr.21]. Tiếp đó, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu
cầu của mục tiêu chiến lược trong việc đào tạo nguồn nhân lực là: “ Xây dựng
những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý trí kiên cường xây dựng và bảo
vệ tổ quốc; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng
đồng và phát huy tính tích cực của nhân dân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe” [7, tr.28-29].
Để thấy rõ vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các
11

nguồn lực khác, để qua đó thấy được mức độ chi phối của nó đến sự thành,
bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều này được thể hiện ở một số điểm
sau:
Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố luôn luôn vận động
và biến đổi, nó trực tiếp truyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng
lao động và nhờ nó mà con người có thể “nối dài” cánh tay của mình để tác

động vào giới tự nhiên. Tư liệu lao động phản ánh trình độ phát triển của sản
xuất xã hội, nó là cơ sở quyết định sự phát triển của sản xuất, là thước đo khả
năng trinh phục tự nhiên của con người.
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định trong lực
lượng sản xuất lại chính là con người. Về điều này Ph. Ăngghen đã từng nhấn
mạnh: Muốn nâng nền sản xuất lên thì một mình tư liệu lao động, dù là tư liệu
cơ giới hay bất kỳ tư liệu nào khác, cũng không đủ mà còn cần có những con
người có năng lực tương xứng sử dụng những tư liệu đó. Sở dĩ như vậy là vì,
thứ nhất, nếu không có con người trí lực thì dù tư liệu lao động có sức mạnh
đến đâu và đối tượng lao động có phong phú, hiện đại như thế nào đi chăng
nữa thì cũng không có tác dụng và quá trình sản xuất sẽ không được thực
hiện. Thứ hai, trừ đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên, còn lại tất cả
những yếu tố khác trong lực lượng sản xuất từ công cụ lao động, phương tiện
vận chuyển… đều do con người tạo ra. Thứ ba, mọi sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất xét đến cùng đều do con người tạo nên… Tất cả những
yếu tố đó đã làm cho lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi và
phát triển.
- Dưới góc độ công nghệ, con người cũng là thành tố giữ vai trò chi
phối, quyết định đến kết cấu, sự vận hành và hiệu quả của công nghệ. Bởi để
có một sản phẩm đảm bảo chất lượng, được thị trường chấp nhận, thì việc có
thiết bị máy móc tốt chưa đủ, mà còn phải có những con người có tay nghề
phù hợp, nắm được bí quyết công nghệ, có bộ máy quản lý năng động, đủ sức
12

tổ chức sản xuất có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của thị trường… Điều
này đòi hỏi phải có được quan điểm toàn diện, đồng bộ trong việc đánh giá
vai trò của của từng yếu tố, đồng thời cần đặc biệt quan tâm yếu tố con người
trong xây dựng và phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Nếu xem xét dưới góc độ nguồn lực, trong quan hệ với các nguồn lực

khác, nguồn lực con người cũng tỏ rõ vai trò quyết định của mình. Điều này
thể hiện ở chỗ các nguồn lực khác như : vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… bản thân nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, và nó chỉ có thể phát huy
được tác dụng, trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển
khi nó nằm trong tay những người có năng lực khoa học thực sự, biết sử dụng
chúng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Như vậy, có thể khẳng định trong những nhân tố tạo nên sự thành công
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay mà Đảng, nhà nước và
nhân dân ta đang xây dựng, bên cạnh những nguồn lực về vốn, khoa học công
nghệ… thì nguồn lực con người giữ vai trò quyết định nhất, đặc biệt là nguồn
nhân lực có chất lượng cao. Bởi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
thời đại cách mạng khoa học - công nghệ như hiện nay đòi hỏi khá cao về
phẩm chất trí tuệ ở người lao động - một phẩm chất được coi là quan trọng
nhất trong giai đoạn hiện nay. Đó là người lao động phải có năng lực sáng tạo,
có khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật
công nghệ tiên tiến; có năng lực thu nhập và xử lý thông tin trong điều kiện
bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén, thích nghi nhanh và thực sự làm chủ khoa
học - công nghệ hiện đại. Đồng thời, người lao động phải có khả năng biến tri
thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp. Tựu chung lại, tiềm năng sức lao
động - con người với trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ, đó là tài
sản quý giá nhất, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự thành công của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vậy bằng cách nào để có
13

được chất lượng nguồn nhân lực có chất lượng như vậy? Khi xem xét các yếu
tố tác động tạo ra sự phát triển chất lượng nguồn nhân lực con người, thì giáo
dục và đào tạo được coi là nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu. Hay nói
cách khác, giáo dục và đào tạo là con đường, là biện pháp, là bước trực tiếp
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Vì lẽ đó, ngày nay sự giầu có của một nước đồng nghĩa với sự giầu có

về trí tuệ, sức mạnh của một nước đồng nghĩa với sức mạnh của trí tuệ , nó là
tài nguyên của mọi tài nguyên, do vậy đã có quan điểm khẳng định: “Đi trước
một bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của sự tăng trưởng, là
điều kiện để bảo đảm cho sự thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[14, tr.96].
Phát huy thành quả đã đạt được, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn,
nhưng ngành giáo dục nước ta vẫn quyết tâm phấn đấu “dù khó khăn đến đâu
cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt” và Đảng ta đã rất nhiều lần khẳng định:
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là
đầu tư cho phát triển.
Với sự cố gắng đó, trong những năm qua ngành giáo dục và đào tạo
nước ta đã ngăn chặn được sự giảm sút về quy mô và có những bước tăng
trưởng khá. Năm học 1996 - 1997 cả nước có hơn 20 triệu học sinh. Công
cuộc chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai trong cả
nước. Năm 1997 có 16 tỉnh, thành phố, trong đó có 3 tỉnh miền núi, 57% số
huyện, 76% số xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học. Số với năm học 1991 - 1992, trong năm học 1995 -
1996 số học sinh phổ thông tăng 1,25 lần, sinh viên đại học tăng gấp 2,7 lần
[7, tr.20].
Tuy nhiên, để ngành giáo dục nước ta tiếp tục có những thành công
mới và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được kết quả như mục tiêu
mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra, thì cần rất nhiều sự quan tâm của toàn xã hội
14

và sự phấn đấu lỗ lực của bản thân ngành giáo dục, nhằm cung cấp cho xã hội
những con người có tri thức, có năng lực thực sự trong lao động và có khả
năng sáng tạo trong lao động thực tiễn, có thể vươn tới và chiếm lĩnh những
tri thức khoa học của nhân loại.
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang
1.2.1. Đặc điểm về vị trí, địa lý

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc nước ta, với diện tích
5.820km
2
, với số dân là 692,5000 người, bao gồm 24 thành phần dân tộc sinh
sống, trong đó có rất nhiều thành phần dân tộc thiểu số như: Lô lô, Giấy, Sán
dìu, Cao lan… Đồng bào các dân tộc trong tỉnh có truyền thống đoàn kết, yêu
nước, lao động cần cù, anh dũng bất khuất, kiên cường trong đấu tranh chống
kẻ thù xâm lược đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang hòa chung khí thế sục sôi của
cả nước, đã hăng hái lập nên nhiều chiến công, đặc biệt trong cuộc kháng
chiến chống lại hai thế lực xâm lược lớn mạnh là thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, và nhiều địa bàn dân tộc trong tỉnh đã từng là khu căn cứ cách mạng bảo
vệ Đảng, bảo vệ cách mạng trong thời kỳ còn trứng nước. Và ngay cả khi đất
nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhân dân các dân tộc tỉnh
Tuyên Quang cùng với nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc một lần nữa phải
đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược đất nước – 1979. Trong bất kỳ
tình huống nào, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đều quyết tâm bảo vệ
vững chắc biên cương của tổ quốc góp phần quan trọng vào việc giành độc
lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Và ngày nay trong giai đoạn kiến
thiết đất nước, truyền thống đó một lần nữa được tiếp tục được khẳng định và
phát huy, tạo nên động lực quan trọng đưa đất nước bước sang một trang lịch
sử mới với những thời cơ và cả những thách thức mới.
15

Với đặc trưng của tỉnh miền núi, nên địa hình rất phức tạp, có nhiều
vùng núi cao hiểm trở. Các dân tộc thiểu số sống chủ yếu trên núi hay dẻo
cao, giao thông đi lại rất khó khăn, có khi phải đi bộ cả ngày đường mới
xuống tới chân núi. Vì vậy đông bào sống ở đây chỉ khi nào có phiên chợ
hoặc có việc họ mới xuống núi. Ngay cả những dân tộc sống dưới chân núi

nhưng thuộc các xã vùng sâu, vùng xa, họ sống cũng rất tách biệt với trung
tâm thị trấn, thị xã… Nhìn chung, địa hình phức tạp cộng với việc phân bố
dân cư không đồng đều, nhiều vùng đồng bào dân tộc còn sống theo phương
thức du canh du cư, với đặc điểm này đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số
còn lạc hậu, với nhiều tập quán và những hủ tục còn lưu truyền từ nhiều đời
trước đã làm hạn chế suy nghĩ của họ, ví dụ như mê tín dị đoan: ốm đau cúng
bái, tin vào ma quỷ…
Bên cạnh việc đi lại đường xá khó khăn, cùng với tâm lý còn lạc hậu
của người dân nơi đây, thì điều kiện tự nhiên ở Tuyên Quang cũng không kém
phần khắc nghiệt, mùa đông thì giá lạnh, xương muối bao phủ dày đặc; mùa
hè thì nóng nực, thường xuyên bị lũ lụt, nên cuộc sống của người dân nơi đây
còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để đảm bảo cuộc sống sinh tồn của mình, họ
đã thực hiện những cuộc di dân tự do, rồi đốt rừng làm nương dẫy, đến khi
nơi này không thể khai thác hay trồng cấy được nữa thì họ sẽ di chuyển đến
một nơi khác miễn là nơi đó họ có cái ăn để sống, thực trạng này dẫn đến hiện
tượng hàng năm vào khoảng tháng 7 âm lịch thường xuyên có lũ lụt làm cuốn
trôi cả nhà cửa, trâu, bò, lợn, gà… và cả con người, có năm lũ về bất ngờ
cuốn sạch mọi thứ nó đi qua, thậm chí có khi còn “xóa tên” một bản khoảng
vài chục nóc nhà.
Có thể thấy điều kiện kinh tế - xã hội của người dân nơi đây còn gặp
nhiều khó khăn cả do yếu tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan chi phối, do vậy
cuộc sống đã thiếu thốn nay càng trở nên bế tắc. Vậy làm thế nào để giúp
16

người dân thoát khỏi hoàn cảnh đó. Câu trả lời duy nhất lúc này là phải giúp
họ có cái chữ, nhiệm vu đó chỉ có ngành giáo dục và đào tạo mới có thể đảm
nhận được.
Đặc điểm địa lý và dân cư như vậy là một trong những nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế mà ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Tuyên Quang còn

đang phải tìm cách tháo gỡ. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết
gắn bó giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, nhiều dân tộc đã
trưởng thành trong xây dựng, cùng với truyền thống anh hùng, bất khuất của
quê hương cách mạng Tân Trào lịch sử, Tuyên Quang đã vượt qua nhiều khó
khăn, thử thách cùng cả nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Là một tỉnh miền núi, nền kinh tế chủ yếu là nông - lâm - ngư nghiệp,
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Tuyên Quang đã phát huy được
những thế mạnh của mình, đồng thời cũng chú ý phát triển cả công nghiệp và
dịch vụ. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đánh giá cao và khẳng định
những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý
báu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII là hết sức có ý nghĩa, trong đó nhấn mạnh đến lĩnh vực kinh tế và phát
triển kinh tế.
Theo số liệu thống kê của phòng kế hoạch tỉnh cho biết, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm là 11,04% (vượt 1,04% so với chỉ tiêu đã đề
ra tại nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII). Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng nông - lâm nghiệp trong GDP.
- Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt mức tăng trưởng khá, tích cực
chuyển dịch cơ cấu cây trông, vật nuôi, ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến. Đặc
biệt tỉnh rất chú trọng củng cố hệ thống khuyến nông, hệ thống cung ứng
giống cây, cây non theo hướng sản xuất hàng hóa. Sau 5năm thực hiện nghị
17

quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XIII. Từ năm 2000 - 2005, sản lượng lương
thực hàng năm đều tăng, năm 2005 tổng sản lượng lương thực đạt trên 30,5
vạn tấn, bình quân lương thực đạt 420kg/người/năm (năm 2000 sản lượng

lương thực đạt trên 26 vạn tấn, lương thực bình quân là 384kg/người/năm)
[11, tr.3].
Công tác bảo vệ và trồng rừng cũng được chú trọng, thực hiện cơ chế
liên doanh trồng rừng nguyên liệu để nâng cao hiệu quả kinh tế rừng, đồng
thời trồng mới 27.954 ha rừng, độ che phủ của rừng đạt 63%.
Đầu tư, nâng cấp, quản lý và sử dụng có hiệu quả trên 2300 công trình
thủy lợi; chăn nuôi có bước phát triển, đàn lợn tăng 6%, đàn gia cầm tăng
9,9% Nuôi trồng thủy sản bước đầu đạt kết quả. Ngăn ngừa có hiệu quả
bệnh gia súc và dịch cúm gia cầm.
- Về công nghiệp; giao thông, vận tải; bưu chính, viễn thông; xây dựng
kết cấu hạ tầng:
Với đặc thù của một tỉnh miền núi, nên Tuyên Quang còn gặp nhiều
khó khăn trong việc phát triển kinh tế, song với đức tính cần cù, chịu khó,
hăng say trong lao động, qua tìm hiểu cho thấy tỉnh không chỉ chú trọng đến
phát triển kinh tế, nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn quan tâm tới phát triển cả
công nghiệp, giao thông, bưu chính… mặc dù đây không phải là thế mạnh của
những vùng miền núi như Tuyên Quang, nhưng qua những gì đạt được đã
chứng tỏ Tuyên Quang đã chuẩn bị cho mình một lực lượng lao động có chất
lượng để phục vụ cho quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá trong giai đoạn tiếp theo.
Trong công nghiệp đã có những bước chuyển biến, những kết quả bước
đầu đạt được đã cho thấy đây là những cố gắng rất lớn của Tuyên Quang trên
con đường phát triển mà trong đó không thể thiếu vai trò của công nghiệp.
Năm 2000 Tuyên Quang chỉ có 01 nhà máy xi măng, nhà máy chè, nhà máy
gạch chịu lửa, đến nay đã xây mới thêm 02 nhà máy đường ở thị xã Tuyên
18

Quang và Huyện Sơn Dương, dây truyền sản xuất gạch Tuynen, đã đưa vào
sử dụng, đặc biệt đã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp đến năm
2010, định hướng phát triển đến năm 2020. Triển khai quy hoạch cụm các

khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị Long Bình An để thu hút đầu tư. Giá trị sản
xuất công nghiệp hàng năm tăng bình quân 16%. Hầu hết các sản phẩm công
nghiệp đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại hội lần thứ XIII
Theo con số thống kê của sở điện lực tỉnh cho thấy, đến nay (2005) tỉnh
đã hoàn thành chương trình đưa điện lưới quốc gia về nông thôn với 100% xã,
phường, thị trấn và 83% số hộ dân trong đó được sử dụng điện lưới quốc gia
(vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII - 80% số hộ dân sử dụng điện
lưới quốc gia).
Điều đáng quan tâm là giao thông, vận tải đã có những bước đổi thay
đáng kể. Đây là một dấu hiệu hết sức đáng mừng, đặc biệt là đối với người
dân miền núi, mặt khác trong quá trình phát triển thì giao thông vận tải giúp
cho quá trình thông thương giữa các vùng miền diễn ra được thuận lợi.Trong
thời gian vừa qua với sự cố gắng của bản thân ngành giao thông vận tải, bước
đầu đã đạt được những kết quả rất đáng phấn khởi. Đến nay, 100% xã,
phường, thị trấn; 93% thôn,bản có đường ôtô đến trung tâm (vượt chỉ tiêu
nghị quyết Đại hội lần thứ XIII - 95%) xây dựng thêm 04 cây cầu lớn và 08
cây cầu hẹp, chỉnh sửa (giai đoạn 1) 60km tuyến sông Lô từ Phan Lương đến
thị xã Tuyên Quang; Hệ thống vận tải đường bộ phát triển mạnh, số lượng
phương tiện và chất lượng dịch vụ vân tải tăng lên, đáp ứng nhu cầu vận tải
của tỉnh. Khối lượng hành khách luân chuyển tăng bình quân 13,6%/năm,
hàng hóa luân chuyển tăng 25,6%/năm [11, tr.5].
Mạng lưới bưu chính viễn thông tiếp tục được phát triển, 100% trung
tâm huyện, thị phủ sóng điện thoại di động; 100% xã, phường, thị trấn có điện
thoại; mật độ là 4,8 máy/100 dân.
19

Hiện nay tỉnh đã hoàn thành quy hoạch 04 thị trấn huyện lỵ, 18 trung
tâm cụm xã, triển khai điều chỉnh quy hoạch thị xã Tuyên Quang lên đô thị
loại III trong thời gian tới.
- Về thương mại, du lịch.

Thương mại, du lịch bước đầu có chuyển biến. Thị trường nông thôn,
vùng sâu, vùng xa được chú ý mở rộng và từng bước được khai thông, đảm
bảo lưu thông hàng hóa được thuận lợi để phục vụ nhân dân, nhất là những
mặt hàng thiết yếu, mặt hàng chính sách.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 8,4 triệu USD, tăng bình quân là
10,1%/năm. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng nhanh như: bột Barit, gỗ chế
biến… Đây là một trong những thế mạnh của Tuyên Quang mà trong những
năm gần đây đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hoá của tỉnh.
Bên cạnh đó tỉnh cũng đã hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch tỉnh Tuyên Quang đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, và quy
hoạch chi tiết khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm; bắt đầu triển khai một số tua
du lịch trong và ngoài tỉnh.
1.2.3. Văn hóa - xã hội
Với cơ cấu dân cư phong phú, đa dạng gồm 24 thành phần dân tộc,
sống rải rác ở 145 xã, phường, thị trấn, với đặc thù là một tỉnh miền núi còn
gặp nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần “xây dựng xã hội văn minh”, được
sự chỉ đạo sát sao của các cấp Đảng ủy, chính quyền, mà trực tiếp là Sở Văn
hóa tỉnh, Tuyên Quang đã đạt được những kết quả đáng mừng trên lĩnh vực
văn hóa, thông tin, thể dục thể thao.
Sở Văn hóa đã có chủ trương đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thông
tin tập trung về cơ sở, bước đầu về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu hưởng
thụ văn hóa của nhân dân. Hiện nay, toàn tỉnh có 78,56% gia đình đạt danh
hiệu “gia đình văn hóa”; 72,4% thôn, bản đạt danh hiệu “thôn, bản văn hóa”.
Các giá trị văn hóa của các dân tộc trong tỉnh đã được chú ý bảo tồn và phát
20

huy, đồng thời ngành văn hoá cũng tìm những biện pháp làm phong phú thêm
đời sống tinh thần của người dân nơi đây như việc tổ chức các hoạt động giao
lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao Hơn cả là việc nâng cao trình độ

nhận thức của người dân giúp họ tự giác lĩnh hội những giá trị văn hóa tiến
bộ, bên cạnh việc gìn giữ giá trị văn hoá của dân tộc mình.
Chất lượng thông tin, báo trí ngày càng được nâng cao. Hoạt động văn
hóa nghệ thuật có tiến bộ, nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đã phản ánh
được chân thực, sinh động thực tế cuộc sống. Tỷ lệ số dân được phủ sóng phát
thanh đạt 84%, phủ sóng truyền hình đạt 90%; 70% hộ gia đình có máy thu
thanh, máy thu hình.
Phong trào thể dục, thể thao trong quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh
đến từng thôn xóm. Một số môn thể thao có thế mạnh được chú trọng, quan
tâm như: Bóng đá thiếu niên - nhi đồng, Pencát silát, Cầu mây…
Bên cạnh việc nâng cao đời sống tinh thần trong nhân dân, công tác y
tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho tất cả mọi người dân cũng đang được các
cấp Đảng ủy, chính quyền chú trọng chỉ đạo, tạo điều kiện tốt nhất nhằm tạo
ra những con người phát triển toàn diện cả thể lực và trí lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh cũng như của cả nước.
Trước hết, mạng lưới y tế đang được củng cố, nâng cấp và phát triển
nhằm nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay, toàn
tỉnh có 143 trạm y tế xã, 15 phòng khám đa khoa khu vực, 07 bệnh viện tuyến
huyện, 04 bệnh viện tuyến tỉnh, trong đó có 01 bệnh viện đa khoa của tỉnh
đang được nâng cấp xây dựng và đầu tư trang thiết bị hiện đại.
Tỉnh sớm thực hiện chủ trương “toàn dân sử dụng muối iốt” nên đến
năm 2005 tỉnh đã đạt mục tiêu thanh toán bệnh biếu cổ.
Tích cực triển khai chương trình phòng chống bệnh sốt rét, ngăn chặn
không để bệnh dịch xẩy ra.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em cũng đang được triển khai có
hiệu quả. Năm 2005 tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 25% (năm
21

2000 là 37,5%). Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm vácxin đầy đủ trên 98%
đạt chỉ tiêu đã đề ra.

Đồng thời, công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đã được tổ chức thực
hiện tốt, 100% trạm y tế xã thực hiện được các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình,
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 1,4% năm 2000 xuống còn 0,63% năm
2005. Đây là một trong những kết quả hết sức đáng mừng cần được giữ vững
và tiếp tục thực hiện có hiệu quả.
Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh đã có 97/145 xã, phường, thị trấn đạt
chuẩn quốc gia về công tác y tế xã.
Nhìn tổng thể kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được như trên là cả một
quá trình cố gắng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân tỉnh Tuyên Quang. Những thành quả đó có được là nhờ
một phần đóng góp rất lớn ở chất lượng giáo dục, bởi giáo dục và đào tạo phát
triển mạnh mẽ sẽ làm cho dân trí được nâng cao, chất lượng nguồn lực được
đảm bảo từ đó mới thúc đẩy kinh tế - xã hội tăng trưởng, ngược lại những
thành quả của kinh tế - xã hội sẽ là những điều kiện thuận lợi để tạo cơ sở
phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo. Như vậy giữa phát triển kinh tế - xã
hội và phát triển giáo dục và đào tạo có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, nhưng cần thấy rằng, phát triển giáo dục là yếu tố cơ bản, giữ vai trò
quyết định nhất cho sự tồn tại của một xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Trình độ văn hóa của nhân dân cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh
công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ” [20, tr.821]. Xác định được
vai trò quan trọng của giáo dục, cùng với những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, sự phấn đấu của các cấp chính quyền và nhân dân trong
toàn tỉnh, sự nghiệp giáo dục trong thời gian qua đã có những bước phát triển
đáng kể, thỏa mãn được phần nào lòng mong mỏi của nhân dân.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng công tác giáo dục và đào tạo của
tỉnh Tuyên Quang còn nhiều hạn chế, bất cập, cần phải có những biện pháp
trước mắt cũng như lâu dài cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của tỉnh để
22

làm sao có thể đẩy mạnh hơn nữa về cơ cấu, quy mô, chất lượng giáo dục…để

từ đó mới có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đai hóa của tỉnh Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung.
1.3. Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo ở Tuyên Quang là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Vì lợi ích mười năm
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, “Trồng người” ở đây
Bác muốn nói đến là vai trò của sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, bởi
Người đã thấy được chỉ có thông qua giáo dục mới có được những con người
có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có đạo đức tốt đẹp. Đó là những con
người tài - đức, những con người quyết định đến vận mệnh tương lai của đất
nước, quyết định bước đi tiếp theo của dân tộc, để có thể thực hiện thành công
mục tiêu chiến lược là: “muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” [29, tr.25].
Trước hết cần phải thấy rằng dân trí là một nền tảng để có được và phát
triển nhân lực và nhân tài. Bởi ngày nay chúng ta đang đứng trước cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật hiện đại bùng nổ mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX, và
khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như C.Mác đã dự đoán.
Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố quyết
định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Đứng trước hiện thực
đó, Đảng ta đã nhận định: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là thời cơ thuận lợi để
phát triển, đồng thời cũng là một thách thức gay gắt đối với các nước, nhất là
những nước còn chậm phát triển như nước ta.
Thách thức lớn nhất lúc này đối với nước ta là trình độ của lực lượng
sản xuất còn hạn chế trong khi khoa học - công nghệ trên thế giới đã phát
triển rất mạnh mẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiệm vụ lúc
này đặt ra đối với nền giáo dục nước ta trong thế kỷ XXI là phải làm sao
23

nhanh chóng đào tạo được một nguồn nhân lực dồi dào, có trí tuệ để nắm bắt,

làm chủ và sáng tạo ra những lĩnh vực khoa học và công nghệ mới, hiện đại.
Vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo phù hợp đáp ứng những yêu cầu mới của nền kinh tế tri thức đang đặt
ra hiện nay như một quy luật tất yếu, khách quan, mà không một nước nào
không thể đi qua được.
Ngày nay khi đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thì yêu cầu đó lại càng trở nên cần thiết, tự bản thân nó đặt ra những
đòi hỏi khách quan về số lượng, cơ cấu, chất lượng nguồn lực con người với
những năng lực và phẩm chất cần thiết, thích ứng với bối cảnh hiện nay. Bởi
đó là thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, thời kỳ cách mạng khoa học - công
nghệ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, là thời kỳ công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa, với xu thế trí tuệ hóa về lao động, là thời kỳ mở rộng quan hệ
kinh tế - thương mại quốc tế, hội nhập quốc tế. Thời kỳ hiện nay cũng là thời
kỳ phát triển con người công nghệ - nhân văn, đi đôi với xu thế dân chủ hóa,
nhân văn hóa đời sống xã hội, đặc biệt là kết hợp khai thác các giá trị truyền
thống và hiện đại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những vấn đề này đặt ra là một cần thiết và do vậy, chúng ta cũng cần phải
chú ý tới việc xây dựng những giải pháp thiết thực để thực thi có hiệu quả,
trong đó, trước hết cần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giáo dục và
đào tạo.
Như vậy trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành
nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Nhận
thức được vấn đề đó, Đảng ta đã khẳng định: cùng với giáo dục và đào tạo,
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đứng trước những đòi hỏi khách quan của thời đại, Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều chủ chương chính sách, nghị quyết quan trọng bàn về phát triển
giáo dục và tạo, và coi đó là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt

×