Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Chức năng xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.66 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG THỊ THỤC ANH

CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA
NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG THỊ THỤC ANH

CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA
NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số:
5.01.02

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hàm Giá

HÀ NỘI – 2004


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG

6

XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

1.1. Khái niệm chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
1.1.1. Chức năng của nhà nước và chức năng xã hội của nhà nước
1.1.2. Chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
1.2. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến chức năng xã hội của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam
1.2.1. Yếu tố kinh tế
1.2.2. Yếu tố cơ cấu xã hội
1.2.3. Yếu tố truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc
1.2.4. Hội nhập quốc tế và tồn cầu hố

6
6
19

23

Chương II:THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ

33

24
25
28
29

NƯỚC
CHXHCN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Thực trạng việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam trên một số lĩnh vực
2.1.1. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo
2.1.2. Lĩnh vực lao động - việc làm và điều tiết thu nhập
2.1.3. Lĩnh vực chăm sóc y tế và bảo vệ sức khoẻ nhân dân
2.1.4. Lĩnh vực bảo đảm xã hội
2.2 . Giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam
2.2.1. Một số quan điểm
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu

33
33
37
43
45

49
49
56

KẾT LUẬN

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

67


MỞ ĐẦU
1 . Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hiện nay, trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước và đặc biệt là yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc điều chỉnh và tổ chức thực hiện tốt chức
năng xã hội của nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về phương diện
lý luận nhận thức và thực tiễn .
Trước đây, trong quá trình xây dựng nhà nước ở các nước xã hội chủ
nghĩa hầu như người ta mới chỉ quan tâm nhấn mạnh đến chức năng thống trị
(chuyên chính của nhà nước) mà ít đề cập đến vai trò to lớn của chức năng xã
hội. Mặt khác, thực tiễn hoạt động của một số nhà nước Tư sản hiện đại trong
những chừng mực nhất định, chức năng xã hội của nhà nước cũng đã được
thực hiện khá tốt trên một số lĩnh vực như : xây dựng phúc lợi công cộng xã
hội, xây dựng quỹ từ thiện, bảo vệ thiên nhiên môi trường… Những hoạt
động này đã dẫn đến sự ngộ nhận của một số người về bản chất của nhà nước
Tư sản, đánh giá cao hoạt động xã hội của những nhà nước này. Trong
những năm gần đây, trước những thay đổi to lớn của đời sống xã hội và quốc

tế, dưới ảnh hưởng của những tiến bộ, những thành tựu của khoa học – cơng
nghệ, sự phát triển tồn diện của mỗi cá nhân trở thành một tất yếu như Mác
đã từng tiên đốn, thì xu hướng chung của các nhà nước trên thế giới là hướng
các hoạt động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tạo sự ổn định về xã
hội, thực hiện tốt chức năng thống trị của mình.
Ở nước ta từ sau thành cơng Cách mạng Tháng Tám, trong tất cả các
giai đoạn phát triển của mình với tính cách là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, trong điều kiện hồn cảnh cụ thể nhà nước đã thực hiện chức năng xã
hội ở những mức độ và hình thức nhất định. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi, trong


2
các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp càng khẳng định rõ
vai trò chức năng xã hội của Nhà nước ta, Hiến pháp 1992 đã khẳng định:
“Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
của nhân dân…, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội,
mọi người có cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn
diện”(Điều3). Như vậy, trên thực tế việc thừa nhận và phát huy tốt chức năng
xã hội của nhà nước ngày càng trở thành yêu cầu khách quan. Do đó, vấn đề
chức năng xã hội của nhà nước hiện nay đang trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều lĩnh vực ( kinh tế, chính trị, pháp lý…).Tuy nhiên, cả về lý luận và
thực tiễn từ giác độ triết học, chức năng xã hội của nhà nước vẫn là một vấn
đề còn tương đối mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống,
góp phần bổ sung những lý luận khoa học cho công cuộc cải cách và hoàn
thiện bộ máy nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính yêu cầu này
đã thôi thúc và là tác nhân trực tiếp thúc đẩy người viết lựa chọn vấn đề
“Chức năng xã hội của Nhà nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.
2 . Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước thường được xem

xét gắn liền với việc nghiên cứu sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự
can thiệp của nhà nước vào kinh tế nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, những
hậu quả tiêu cực do nền kinh tế thị trường gây ra cho con người, cho thị
trường, cho xã hội…Chẳng hạn như “Mặt trái của những con rồng” của
Walder Bello và Stephanie Rosenfield, “Cạm bẫy phát triển: cơ hội và thách
thức” của James Gold Smith, “Tạo dựng một nền văn minh mới chính trị của
làn sóng thứ ba” của Alvin Toffler và Heidy Toffler; …
Ở Việt Nam từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản (1986) đến nay, thực
hiện đường lối đổi mới đất nước, với việc thừa nhận phát triển nền kinh tế thị


3
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước
đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực. Có
thể liệt kê một số cơng trình, bài viết liên quan đến vấn đề này như: “Mối
quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế” của Đỗ Minh Cương
[4]. “Chức năng nhà nước quan điểm và nhận thức” của Trần Thái Dương
[14]. “Hoàn thiện hệ thống Pháp luật của nhà nước nhằm tăng cường hiệu lực
quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội” của cố PGS,TS Trần Trọng Hựu
[32]; “Chính sách xã hội về đổi mới cơ chế việc quản lý thực hiện” của Trần
Đình Hoan [34]; “ Tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung” của Phạm Hảo,Võ Văn Tiến, Mai
Đức Lộc[36] . “Mối liên hệ giữa bản chất giai cấp và chức năng xã hội của
nhà nước và cải cách nền hành chính trong thời kỳ đổi mới ở nước ta” của
Phạm Ngọc Quang và Trần Thị Ngọc Hiên [53]…
Các cơng trình khoa học trên đã đề cập những khía cạnh khác nhau
của chức năng xã hội của nhà nước. Tuy nhiên, chưa có cơng trình chun sâu
trình bày một cách có hệ thống từ góc độ Triết học về chức năng xã hội của
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế luận văn này là sự bổ
sung, phát triển hơn nữa những vấn đề liên quan tới chức năng xã hội của nhà

nước đã được đề cập trong các cơng trình đã có, góp phần đưa nhận thức về
vấn đề này tới độ sâu sắc cần thiết theo yêu cầu của thực tiễn, đẩy mạnh cơng
cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước
ta trong tình hình hiện nay.
3 . Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ chức năng xã hội của nhà nước nói
chung và việc thực hiện chức năng này của Nhà nước ta từ 1986 đến nay, đề
xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn ( nâng cao hiệu quả thực hiện)


4
chức năng xã hội của Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước theo định hướng XHCN.
- Nhiệm vụ: + Làm rõ chức năng xã hội của nhà nước nói chung, Nhà
nước CHXHCN Việt Nam nói riêng.
+ Đánh giá khái quát việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước ta
trên một số lĩnh vực chủ yếu.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng xã
hội của nhà nước trong q trình xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ những
vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn của việc thực hiện chức năng xã hội của
Nhà nước ta trong quá trình đổi mới.
4 . Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm cuả chủ nghĩa Mác- Lê Nin, Đảng
Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng
hợp, lịch sử - lơ gích…, gắn lý luận với thực tiễn.
5 . Những đóng góp của luận văn

- Về mặt lý luận: Luận văn hệ thống hoá được những quan điểm,
những cách tiếp cận về chức năng xã hội của nhà nước nói chung và chức
năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nói riêng.
- Chỉ ra sự cần thiết và những yêu cầu của việc thực hiện chức năng xã
hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Nêu ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chức năng xã hội của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


5
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến lĩnh vực chức năng xã hội của nhà nước ta trong công
cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trong một chừng mức nhất định có thể đưa lại
những gợi ý gián tiếp cho thực tiễn xây dựng và cải cách bộ máy nhà nước
ở nước ta hiện nay .
7 . Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng xã hội của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam.
Chương 2: Thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp.


6

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chức năng xã hội của nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chức năng xã hội của nhà nước là một vấn đề còn tương đối mới mẻ ở
Việt Nam so với các nội dung khác trong lý luận chung về nhà nước. Để có
thể nghiên cứu chức năng xã hội của nhà nước một cách tồn diện, chính xác
và khách quan cần đặt nó trong mối quan hệ với các phạm trù khác của nhà
nước mà trước tiên là phạm trù chức năng nhà nước.
1.1.1. Chức năng nhà nƣớc và chức năng xã hội của nhà nƣớc
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm chức năng xã hội của nhà nước,
chúng ta cần làm rõ khái niệm chức năng, chức năng nhà nước.
"Chức năng" là một phạm trù dùng để phản ánh sự biểu hiện bên ngồi
các tính chất, các đặc tính của sự vật trong hệ thống các quan hệ được xác
định. Đây là cách hiểu phạm trù "chức năng" mang tính khái quát nhất, cơ sở
nhất đối với các sự vật và quá trình trong thế giới tự nhiên và xã hội. Khi xem
xét sự vật ở một khía cạnh khác, nếu như "chức năng" là chỉ sự thể hiện ở
bên ngoài của các sự vật, hiện tượng thì "bản chất" của nó là những mặt,
những yếu tố liên hệ hợp thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong quy định
sự vận động và phát triển của sự vật đó. Như vậy, một sự vật hay một q
trình nào đó nó chỉ thực sự là "nó" khi nó biểu hiện được các đặc tính bên
trong và bên ngoài làm cho ta nhận thấy được và phân biệt được nó. Từ đó,
nếu như bản chất sự vật hiện tượng manh tính khách quan thì sự nhận thức về


7
bản chất của các sự vật đòi hỏi phải mang tính khách quan, duy vật biện
chứng. Theo Lê Nin: Bản chất hiện ra hiện tượng có tính bản chất. Sự thống
nhất bản chất và hiện tượng là cơ sở triết học để chúng ta tìm hiểu mối quan
hệ giữa bản chất nhà nước và chức năng nhà nước.
Khi nghiên cứu hiện tượng nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh cửu

bất biến. Nhà nước là một phạm trù lịch sử... là lực lượng nảy sinh từ xã hội,
là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước, ngay từ khi xuất
hiện nó đã trở thành một hệ thống cai trị đối với tồn xã hội, tác động lên các
q trình quan trọng diễn ra trong xã hội và phân định nó. Nhà nước khơng
phải là một cái gì tĩnh tại, thụ động mà nó ln vận động một cách chủ động
và có thể thấy rằng sự hoạt động tích cực đầy quyền uy của nhà nước chứng
tỏ khả năng tồn tại của nó. Điều đó nói lên bản tính tự nhiên của nhà nước,
bản chất của nó. Tuy nhiên, vì nhà nước là kết quả hoạt động của con người
nên bất kỳ là nhà nước nào thì nó cũng ln xác định mục đích, lý do tồn tại
của mình và vận hành với mong muốn đạt được mục đích đó.
Là một trong những hình thức phản ánh của nhà nước, chức năng nhà
nước là một khái niệm có nội hàm và ngoại diên rất rộng, luôn gắn với những
phạm trù như bản chất, nhiệm vụ, các hình thức và phương thức hoạt động
của nhà nước. Mặc dù vậy, khái niệm chức năng của nhà nước có ý nghĩa
nhất định, cho phép chúng ta phân định nó với các phạm trù khác của nhà
nước.
- Chức năng nhà nƣớc: Theo cách hiểu phổ biến nhất từ trước đến
nay, chức năng nhà nước là những phương diện (những phương hướng, mặt,
dạng, loại) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ
đặt ra trước nhà nước. Như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, nhà nước tồn tại
và phát triển thơng qua các hoạt động của mình tác động vào thế giới tự


8
nhiên, vào các quan hệ xã hội và tác động cả thế giới tinh thần của con người
nhằm đạt đến mục tiêu hồn thành các nhiệm vụ đặt ra.
Có quan điểm cho rằng: chức năng nhà nước không chỉ là phương
hướng hoạt động chủ yếu của nhà nước mà còn là cơ chế tác động của nhà
nước. Bởi vì khi thực hiện những chức năng nhất định trong lĩnh vực này hay
lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nhà nước đồng thời bằng các cuộc cải cách

bằng sự điều chỉnh pháp luật, bằng các cách thức tổ chức và quản lý các quan
hệ xã hội mà tác động lên trạng thái của các quá trình xã hội.
Một quan điểm khác đáng chú ý cho rằng : chức năng nhà nước như
những thuộc tính cơ bản hữu cơ bên trong của nhà nước, phản ánh hai thuộc
tính đặc trưng của bản chất nhà nước với tư cách là tổ chức thống trị giai cấp
và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội... [53, tr12]. Chức năng nhà nước
trong quan niệm này được xây dựng trên nền tảng cách hiểu xuất phát từ bản
chất nhà nước.
Tương tự như vậy, cũng xuất phát từ bản chất và vai trò của nhà nước
đối với xã hội, quan điểm thứ tư xác định chức năng nhà nước là sự thể hiện
vai trò của nhà nước đối với xã hội là biểu hiện cụ thể năng lực của nhà nước
và từ đó, cần nhận thức khái niệm chức năng nhà nước trên ba góc độ thống
nhất hữu cơ: "chức năng nhà nước" là cái mà xã hội cần nhà nước và nhà
nước cần phải làm, là cái mà nhà nước có thể làm được, là cái nhà nước được
làm [14, tr 8].
Ngồi ra, có quan điểm khẳng định: chức năng nhà nước chính là
những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể;
hơn nữa cần đưa vào khái niệm chức năng nhà nước cả những phương pháp,
cách thức nhà nước thực hiện chức năng của mình trong thực tiễn, là các hình
thức hoạt động của nhà nước đối với mơi trường xung quanh... Như vậy, với
quan điểm đó đã có sự mở rộng phạm vi khái niệm, trộn lẫn giữa các mặt hoạt


9
động của nhà nước với nhiệm vụ của nhà nước, với phương thức thực hiện
chúng.
Thông qua các cách hiểu khác nhau, chúng ta thu nhận được cái nhìn bao
quát từ nhiều góc độ về hiện tượng nhà nước và chức năng hoạt động của nó.
Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu để tìm hiểu tận cùng vấn đề chức
năng của nhà nước, chúng tôi thấy rằng cách tiếp cận thứ nhất là phù hợp hơn

cả cho việc làm cơ sở phương pháp luận để giải quyết các vấn đề tiếp theo
thuộc phạm vi đề tài.
Nếu theo như cách hiểu thứ hai thì vơ hình dung đã đưa vào khái niệm
chức năng nhà nước cả phương pháp, cách thức, liều lượng nhà nước thực
hiện chức năng của mình trong thực tiễn.
Theo cách hiểu thứ ba thì quá rộng và trừu tượng, bởi vì trong đó nó
khơng chỉ bao trùm cả thuộc tính bản chất xã hội của nhà nước mà cịn hàm
chứa một cách tự nhiên cả nội dung bản chất giai cấp của nhà nước. Trong khi
đó hoạt động của nhà nước tác động vào các mặt của đời sống xã hội thì rất
phong phú đa dạng và phức tạp, tính giai cấp và tính xã hội (yếu tố giai cấp và
yếu tố xã hội lại đan xen vào nhau, khơng thể tách bạch chúng một cách giản
đơn được).
Cịn xác định chức năng như nhiệm vụ căn bản của nhà nước dễ dẫn
đến sự lẫn lộn giữa các dạng hoạt động của nhà nước với các nhiệm vụ đặt ra
cho nhà nước. Mặc dù, trên thực tế có khơng ít chức năng trùng hợp với
nhiệm vụ căn bản của nhà nước.
Như vậy, quan điểm cho rằng chức năng nhà nước là những phương
diện (mặt, loại) chủ yếu, cơ bản của hoạt động nhà nước theo sự phân tích
trên thật sự là có lý hơn cả, một mặt nó hàm chứa một cách khách quan đầy
đủ nội dung khái niệm về “chức năng”, mặt khác nó lý giải "chức năng nhà


10
nước" ở cấp độ hợp lý tương xứng với "hiện tượng nhà nước" mà chức năng
có khả năng truyền tải một cách trọn vẹn.
Chức năng nhà nước có mối liên hệ trực tiếp với bản chất nhà nước.
Nói cách khác, bản chất nhà nước tìm thấy sự biểu hiện cụ thể trong chức
năng nhà nước. Sự biểu hiện đó mang tính chất khách quan dưới sự tác động
chủ đạo của mục đích và nhiệm vụ được tạo bởi cơ cấu kinh tế, xã hội và lợi
ích phát sinh từ đó của giai cấp, nhóm xã hội, cộng đồng người và tồn thể xã

hội. Là một hình thức phản ánh của nhà nước, chức năng nhà nước thể hiện
đầy đủ hai thuộc tính cơ bản bên trong thuộc bản chất nhà nước. Đó là tính
giai cấp và tính xã hội của nhà nước. Cũng như bản chất nhà nước phạm trù
chức năng trước đây được xem xét nghiêng về mặt giai cấp, cịn mặt xã hội
của chức năng nhà nước thì hoàn toàn mờ nhạt và chỉ được xem xét trong mối
liên hệ hạn hẹp.
Trên thực tế, tính xã hội của chức năng nhà nước tồn tại một cách
khách quan nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Khi nghiên cứu chức
năng nhà nước cần phải xem xét nó ở cả hai mặt. Xét ở mặt giai cấp, nhà
nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, xã hội có cơ
cấu giai cấp rõ rệt với lợi ích đối lập nhau nên chức năng nhà nước được hình
thành trước tiên nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Xét ở mặt xã
hội, nhà nước nào cũng thực hiện hoạt động mang tính xã hội , với tư cách là
người đại diện cho quyền lợi của toàn xã hội, tất cả các giai cấp, các nhóm xã
hội và các tầng lớp nhân dân . Đó là những chức năng phát sinh từ bản chất xã
hội, nhằm duy trì và bảo vệ những điều kiện tồn tại phát triển tự nhiên của xã
hội loài người. Cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người, tính xã hội của chức
năng nhà nước ngày càng được mở rộng.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Chức năng nhà nƣớc
là những phƣơng diện hoạt động cơ bản của nhà nƣớc đƣợc xác định từ


11
bản chất nhà nƣớc do cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp quy định, nhằm tác
động lên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện các nhiệm vụ đặt ra
trƣớc nhà nƣớc.
Nhà nước không thể tuỳ ý tạo ra cho khả năng hoạt động của mình, nó
khơng thể vượt qua cơ sở kinh tế xã hội đã quy định mà trên đó nó được nảy
sinh. Mặt khác, chức năng là sự phản ánh của hoạt động nhà nước, nó có tính
độc lập tương đối trong mối quan hệ với cơ sở kinh tế xã hội. Chính vì vậy,

thơng qua chức năng của mình nhà nước tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự
phát triển của xã hội. Hoạt động thực hiện chức năng luôn chứa đựng nội
dung lịch sử cụ thể, trong quá trình thực hiện có mối quan hệ qua lại cụ thể
giữa các chức năng. Mỗi chức năng cụ thể của nhà nước được coi là sự thống
nhất của nội dung, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước ở
một lĩnh vực hoạt động nhất định của nhà nước. Như vậy, chức năng nhà
nước được sinh ra và tồn tại liên tục trong suốt quá trình hình thành và phát
triển của nhà nước, chúng được biểu hiện cụ thể khác nhau trong từng nhà
nước.
Chức năng nhà nước do các cơ quan, bộ phận hợp thành của bộ máy
nhà nước thực hiện. Mỗi cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện chức
năng nhiệm vụ của nhà nước được giao những chức năng, nhiệm vụ riêng phù
hợp với vị trí vai trị của cơ quan đó trong bộ máy nhà nước. Chức năng của
mỗi cơ quan nhà nước chỉ là những phương diện hoạt động của cơ quan đó
nhằm góp phần thực hiện chức năng chung của nhà nước, phụ thuộc vào chức
năng của nhà nước và không thể trái với chức năng nhà nước. Tất cả các chức
năng của nhà nước có quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau tạo thành hệ thống
chức năng nhà nước.
Chức năng và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, tuy nhiên trên thực
tế nhiều khi xác định và phân biệt chúng khơng dễ dàng. Đã có nhiều nhiệm


12
vụ và chức năng về hình thức gần như là trùng nhau. Bởi vậy, ở đây cần thiết
đưa ra sự phân biệt chức năng nhà nước và nhiệm vụ của nhà nước.
"Nhiệm vụ của nhà nước là mục tiêu mà nhà nước cần đạt tới, là những
vấn đề đặt ra mà nhà nước cần giải quyết" [65, tr 52]. Khác với nhiệm vụ,
chức năng nhà nước là những phương diện loại hoạt động cơ bản của nhà
nước nhằm thực hiện nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Trong mối quan hệ với
nhiệm vụ của nhà nước thì chức năng nhà nước được hiểu như là phương tiện,

công cụ để thực hiện nhiệm vụ, được quy định trực tiếp bởi nhiệm vụ.
- Chức năng xã hội của nhà nƣớc: Trong lịch sử đã từng xuất hiện
những quan điểm khác nhau về chức năng xã hội của nhà nước.
Theo C.Mác, trong xã hội nào cũng có "những cơng việc chung" nảy
sinh từ sự tồn tại và phát triển, từ việc tổ chức và sinh hoạt của toàn bộ cộng
đồng con người, mà ở đó nếu xét về tính chất thì chủ yếu và trước hết là
những vấn đề xã hội. Vai trò, chức năng thực hiện và quản lý những công việc
chung như vậy thuộc về và địi hỏi phải có “nhạc trưởng” là nhà nước, người
đại diện và thay mặt cho xã hội đứng ra tổ chức thực hiện chức năng xã hội.
Nói một cách khác, nhà nước thực hiện chức năng xã hội nhằm đảm bảo phúc
lợi xã hội, tạo ra những khả năng và điều kiện ngang nhau cho mọi công dân
trong việc đạt được và hưởng phúc lợi đó...[46, tr 87].
AritxTốt, một nhà tư tưởng lớn thời cổ đại quan niệm rằng “Mục đích
của nhà nước là cuộc sống phúc lợi…bản thân nhà nước là sự giao thiệp của
các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập”
[67, tr 207]. Như vậy, theo ông sứ mệnh của nhà nước là làm sao cho đời
sống cộng đồng sống được và sống tốt hơn, không chỉ về mặt của cải vật chất
mà cịn cả về mặt đảm bảo cơng lý. Ơng coi mức độ phúc lợi mà nhà nước
đem lại cho công dân trong xã hội là tiêu chuẩn để đánh giá nhà nước. Tuy
nhiên, hạn chế của ông là ở chỗ không coi nô lệ là con người, là công dân mà


13
chỉ coi họ là những cơng cụ biết nói, vì thế nhà nước và những phúc lợi của
nhà nước chỉ dành cho một bộ phận các thành viên xã hội.
Imanuen Cantơ cho rằng nhà nước là sự liệt kê của mọi người trong
khuôn khổ luật pháp nhằm giám sát và đảm bảo bình đẳng cho mọi cơng dân.
Nhà nước ra đời nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hoà sự phát
triển của xã hội theo hướng ngày càng hồn thiện vì lợi ích con người. Vì vậy,
sứ mệnh lịch sử của nhà nước nhằm mục đích phục vụ con người [67, tr 407].

Còn Mareel Mauss quan niệm rằng nhà nước thực hiện chức năng xã
hội như là thực hiện nghĩa vụ trả lại cho cơng dân những gì mà cơng dân đã
cho xã hội bằng chính cơng sức của mình. Nhà nước thực hiện chức năng xã
hội, theo quan điểm của ông, như là nghĩa vụ, trách nhiệm qua lại giữa nhà
nước và cá nhân, nhà nước và xã hội chứ không phải là sự ban ơn từ thiện,
cho không của nhà nước, ngay cả trong mối quan hệ với tầng lớp nghèo khổ
nhất, khó khăn nhất trong xã hội. Như vậy, quan điểm này có phần tiến bộ
thấy được chức năng xã hội cũng như chức năng nhà nước nói chung chứa
đựng nhu cầu khách quan của xã hội thông qua hoạt động chủ quan của nhà
nước.
Như vậy, mặc dù đứng trên các quan điểm giai cấp khác nhau và ở
trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhiều nhà tư tưởng trên thế giới đã
thừa nhận chức năng xã hội của nhà nước. Xét tận cùng, bản chất chức năng
xã hội của nhà nước chính là cơng cụ, phương tiện của nhà nước nhằm điều
hồ lợi ích, nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa con người - cá nhân, nhóm
xã hội, giai cấp trong xã hội, giữa con người, tập thể và cộng đồng xã hội. Lợi
ích ở đây trước hết là lợi ích kinh tế và sau đó là những lợi ích khác như lợi
ích chính trị, tinh thần.
Kể từ khi xuất hiện, nhà nước đã tiến hành hoạt động của mình trong
các lĩnh vực xã hội, tác động vào chúng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội


14
trong các lĩnh vực đó nhằm đạt đến mục đích theo ý muốn của mình, của giai
cấp thống trị cầm quyền mà mình đang đại diện. Nội dung chức năng xã hội
của nhà nước ln mang tính đặc thù và cụ thể ở những giai đoạn phát triển
nhất định.
Lĩnh vực xã hội ở đây theo Mác, được xác định là một lĩnh vực độc lập
với lĩnh vực chính trị, kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm này cũng chỉ mang tính
tương đối vì nếu lấy tính chất đại diện tập trung cho lợi ích chung của xã hội,

vai trị tổ chức thực hiện các công việc chung của xã hội và mục đích vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội của nhà nước làm tiêu chí để xem xét thì các chức
năng của nhà nước ở những mức độ khác nhau đều chứa đựng thuộc tính xã
hội của nhà nước.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhà nước hoàn thiện dần chức năng
xã hội của mình, cả về hình thức lẫn nội dung, mở rộng cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu theo hướng ngày càng chú ý đến con người, sự phát triển toàn diện
của con người, đến sự công bằng xã hội. Đây cũng là quy luật phát triển ngày
càng mạnh mẽ và rộng khắp vai trò của nhà nước trong lĩnh vực xã hội và là
quy luật khách quan trong hệ thống các quy luật phát triển xã hội.
Thông qua cách hiểu về chức năng của nhà nước, theo chúng tôi : Chức
năng xã hội của nhà nƣớc là phƣơng diện hoạt động của nhà nƣớc tác
động vào lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội, thể hiện rõ nét vai trò và bản
chất xã hội của nhà nƣớc nhằm định hƣớng và giải quyết các nhiệm vụ
đặt ra trƣớc nhà nƣớc.
Chức năng xã hội của nhà nước là một bộ phận khăng khít trong tổng
thể các chức năng nhà nước. Đồng thời, nó có vị trí độc lập tương đối, cùng
với các chức năng khác của nhà nước phản ánh một cách đầy đủ, toàn diện
bức tranh nhà nước.


15
- Chức năng xã hội với chức năng chuyên chính giai cấp: Theo
nguyên lý của học thuyết mác xít về nhà nước thì tất cả các nhà nước với tính
cách là bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị đều thực hiện chức năng
chuyên chính giai cấp và chức năng xã hội. Giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau và là điều kiện phát triển của nhau. Chức năng chuyên chính
giai cấp giữ vị trí chi phối trong quan điểm, phương hướng nội dung và mức
độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Đồng thời, chức năng xã hội là
cơ sở đảm bảo thực hiện chức năng chuyên chính giai cấp. Chức năng xã hội

của nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã
hội, thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản
lý của nhà nước. Vì vậy, chức năng xã hội được quan tâm đúng mức sẽ tạo sự
phát triển toàn diện nâng cao đời sống mọi mặt cho các thành viên trong xã
hội, sẽ góp phần quan trọng cho việc ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Giai
cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khn khổ lợi
ích của mình. Song chức năng giai cấp chỉ có thể thực hiện được thông qua
chức năng xã hội. Ph.Ăngghen viết "Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở
của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào
nó cịn thực hiện chức năng xã hội đó của nó" [41, tr 253]. Một giai cấp nhất
định chỉ có thể duy trì được sự thống trị của mình như là một tất yếu lịch sử
chừng nào nền thống trị ấy cịn có khả năng thực hiện được các chức năng xã
hội mà thời đại lịch sử địi hỏi ở nó, nên các giai cấp thống trị đều tìm mọi
cách kết hợp chức năng thống trị giai cấp với chức năng xã hội của nhà nước
chừng nào cịn có thể.
Khi thực hiện tốt chức năng xã hội, cùng với chức năng chuyên chính,
nhà nước ngày càng khẳng định vị trí thống trị của mình trong đời sống xã hội
Và trong quan hệ này thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức
năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.Như


16
vậy, bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở chức năng chun chính
của nó. Tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng kiểu nhà nước, của
từng nhà nước mà chức năng này có nội dung, phương thức thực hiện khác
nhau nhưng có thể thấy một quy luật chung trong các nhà nước bóc lột là khi
giai cấp cầm quyền đã trở nên phản động thì chức năng chun chính giai cấp
lấn át chức năng xã hội, thậm chí chức năng xã hội bị hy sinh cho chức năng
chuyên chính giai cấp.
Trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng XHCN thành cơng, chức năng

chun chính giai cấp là chức năng hết sức quan trọng bởi để duy trì được
thắng lợi của cách mạng, từ bỏ chun chính là điều khơng tưởng khi các giai
cấp bóc lột mặc dù bị lật đổ nhưng chúng vẫn giữ được ưu thế như điều kiện
sinh hoạt, kinh nghiệm quản lý, nghệ thuật quân sự... trong một thời gian nhất
định, vì thế chúng ln tìm mọi cách để phản kháng lại một cách lâu dài và
dai dẳng.
Xuất phát từ bản chất nhà nước, từ đặc điểm của thời kỳ quá độ, Nhà
nước ta hiện nay phải thực hiện chuyên chính đối với các thế lực phản động
chống lại nhà nước, đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Chức năng chuyên chính
trở nên quan trọng trong việc chúng ta phải đối mặt với âm mưu diễn biến hồ
bình của các thế lực thù địch để bảo vệ độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ thực hiện thành cơng cơng cuộc xây dựng đất nước tiến lên theo con
đường XHCN. Vì vậy, để giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân của nhà nước,
xuất phát từ nhu cầu định hướng XHCN và cũng để đảm bảo cho việc thực
hiện có hiệu quả chức năng chuyên chính giai cấp, nhà nước ta đặc biệt coi
trọng chức năng xã hội. Có thể nói chức năng chun chính và chức năng xã
hội vừa là cơ sở vừa là điều kiện để cùng nhau phát triển.
- Chức năng xã hội với chức năng kinh tế : Lịch sử phát triển của xã
hội suy đến cùng là lịch sử phát triển của các quan hệ kinh tế, phương thức


17
sản xuất vật chất quy định các q trình chính trị, tinh thần, xã hội, của đời
sống nói chung. Từ khi nhà nước ra đời, chức năng kinh tế và chức năng xã
hội đã có mối quan hệ chặt chẽ, trước hết vì những nguyên nhân khách quan
như xuất phát từ đặc điểm về địa lý, khí hậu… để đảm bảo cho nhu cầu sinh
sống, sản xuất và phát triển xã hội mà điển hình là các nhà nước phương
Đơng cổ đại. Nhà nước Phong kiến trong chừng mực nhất định đã tham gia
vào hoạt động đắp đê, làm thuỷ lợi, khai hoang, di dân có những chính sách
đất đai, tài chính có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước vì lợi

ích của tồn xã hội. Tuy nhiên, sự quan tâm của nhà nước Phong kiến đến
hoạt động kinh tế xã hội chưa nhiều. Nhà nước Tư sản hiện đại chủ yếu thông
qua việc can thiệp vào các q trình kinh tế, thơng qua hệ thống trợ cấp xã hội
để giải quyết các vấn đề xã hội như trợ cấp thất nghiệp, bảo hộ người tiêu
dùng, trợ cấp khó khăn…Như vậy, có thể thấy chức năng xã hội và chức năng
kinh tế của nhà nước quy định, ràng buộc lẫn nhau, là sự liên hệ của hai yếu
tố trong cùng một hệ thống.
Trong điều kiện hiện nay, thực hiện tốt chức năng kinh tế là tạo cơ sở
kinh tế bền vững để thực hiện chức năng xã hội: Nhà nước dùng mọi biện
pháp hữu hiệu để hướng dẫn điều tiết các quá trình kinh tế, tác động vào nền
kinh tế nhằm tạo môi trường kinh tế lành mạnh, phân bổ nguồn lực một cách
tối ưu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời góp phần phát triển xã hội một
cách hài hoà. Nhà nước thực hiện việc cải cách nền kinh tế nhưng phải làm
thế nào để không quá mức độ, quá giới hạn cần thiết, đảm bảo sự cân bằng
giữa kinh tế và xã hội, không gây tác động xấu đến mức sống, đến cơng ăn
việc làm, đảm bảo kiểm sốt được các vấn đề xã hội. Tuy nhiên bản thân các
vấn đề kinh tế trong nền kinh tế thị trường luôn tạo ra nguy cơ bất ổn định. Vì
vậy, chức năng xã hội nhằm bổ khuyết, khắc phục những mặt trái của nền
kinh tế. Có thể nói, chức năng kinh tế và chức năng xã hội của nhà nước là hai


18
yếu tố song hành chúng vừa là tiền đề vừa là điều kiện của nhau trong sự
thống nhất hữu cơ trong thể hiện và thực hiện chức năng nhà nước. Một trong
những cơ sở của sự thống nhất đó là giải quyết mối quan hệ giữa các hình
thức sở hữu, đảm bảo sự phát triển bình đẳng, kết hợp hài hồ các hình thức
sở hữu. Sở hữu là sự thể hiện trạng thái mâu thuẫn của xã hội, của hai thái cực
trong mối quan hệ giữa "Cái chung" và "Cái riêng', "Cái bộ phận" và "Cái
toàn thể". C. Mác đã từng phê phán chế độ tư hữu nhưng đồng thời ơng cũng
thấy được nhân tố tích cực của nó khi ông kết luận nguyên nhân sâu sa của sự

trì trệ, lạc hậu trong kinh tế, quản lý xã hội… của phương thức sản xuất châu
Á chính là khơng có sở hữu tư nhân về đất đai…
Thời kỳ trước đổi mới, do không nhận thức đầy đủ quy luật kinh tế
khách quan nên chúng ta đã tuyệt đối hoá sở hữu công hữu, dẫn đến kết quả
không tạo được sự phát triển kinh tế, không tạo được cơ sở vật chất để thực
hiện chức năng xã hội đồng thời cũng vì thế mà mọi trách nhiệm giải quyết
các công việc của đời sống xã hội đương nhiên đều thuộc về nhà nước. Từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm đã tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước về mọi mặt. Nhà nước ta đã
giải quyết mâu thuẫn trên cơ sở xác định các hình thức sở hữu đan xen, tạo
lập sự bình đẳng về mặt pháp lý đối với các hình thức sở hữu đó cũng như đối
với các chủ thể trong quan hệ kinh tế, trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Thực tế đó càng khẳng định mối liên hệ mật thiết hữu cơ của hai chức năng
này.
Quan điểm của Nhà nước ta là kinh tế phải gắn liền với xã hội, tăng
trưởng kinh tế kết hợp với công bằng xã hội, khi nhà nước thực hiện chức
năng xã hội, điều tiết các vấn đề xã hội, phải tính đến sự tác động tích cực của
nó vào các q trình phát triển kinh tế, coi chức năng xã hội là phương tiện hỗ
trợ cho chức năng kinh tế, ngược lại, khi thực hiện chức năng kinh tế phải tính


19
đến hiệu quả về mặt xã hội. Việc thực hiện và hoạch định chính sách xã hội,
chính sách kinh tế (các bộ phận của chính sách phát triển) là một trong những
phương thức cơ bản để nhà nước thực hiện chức năng xã hội, chức năng kinh
tế. Vì vậy các chính sách xã hội, phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ
tương tác với các chính sách kinh tế, chính sách phát triển tồn diện. Như vậy,
xét trên phương diện phát triển xã hội các chức năng này có ý nghĩa ngang
nhau về mục đích và yêu cầu. Bản thân chức năng kinh tế, chính sách kinh tế
của Nhà nước ta mang tính xã hội sâu sắc. Điều 16 Hiến pháp 1992 ghi rõ:

"Mục đích chính sách kinh tế của nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân".Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ thứ VIII cũng nhấn mạnh:"tăng trưởng
kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với việc giải quyết những vấn
đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân
dân"…[18, tr 82] là mục tiêu, nhiệm vụ bức thiết đặt ra cho Đảng, Nhà nước
ta hiện nay.
Chức năng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện các
chức năng khác của Nhà nước ta. Nó có ảnh hưởng to lớn đến quan hệ giai
cấp, đến phát triển kinh tế, ổn định xã hội và là điều kiện cho sự phát triển
toàn diện của con người
1.1.2. Chức năng xã hội của nhà nƣớc CHXHCN Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, trên phương diện lý luận có nhiều quan điểm khác
nhau về việc xác định chức năng xã hội cũng như phạm vi của nó trong hệ
thống chức năng nhà nước. Có thể chia các quan điểm đó thành hai nhóm:
- Nhóm quan điểm thứ nhất, khơng đề cập đến chức năng xã hội của
nhà nước, những tác giả này căn cứ vào hình thức họat động của nhà nước,
theo lĩnh vực hoạt động của quyền lực nhà nước, do đó chức năng nhà nước


20
gồm chức năng: Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp [14, tr 9], nếu phân định chức
năng nhà nước theo cách này là hợp lý nếu chỉ xét phương diện quyền lực nhà
nước và thực thi quyền lực nhà nước vì nó phản ánh được cơ cấu quyền lực
và các phương diện hoạt động của cơ cấu quyền lực đó. Nhưng hạn chế của
cách phân định này là không thể hiện rõ vai trò của nhà nước đối với từng lĩnh
vực xã hội cụ thể.
- Nhóm quan điểm thứ hai, căn cứ dựa vào nguồn gốc, bản chất nhà
nước hoặc lĩnh vực họat động thực tiễn của nhà nước để khẳng định nhà nước
có chức năng xã hội.

+ Quan điểm thứ nhất: Xuất phát từ bản chất giai cấp và bản chất xã hội
của nhà nước xuyên suốt các kiểu nhà nước trong lịch sử, có tác giả phân tích
chức năng nhà nước thành hai phân hệ: Chức năng thống trị giai cấp và chức
năng kinh tế- xã hội [14, tr 9]. Theo quan điểm này chức năng xã hội được
hiểu ở phạm vi hẹp trong mối liên hệ gắn bó với chức năng kinh tế. Tuy
nhiên, chức năng xã hội chưa thể hiện rõ được tính độc lập tương đối của
mình.
+ Quan điểm thứ hai: Mọi nhà nước ngồi việc thực hiện chức năng
thống trị giai cấp đều phải thực hiện chức năng xã hội. Hoặc là “chức năng
công quản” [53 tr 12]. Ở đây chức năng nhà nước được hiểu ở phạm vi rộng:
bao gồm các phương diện hoạt động của nhà nước tác động tới tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trừ lĩnh vực chính trị. Như vậy, mặc dù các quan
điểm đều xuất phát từ bản chất nhà nước để luận giải nhưng do mục đích,
phạm vi nghiên cứu khác nhau nên vẫn có sự nhận thức khác nhau về khái
niệm, phạm vi chức năng xã hội của nhà nước. Dù xác định chức năng nhà
nước theo tiêu chí nào thì vai trị chức năng xã hội của nhà nước vẫn không bị
phủ nhận


21
Chức năng xã hội của nhà nước là một chức năng tổng hợp bao hàm
một nội dung phong phú và liên tục có biến động theo sự vận động, phát triển
của xã hội trong cơ chế thị trường. Chức năng xã hội của nhà nước CHXHCN
Việt Nam thể hiện bản chất nhân đạo của nhà nước ta phù hợp với truyền
thống văn hoá của dân tộc. Thực hiện tốt chức năng xã hội là một trong những
đòi hỏi bức thiết của lý tưởng xây dựng một xã hội nhân bản - xã hội vì bản
thân con người.
Từ sự nhận thức chung về chức năng xã hội của nhà nước có thể đi
đến kết luận: Chức năng xã hội của Nhà nƣớc CHXHCN Việt Nam là
những phƣơng diện hoạt động cơ bản của nhà nƣớc, thể hiện bản chất giai

cấp, vai trị và ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nƣớc trong sự
nghiệp xây dựng CNXH.
Trên cơ sở nhận thức đó, chức năng xã hội của Nhà nước ta cần được
xem xét ở hai phương diện chính sau:
Phương diện thứ nhất: Chức năng xã hội của nhà nước là những
phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, tác động đến các lĩnh vực xã hội
có liên quan đến tất cả cộng đồng xã hội, đến từng giai cấp, từng lớp, nhóm xã
hội, từng cá nhân: như vấn đề lao động - việc làm, thu nhập, dịch vụ công
cộng, giáo dục, y tế ...vv thông qua việc thực hiện chức năng này, nhà nước
bảo đảm những phúc lợi xã hội, tạo ra những khả năng như nhau cho mọi
cơng dân để đạt được những phúc lợi đó [33, tr15], bảo vệ xã hội chống lại
những hiệu ứng bên ngoài của thị trường và điều chỉnh những hậu quả do lợi
ích kinh tế thị trường gây ra.
Chức năng xã hội của nhà nước được xác lập và thực hiện trước hết là
để giải quyết các vấn đề xã hội mang tính tổng thể và lợi ích chung của tồn
xã hội. Đồng thời khi có những dấu hiệu, điều kiện ảnh hưởng tác động hoặc
đe doạ đến chất lượng cuộc sống của các thành viên trong cộng đồng hoặc


22
cộng đồng thì nhà nước phải có những biện pháp để phịng ngừa, ngăn chặn
hoặc giải quyết theo hướng có lợi cho sự tồn tại của các thành viên đó nói
riêng và cả của cộng đồng nói chung. Thực tế, Nhà nước ta không quan niệm
việc giải quyết các vấn đề xã hội chỉ là giải quyết một cách thụ động những sự
kiện, hiện tượng, hay quá trình tiêu cực về mặt xã hội và quan trọng hơn là tạo
ra được những định hướng, những khn mẫu mang tính tích cực để trên cơ
sở đó xã hội phát triển.
Phương diện thứ hai: Chức năng xã hội của nhà nước là những
phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước liên quan đến bộ phận dân cư
chịu thiệt thòi về mặt xã hội, những nhóm người do điều kiện chủ quan và

khách quan cần có sự giúp đỡ, bảo vệ của nhà nước như : Đối tượng chính
sách, người thất nghiệp, người già cô đơn....vv
Hai phương diện này của chức năng xã hội của nhà nước có liên quan
mật thiết với nhau. Nếu nhà nước đảm bảo được việc tổ chức tốt đời sống
cộng đồng thì sẽ tạo ra các điều kiện để ổn định xã hội, phát triển kinh tế, từ
đó nhà nước và xã hội càng có điều kiện để chăm lo cho tồn bộ dân cư khơng
may mắn trong xã hội. Ngược lại, khi bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội
được quan tâm cứu giúp có khả năng tự vươn lên sẽ làm giảm bớt gánh nặng
cho xã hội, góp phần ổn định cho tồn xã hội.
Chức năng xã hội của Nhà nước ta, thể hiện bản chất, vai trị của
nhà nước là vì nhân dân phục vụ, được xác định theo đúng tinh thần mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh:Chính sách của Đảng và Chính
phủ là hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng
và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm
là Đảng và Chính phủ có lỗi ... Cái đích mà chức năng xã hội của Nhà
nước ta nhằm hướng tới, đó chính là quyền lợi của mọi người dân, những
nhu cầu về cuộc sống ấm no hạnh phúc và cơng bằng xã hội.Vì thế, việc


×