Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chức năng xã hội là một chức năng cơ bản của Nhà nớc, tồn tại khách
quan trong tất cả các kiểu nhà nớc, là chức năng xuất phát từ nhu cầu chung, lợi
ích chung của toàn bộ xã hội, nhằm tổ chức và quản lý đời sống cộng đồng, duy
trì một trật tự chung đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử các t tởng và học thuyết pháp lý đã từng xuất hiện những
quan điểm về chức năng xã hội của Nhà nớc. Dới nhiều cấp độ và cách thể hiện
khác nhau, nhiều nhà t tởng trong các thời kỳ phát triển của xã hội đã thừa nhận
Nhà nớc có chức năng xã hội nhng những quan điểm đó có sự khác nhau do bị
chi phối bởi lợi ích giai cấp và điều kiện lịch sử.
Trong những năm gần đây, trớc những đổi thay lớn lao của đời sống
quốc tế và sự sụp đổ của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đòi hỏi
chúng ta phải có sự nhận thức lại đúng đắn các quan điểm của học thuyết Mác -
Lênin, trong đó có việc nhận thức lại một số vấn đề lý luận về Nhà nớc và pháp
luật. Trong thời đại ngày nay, khi mà những tiến bộ, những thành tựu của khoa
học kỹ thuật đã làm cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân trở thành một
tất yếu nh Mác đã từng tiên đoán thì xu hớng chung của các Nhà nớc trên thế
giới là xác định lại vai trò của mình trong xã hội, từ đó Nhà nớc hớng các hoạt
động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự phát triển toàn diện của con ng-
ời. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của Nhà nớc đang trở thành đối tợng nghiên
cứu của nhiều lĩnh vực khoa học (chính trị, pháp lý...), trở thành mối quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu trong các chế độ Nhà nớc khác nhau.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, trong tất cả các giai đoạn
phát triển của mình, với tính cách là Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, Nhà nớc ta đã thực hiện chức năng
5
xã hội ở những mức độ và hình thức nhất định. Con ngời luôn đợc coi là mục
tiêu và động lực của sự phát triển xã hội: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, trớc hết là nhân dân lao động" [56, tr. 22]. "Nhân tố con
ngời, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền
văn minh... Chăm sóc, bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời vì mục tiêu dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh" [28, tr. 5]. Tinh thần này đã đợc
thể hiện nhất quán trong tất cả các giai đoạn phát triển của Nhà nớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện đất nớc, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp 1992
càng khẳng định rõ vai trò, chức năng xã hội của Nhà nớc. Điều 3 Hiến pháp
1992 ghi nhận: "Nhà nớc bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về
mọi mặt của nhân dân..., xây dựng đất nớc giàu mạnh, thực hiện công bằng xã
hội, mọi ngời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện". Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng ta cũng đã xác định: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc pháp
quyền Việt Nam. Đó là Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đa đất nớc phát triển theo định
hớng xã hội chủ nghĩa" [28, tr. 56]. Một trong những nội dung cơ bản của Nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải củng cố và phát huy bản chất dân chủ,
phát huy vai trò của Nhà nớc trong việc bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân, nhân dân là chủ nhân của xã hội và Nhà nớc là tổ chức công quyền
phục vụ nhân dân. Đồng chí Đỗ Mời, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ơng Đảng (khóa VII) khi nói về Nhà nớc trong sự nghiệp hiện đại hóa,
công nghiệp hóa đất nớc đã khẳng định: "Cần tập trung nghiên cứu xác định
đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nớc trong cơ chế mới". Do đó, việc
quan tâm, chú trọng đến chức năng nhà nớc nói chung, chức năng xã hội của
6
Nhà nớc nói riêng là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
ở nớc ta hiện nay, trên phơng diện lý luận, đã xuất hiện một số quan
điểm khác nhau về vai trò, phạm vi, nội dung, phơng thức thực hiện chức năng
xã hội của Nhà nớc. Những quan điểm đó có ý nghĩa chi phối, ảnh hởng lớn đến
việc củng cố và hoàn thiện Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến
mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên đây vẫn còn là một
vấn đề khá mới mẻ. Điều đó chứng tỏ trên phơng diện nhận thức, lý luận, chức
năng của Nhà nớc nói chung, chức năng xã hội của Nhà nớc nói riêng là những
vấn đề quan trọng cần đợc quan tâm đúng mức.
Những năm qua, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện
đất nớc, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, vẫn còn
nhiều vấn đề xã hội bức xúc đòi hỏi Nhà nớc phải tiếp tục giải quyết với t cách
là chủ thể tổ chức và quản lý xã hội.
Từ thực trạng đó, đặt ra yêu cầu là vấn đề chức năng xã hội của Nhà nớc
cần đợc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần bổ sung lý luận
khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện Nhà nớc ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay. Vì vậy, việc tác giả chọn đề tài "Chức năng xã hội của Nhà n-
ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trớc thời kỳ đổi mới, ở nớc ta, trên giác độ khoa học pháp lý, vấn đề
chức năng xã hội của Nhà nớc hầu nh không đợc đề cập tới, thậm chí còn nh là
một "điều cấm kỵ" [41, tr. 13]. Điều đó xuất phát từ quan điểm nhận thức thiếu
khách quan, toàn diện về nguồn gốc, bản chất, chức năng nhà nớc, nhấn mạnh
một chiều chức năng chuyên chính giai cấp hoặc chỉ quan tâm đến chức năng
kinh tế, một trong những điểm cơ bản mà các học giả muốn khai thác để làm rõ
7
sự khác biệt và tính u việt của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa so với các Nhà nớc
khác, đặc biệt là Nhà nớc t sản và bỏ qua nhận thức về vai trò, giá trị xã hội của
Nhà nớc. Từ Đại hội VI đến nay, cùng với những thay đổi trong nhận thức lý
luận, chức năng xã hội của Nhà nớc đã đợc quan tâm hơn trớc nhng nhìn chung
mới chỉ ở mức độ nhất định, chủ yếu thể hiện qua các bài viết của một số tác
giả trên các báo, tạp chí, tập san, qua bài giảng của giảng viên ở các cơ sở đào
tạo chuyên ngành Luật... chứ cha có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống vấn đề này. Trong đề tài KX.04.16 "Hoàn thiện hệ thống pháp luật của
Nhà nớc nhằm tăng cờng hiệu lực quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã
hội" (1995) do cố PGS.PTS Trần Trọng Hựu chủ nhiệm có đề cập đến chức
năng xã hội của Nhà nớc nhng chỉ với tính cách là một vấn đề liên quan đến nội
dung chính của đề tài. Năm 1997, có luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị
Thanh Thảo nghiên cứu vấn đề này nhng khác về mức độ, phạm vi nghiên cứu.
Trong hệ thống lý luận của các Nhà nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây hầu
nh không đề cập đến vấn đề này. Trong "Những nguyên lý xây dựng Nhà nớc
Xô-viết và pháp quyền" của Viện Hàn lâm khoa học xã hội trực thuộc ủy ban
Trung ơng Đảng Cộng sản Liên xô có bàn đến chức năng xã hội nhng chỉ với
tính cách là một bộ phận trong hệ thống các chức năng của Nhà nớc Xô-viết nói
riêng và phạm vi chức năng theo quan điểm này cũng hạn hẹp.
ở các nớc t bản phát triển, trong những năm gần đây, chức năng xã hội
của Nhà nớc thờng đợc xem xét gắn với việc nghiên cứu vai trò của Nhà nớc
trong sự phát triển của nền kinh tế thị trờng, với ý nghĩa là sự can thiệp của Nhà
nớc vào việc giải quyết các vấn đề xã hội - những vấn đề đợc coi là hậu quả do
tác động tiêu cực của kinh tế thị trờng đối với con ngời và xã hội. Vấn đề này đ-
ợc thể hiện trong "Tạo dựng một nền văn minh mới - chính trị của làn sóng thứ
ba" của các học giả Alvin Toffler và Heidi Tolleler, trong quan điểm của các
nhà khoa học và chính trị gia Nga tại Hội nghị khoa học "Vai trò của Nhà nớc
trong sự hình thành và điều tiết kinh tế thị trờng" tại Matxcơva tháng 4/1997,
8
trong "Nhà nớc, thị trờng và viện trợ - những vai trò mới định lại" của nhóm
chuyên gia tổ chức SIDA Thụy Điển, trong "Đổi mới hoạt động của Chính
phủ" của Đêvít Âubớt và Tét Gheblơ, trong "Nhà nớc trong một thế giới
chuyển đổi" của Ngân hàng thế giới năm 1997...
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Tác giả lựa chọn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về chức năng xã
hội của Nhà nớc ta nhằm:
- Góp phần hoàn thiện lý luận về chức năng của Nhà nớc ta mà trọng
tâm là chức năng xã hội theo giác độ pháp lý.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng trong thời gian qua, để trên
cơ sở đó đề xuất một số phơng hớng, giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng xã
hội của Nhà nớc ta trong điều kiện hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đợc mục đích nghiên cứu trên đây, luận án có các nhiệm vụ nh
sau:
- Nhận thức lại tính chất, nội dung chức năng xã hội của Nhà nớc trong
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nớc ta.
- Làm sáng tỏ những nội dung của chức năng xã hội của Nhà nớc ta.
- Phân tích những hình thức, biện pháp thực hiện các nhiệm vụ, mục
tiêu đợc đặt ra bởi chức năng này trong thời gian qua.
- Đa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cờng chức năng xã hội của
Nhà nớc ta trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền Việt Nam, trong điều
kiện kinh tế mới, thế giới mới - phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa và xu hớng hội nhập, toàn cầu hóa đời sống quốc tế.
9
* Phạm vi nghiên cứu
Chức năng xã hội của Nhà nớc là một vấn đề phức tạp, đã và đang đợc
quan tâm nghiên cứu dới nhiều góc độ khác nhau (chính trị, kinh tế, pháp
luật...) với nhiều quan điểm không thống nhất.
Dới góc độ pháp lý, luận án chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề những vấn
đề lý luận cơ bản và thực tiễn thực hiện chức năng xã hội trong điều kiện của
Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trọng tâm là nội dung, phơng
thức thực hiện chức năng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở phơng pháp luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về Nhà nớc và pháp luật, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nớc
và pháp luật trong thời kỳ đổi mới.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tham khảo và sử dụng một số tài
liệu trong và ngoài nớc.
Phơng pháp nghiên cứu: đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể; lịch
sử, hệ thống; tổng hợp, phân tích, so sánh...
5. Những đóng góp mới của luận án
- Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ
thống về lý luận và thực tiễn thực hiện chức năng xã hội của Nhà nớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận án đã hệ thống hóa đợc những quan điểm, những cách tiếp cận
về chức năng nhà nớc nói chung, chức năng xã hội của Nhà nớc nói riêng đã đ-
ợc thể hiện trong các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học pháp lý.
- Nghiên cứu chức năng xã hội của Nhà nớc trong mối quan hệ với
những vấn đề cơ bản của Nhà nớc nh: điều kiện xuất hiện, bản chất nhà nớc...
10
để chỉ rõ chức năng xã hội của Nhà nớc xuất hiện rất sớm - ngay khi Nhà nớc
xuất hiện với t cách là một tổ chức công quyền và sự tồn tại của chức năng xã
hội của Nhà nớc là một tất yếu khách quan.
- Bớc đầu vạch ra đợc sự phát triển của chức năng xã hội trong lịch sử phát
triển của Nhà nớc nói chung, lịch sử phát triển của Nhà nớc ta nói riêng.
- Khái quát đợc những nội dung cơ bản của chức năng xã hội của Nhà
nớc ta trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa.
- Từ sự phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn việc thực hiện chức năng
xã hội của Nhà nớc ta trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong 16 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, luận án đã khái quát đợc một cách hệ thống những hình thức,
biện pháp thực hiện chức năng xã hội của Nhà nớc trong điều kiện cụ thể của nớc
ta, đồng thời khẳng định rằng, trong điều kiện nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa hiện nay phải tăng cờng chức năng xã hội của Nhà nớc, coi chức
năng xã hội là một bộ phận quan trọng của chức năng nhà nớc.
- Bớc đầu luận án đã đa ra những định hớng, giải pháp về nâng cao hiệu
quả việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nớc ta trong điều kiện, hoàn cảnh
hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chơng, đợc chia thành 8 mục.
11
Chơng 1
Những vấn đề lý luận về chức năng xã hội
của Nhà nớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1. Khái quát chung về chức năng xã hội của Nhà nớc ta
Chức năng xã hội của Nhà nớc là một vấn đề tơng đối mới mẻ so với các
nội dung khác trong lý luận về Nhà nớc và pháp luật ở nớc ta. Thực chất vấn đề này
chỉ mới đợc đề cập tới trong những năm gần đây của thời kỳ đổi mới.
Để có thể nghiên cứu chức năng xã hội của Nhà nớc một cách toàn diện,
chính xác, khách quan, cần đặt nó trong mối liên hệ với các khái niệm khác về
Nhà nớc, mà trớc hết là khái niệm "chức năng của Nhà nớc".
1.1.1 Khái niệm chức năng của Nhà nớc
Chức năng của Nhà nớc đã và đang đợc quan tâm nghiên cứu dới nhiều
giác độ (triết học, chính trị học, luật học...), theo nhiều cách tiếp cận khác nhau,
đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, trớc những yêu cầu của công cuộc đổi mới
sâu sắc, toàn diện đất nớc và trớc những thay đổi lớn lao của đời sống quốc tế.
Trong luận án này, chức năng của Nhà nớc đợc đề cập dới giác độ khoa học
pháp lý.
Chức năng của Nhà nớc là một khái niệm phức tạp, luôn gắn với những
phạm trù nh bản chất, nhiệm vụ, các hình thức và phơng pháp hoạt động của
Nhà nớc... Khái niệm chức năng của Nhà nớc có ý nghĩa nhất định, cho phép
chúng ta phân định nó với các phạm trù khác của lý luận về Nhà nớc và pháp
luật, là một trong những cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu chức
năng xã hội của Nhà nớc.
Theo cách hiểu truyền thống, phổ biến nhất từ trớc đến nay, thể hiện
trong nhiều giáo trình, nhiều sách ở Liên Xô trớc đây và hiện đang lu hành ở
12
Việt Nam, "chức năng của Nhà nớc" là những phơng diện (những phơng hớng,
mặt, dạng, loại) hoạt động chủ yếu của Nhà nớc nhằm thực hiện những nhiệm
vụ đặt ra trớc Nhà nớc.
Nh bất kỳ một hiện tợng xã hội nào, Nhà nớc tồn tại và phát triển thông
qua những mối liên hệ biện chứng của nó, thể hiện trong các hoạt động của Nhà
nớc tác động vào thế giới tự nhiên, thế giới vật chất, vào các quan hệ xã hội và
thế giới tinh thần của con ngời. Mỗi chức năng cụ thể của Nhà nớc thể hiện sự
thống nhất của nội dung, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nớc
trong một lĩnh vực hoạt động nhất định của Nhà nớc, gắn với việc thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nớc. Nhng chức năng của Nhà nớc không chỉ tồn tại trong
mối liên hệ với nhiệm vụ Nhà nớc mà còn phản ánh bản chất và vai trò, vị trí
của Nhà nớc đối với xã hội - xuất phát điểm đồng thời là mục tiêu hoạt động
của Nhà nớc. Vì thế, quan điểm này tuy đã lý giải "chức năng của Nhà nớc" t-
ơng xứng với hiện tợng "Nhà nớc", là phù hợp hơn cả so với một số quan điểm
khác nhng vẫn cha thật đầy đủ.
Quan điểm thứ hai xuất phát từ bản chất nhà nớc, cho rằng chức năng của
Nhà nớc đợc xem xét nh những thuộc tính cơ bản bên trong của Nhà nớc, phản
ánh hai thuộc tính đặc trng của bản chất nhà nớc với t cách là tổ chức thống trị
giai cấp và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội. Quan điểm này hợp lý ở chỗ
đã khẳng định sự tồn tại khách quan của chức năng nhà nớc với hai tính chất (là
tính giai cấp và tính xã hội) và mối liên hệ giữa bản chất với chức năng của Nhà
nớc, tuy nhiên cha phản ánh đợc nội dung, đối tợng của chức năng - những nét
đặc thù để phân biệt chức năng nhà nớc với các khái niệm khác.
Trên căn cứ tơng tự, xuất phát từ nguồn gốc, bản chất và vai trò của Nhà
nớc đối với xã hội, quan điểm thứ ba xác định chức năng nhà nớc là sự thể hiện
vai trò của Nhà nớc đối với xã hội, là biểu hiện cụ thể năng lực của Nhà nớc và
kết luận rằng cần nhận thức khái niệm chức năng nhà nớc trên ba góc độ thống
nhất hữu cơ: "Chức năng nhà nớc là cái mà xã hội cần Nhà nớc và Nhà nớc cần
13
phải làm; là cái mà Nhà nớc có thể làm đợc; là cái Nhà nớc đợc làm" [24, tr. 8].
Quan điểm này cho chúng ta một cách nhìn mới về chức năng nhà nớc, thấy đợc
tính giới hạn của chức năng nhà nớc, tuy nhiên tác giả cha đa ra đợc định nghĩa.
Có quan điểm coi "chức năng của Nhà nớc" không chỉ là những phơng h-
ớng hoạt động chủ yếu của Nhà nớc mà còn là cơ chế tác động của Nhà nớc lên
quá trình xã hội, bởi khi thực hiện những chức năng nhất định trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, Nhà nớc bằng các cuộc cải cách, bằng sự điều chỉnh
pháp luật, bằng các cách thức tổ chức và quản lý các quan hệ xã hội mà tác
động lên trạng thái của các quá trình xã hội...
Quan điểm khác cho rằng: chức năng nhà nớc chính là những nhiệm vụ
cơ bản của Nhà nớc trong từng giai đoạn phát triển cụ thể hoặc đa vào khái
niệm "chức năng của Nhà nớc" cả những phơng pháp, cách thức Nhà nớc thực
hiện chức năng của mình trong thực tiễn - là các hình thức hoạt động của Nhà
nớc đối với môi trờng xung quanh, đối với xã hội, với các quốc gia khác và nh
vậy đã có sự mở rộng phạm vi khái niệm, trộn lẫn giữa các mặt hoạt động của
Nhà nớc với nhiệm vụ của Nhà nớc, với phơng thức thực hiện chúng.
Tuy có những khác biệt nhất định trong mỗi cách hiểu chức năng nhà n-
ớc đã đề cập ở trên nhng nhìn chung chúng đều xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin về
nguồn gốc, bản chất, vị trí, vai trò của Nhà nớc trong đời sống xã hội, đặt hiện
tợng Nhà nớc trong quá trình vận động và phát triển của xã hội theo các quy
luật khách quan của nó.
Trong bối cảnh hiện nay, theo chúng tôi, để có thể góp phần xác định
một khái niệm đầy đủ về "chức năng của Nhà nớc", cần làm sáng tỏ một số luận
điểm sau:
- Chức năng nhà nớc gắn liền với điều kiện xuất hiện và bản chất
của Nhà nớc
14
Nhà nớc là một hiện tợng xã hội vô cùng phức tạp, có lịch sử phát sinh,
tồn tại và phát triển riêng của nó. Xuất phát từ những phân tích về sự
tồn tại, phát triển và tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy để tìm ra nguồn
gốc Nhà nớc, học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng: Nhà nớc chỉ xuất hiện
và tồn tại trong những giai đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài ngời với những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Những điều kiện đó là "sự xuất hiện và tồn
tại của chế độ t hữu về t liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp,
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp ấy trở nên "không thể điều hòa đợc" [74, tr.
7]. Chế độ t hữu về t liệu sản xuất xuất hiện là nguyên nhân cơ bản đa đến sự
khác biệt, mâu thuẫn về địa vị và lợi ích kinh tế, dẫn đến ra sự khác biệt, mâu
thuẫn về địa vị và lợi ích chính trị, xã hội giữa các thành viên trong xã hội, làm
cho thiết chế xã hội cũ không còn đủ khả năng duy trì một xã hội với những
biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong trật tự nh trớc và khi đó Nhà nớc ra đời. Sự ra
đời của Nhà nớc là một tất yếu lịch sử, nhằm đáp ứng nhu cầu đợc quản lý của
chính xã hội và duy trì một trật tự xã hội theo ý chí và lợi ích của giai cấp nắm
trong tay những t liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nớc là một lực lợng nảy sinh từ xã
hội, "tựa hồ nh đứng trên xã hội", "có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự" [15, tr. 260]. Quan điểm của học
thuyết Mác - Lênin đã phủ định một cách khoa học các thuyết nh thuyết thần
học, thuyết gia trởng, thuyết bạo lực, thuyết tâm lý, thuyết khế ớc xã hội... của
các học giả trong các chế độ xã hội trớc đó giải thích về nguồn gốc Nhà nớc.
Trong xã hội hiện đại, do sự tồn tại khách quan của Nhà nớc và tính đúng đắn,
khoa học của học thuyết Mác - Lênin nên các học giả t sản đã có những thay
đổi nhất định trong nhận thức về nguồn gốc Nhà nớc. Họ đã phải thừa nhận
rằng Nhà nớc bắt nguồn từ xã hội, "từ thời xa xa nhất, con ngời họp lại với nhau
thành các phờng hội lớn hơn, bắt đầu bằng hộ gia đình, rồi đến các nhóm có
quan hệ huyết thống và rồi tiến đến các Nhà nớc hiện đại" [62, tr. 35]. Nh vậy,
15
điều kiện xuất hiện Nhà nớc quy định Nhà nớc phải có những chức năng nhất
định, mà nổi bật là chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng xã hội.
Chức năng nhà nớc và bản chất nhà nớc có mối liên hệ khách quan:
Chức năng của Nhà nớc đợc xác định xuất phát từ bản chất nhà nớc và ngợc
lại, bản chất nhà nớc đợc thể hiện thông qua các chức năng của Nhà nớc - đợc
cụ thể hóa và thể hiện trong nhiều mặt hoạt động của Nhà nớc.
Sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp, là sản phẩm của xã hội có
giai cấp và đấu tranh giai cấp và theo đúng nghĩa của nó là một bộ máy trấn áp
đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác nên Nhà nớc bao giờ cũng thể
hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Lịch sử xã hội loài ngời đã chứng minh: trong
bất kỳ xã hội có giai cấp nào, Nhà nớc bao giờ cũng thuộc về một giai cấp, một
lực lợng chính trị nào đó trong xã hội, chính xác hơn, Nhà nớc luôn thuộc về giai
cấp nắm trong tay những t liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội. Nhà nớc là một bộ
máy cỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất
để duy trì sự thống trị giai cấp: đảm bảo sự thống trị về kinh tế, thực hiện quyền
lực về chính trị và tác động về t tởng đối với quần chúng. Luận điểm mác-xít về
bản chất giai cấp của Nhà nớc đúc kết trong kết luận của Ăngghen: Nhà nớc là
"Nhà nớc của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế
và nhờ có Nhà nớc mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó
có thêm đợc những phơng tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức... Nhà
nớc là một tổ chức của giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại
giai cấp không có của" [47, tr.255-256]. "Giai cấp nào chi phối những t liệu sản
xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những t liệu sản xuất tinh thần... Những
t tởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện của những quan
hệ vật chất thống trị..., đợc biểu hiện dới hình thức t tởng" [45, tr. 67-68].
Đồng thời, trong bất kỳ xã hội nào, Nhà nớc luôn giữ vai trò là ngời đại
diện chính thức của toàn xã hội, là trung tâm giải quyết các công việc chung
16
của xã hội mà cá nhân công dân không thể giải quyết đợc. Nhà nớc phải chú ý
đến lợi ích chung của toàn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, ổn định và
phát triển, thực hiện những hoạt động nhất định phù hợp với yêu cầu của xã hội,
thông qua đó mà bảo đảm các lợi ích nhất định của các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội trong chừng mực các lợi ích đó không quá mâu thuẫn với lợi ích
của giai cấp thống trị. Do đó, bản chất xã hội là mặt thứ hai của bản chất nhà n-
ớc. Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất nhà nớc nhng Nhà nớc nào
cũng thể hiện tính xã hội. Bản chất của mọi Nhà nớc đều bao gồm hai tính chất
đó, tuy mức độ biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể
nhng không bao giờ triệt tiêu nhau.
Trong mối quan hệ này, bản chất nhà nớc là tổng hợp những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên hiện tợng Nhà nớc, là những thuộc tính hữu cơ
bên trong của Nhà nớc còn chức năng nhà nớc là phơng thức tồn tại và phát
triển của Nhà nớc. Khi bản chất nhà nớc thay đổi thì chức năng nhà nớc cũng
thay đổi cho phù hợp với bản chất nhà nớc mới. Sự thay đổi của bản chất nhà n-
ớc có thể diễn ra trong sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội. Đồng thời,
trong sự vận động của từng hình thái kinh tế - xã hội nhất định, các tính chất
của bản chất nhà nớc cũng có thể có sự vận động, biến đổi. Theo nguyên lý
chung, khi xung đột giai cấp gay gắt, bản chất giai cấp của Nhà nớc thể hiện rõ
nét hơn, tập trung hơn và ngợc lại, khi xung đột giai cấp lắng xuống thì bản chất
xã hội sẽ nổi trội hơn. Mặt khác, xuất phát từ vai trò của mình đối với xã hội,
Nhà nớc có thể có những điều chỉnh trong quá trình điều tiết, tác động vào các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.Vì thế, các chức năng nhà nớc và nội
dung của nó luôn có sự vận động, biến đổi làm xuất hiện những chức năng mới
hoặc mất đi những chức năng nào đó hoặc có những chức năng của Nhà nớc tồn
tại qua nhiều chế độ xã hội khác nhau nhng nội dung và phơng pháp thực hiện
chúng lại rất khác nhau tùy thuộc điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào bản
chất nhà nớc đó.
17
Chức năng nhà nớc phản ánh đầy đủ hai tính chất cơ bản của bản chất
nhà nớc là tính giai cấp và tính xã hội: Xuất phát từ bản chất giai cấp, Nhà nớc
là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế và bởi các giai cấp có quyền
lợi đối nghịch nhau nên chức năng nhà nớc trớc tiên đợc hình thành là nhằm để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Nhng đồng thời, xuất phát từ bản chất xã
hội, bất kỳ Nhà nớc nào cũng thực hiện các hoạt động với t cách là ngời đại diện
chính thức cho quyền lợi của toàn xã hội nên có những chức năng nhà nớc phát
sinh từ bản chất tự nhiên của mọi xã hội, từ nhu cầu của chính xã hội, nhằm duy
trì và bảo vệ những điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, chức năng
nhà nớc có tính giai cấp và tính xã hội.
Từ khi ra đời, Nhà nớc giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội
có giai cấp, thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nớc và xã hội, giữa Nhà nớc và
các tổ chức chính trị - xã hội. Xã hội là cơ sở cho sự phát sinh, tồn tại, phát triển
và diệt vong của Nhà nớc. Ngợc lại, Nhà nớc là một bộ phận quan trọng, không
thể thiếu đợc của xã hội có giai cấp. Nhờ có các cơ quan đặc biệt cùng các ph-
ơng tiện vật chất kèm theo nên Nhà nớc có thể tác động toàn diện, mạnh mẽ đến
đời sống xã hội. Nhà nớc giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện những lợi
ích cơ bản của giai cấp thống trị và duy trì những điều kiện cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Đó chính là sứ mệnh lịch sử của Nhà nớc trong tiến trình
phát triển của xã hội, thể hiện thông qua các chức năng của Nhà nớc.
Từ nhận thức về nguồn gốc và bản chất và vị trí, vai trò của Nhà nớc,
chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nớc xuất hiện là để thực hiện sứ mệnh của
một thiết chế quản lý xã hội, với hai nhiệm vụ cơ bản là duy trì sự thống trị giai
cấp và duy trì sự tồn tại, phát triển của toàn xã hội. Các chức năng nhà nớc đợc
hình thành xuất phát từ những nhiệm vụ cơ bản đó. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà
nớc có hai t cách: là công cụ giai cấp - bảo đảm duy trì, củng cố sự thống trị
của một giai cấp, một lực lợng nhất định trong xã hội và công cụ công quyền -
tác động, điều tiết các quan hệ xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng, giải quyết
18
những nhu cầu phát triển của toàn xã hội, giữ cho xã hội đó vận động, phát triển
theo một "trật tự" nhất định phù hợp ý chí của giai cấp cầm quyền. Sự ra đời và
phát triển của Nhà nớc Văn Lang - Âu Lạc với những điều kiện đặc thù - không
xuất phát từ sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp mà từ nhu cầu trị thủy và
chống ngoại xâm của các bộ tộc Lạc - Việt đã làm cho tính công quyền rõ nét
hơn các Nhà nớc khác.
Nh vậy, những điều kiện kinh tế - xã hội quyết định sự ra đời và tồn tại
của Nhà nớc, bản chất của Nhà nớc và vai trò của Nhà nớc có liên quan mật
thiết đến một phạm trù quan trọng trong lý luận về Nhà nớc là "chức năng nhà
nớc".
- Tơng quan giữa tính giai cấp và tính xã hội của chức năng nhà nớc
lệ thuộc điều kiện lịch sử trong các Nhà nớc khác nhau
Thực tế, tính giai cấp và tính xã hội của chức năng nhà nớc luôn tồn tại
một cách khách quan, không phụ thuộc vào sự nhận thức của con ngời. Nếu lấy
tính chất đại diện tập trung cho lợi ích chung của xã hội, vai trò tổ chức thực
hiện các công việc chung của xã hội và mục đích vì sự phát triển và tiến bộ xã
hội của Nhà nớc làm tiêu chí để xem xét thì ở mức độ khác nhau các chức năng
của Nhà nớc đều chứa đựng tính xã hội và tính giai cấp nhng mức độ thể hiện
của các tính chất đó khác nhau tùy thuộc từng điều kiện lịch sử cụ thể. Tơng
quan giữa hai tính chất của chức năng nhà nớc phụ thuộc vào sự tơng quan lực l-
ợng xã hội, lợi ích giai cấp và sự xung đột lợi ích giai cấp thể hiện trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội và chính trị trong điều kiện xã hội mà Nhà nớc đó tồn tại.
Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là toàn bộ nền sản xuất vật chất của
xã hội đó, tạo ra của cải vật chất phục vụ cho mọi nhu cầu của con ngời và của
xã hội. Trong mối quan hệ với Nhà nớc, cơ sở kinh tế giữ vai trò quyết định.
Nhà nớc thực hiện các chức năng của mình là để giải quyết các vấn đề lợi ích
mà trớc hết là lợi ích kinh tế, thứ lợi ích do quan hệ sở hữu trực tiếp quyết định.
Nh vậy, suy đến cùng, quan hệ sở hữu cơ bản, nền tảng trong một chế độ xã
19
hội có ý nghĩa quyết định đến chức năng nhà nớc nên việc bảo vệ chế độ sở
hữu là nền tảng của chế độ Nhà nớc đó phản ánh rõ nét mối tơng quan của hai
tính chất trong chức năng nhà nớc.
Mỗi chế độ xã hội đợc xây dựng, tồn tại và phát triển trên một cơ sở xã
hội nhất định tơng ứng với nó, bao gồm các giai cấp và tầng lớp xã hội cùng
những mối quan hệ giữa các giai tầng đó trong xã hội. Cơ cấu giai cấp và sự
thay đổi cơ cấu giai cấp trong các chế độ xã hội cũng nh sự vận động, phát triển
và thay đổi vị trí, vai trò của các giai tầng, nhóm xã hội, cộng đồng dân tộc, tôn
giáo... trong từng chế độ xã hội là một trong những nhân tố quyết định đến chức
năng của Nhà nớc. Cơ cấu giai cấp - xã hội do quan hệ sản xuất quyết định. Khi
phơng thức sản xuất thay đổi dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội thay đổi thì đ-
ơng nhiên cơ cấu giai cấp cũng thay đổi. Mâu thuẫn nội tại của phơng thức sản
xuất (giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất) cùng với những mâu thuẫn nội
tại trong từng mặt của quan hệ sản xuất trong các xã hội có giai cấp đối kháng
biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp [39, tr. 89] dẫn đến
tình trạng phân chia, đối đầu giữa các nhóm xã hội (giai cấp, dân tộc, tôn
giáo...). Giai cấp và cơ cấu giai cấp phản ánh mối quan hệ đa dạng về lợi ích
của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Lợi ích chiếm vị trí quan trọng trong
hoạt động của con ngời, là động lực của sự phát triển xã hội. Chức năng của
Nhà nớc thể hiện sự can thiệp, điều tiết của Nhà nớc đối với các lĩnh vực của
đời sống xã hội, suy đến cùng là nhằm giải quyết mối quan hệ lợi ích của con
ngời nên chỉ có thể thực hiện một cách đúng đắn và hiệu quả trên cơ sở nắm
vững những đặc thù của cơ cấu giai cấp, mối quan hệ đa dạng giữa các giai
tầng, các bộ phận dân c trong xã hội. Khi xung đột giai cấp tăng, đơng nhiên
tính giai cấp, tính chuyên chính trong chức năng nhà nớc sẽ nổi bật, ngợc lại,
khi xã hội bình ổn, xung đột giai cấp lắng xuống thì tính xã hội của chức năng
nhà nớc lại nổi trội hơn. Trong Nhà nớc có cơ sở xã hội là liên minh của các lực
20
lợng xã hội rộng lớn thì tính xã hội của chức năng nhà nớc rõ nét hơn và ngợc
lại.
Trong điều kiện hiện nay, Nhà nớc ta phải coi điều chỉnh cơ cấu lợi ích
là giải pháp vừa phát huy vai trò động lực của lợi ích vừa đảm bảo mục tiêu của
sự phát triển xã hội, tránh xu hớng tuyệt đối hóa một lợi ích nào đó mà triệt tiêu
các lợi ích khác, đẩy các mâu thuẫn lợi ích vốn là động lực của sự phát triển xã
hội thành các xung đột lợi ích dẫn đến các xung đột, rối loạn các quá trình xã
hội.
Ngoài ra, mức độ thể hiện hai tính chất này của chức năng nhà nớc còn
tùy thuộc vào từng chức năng cụ thể.
Tóm lại, từ những nhận thức về nguồn gốc, điều kiện tồn tại, bản chất và
vai trò của Nhà nớc, về mối liên hệ giữa chức năng nhà nớc và bản chất nhà n-
ớc, về sự tơng quan giữa tính giai cấp và tính xã hội của chức năng nhà nớc, có
thể nói: Chức năng nhà nớc là một vấn đề quan trọng khi nghiên cứu về Nhà n-
ớc mà thông qua đó, ngời ta có thể nhận biết đợc bản chất, vai trò của Nhà nớc,
những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà Nhà nớc đó tồn tại và mối liên hệ
của các yếu tố đó với chức năng nhà nớc.
- Chức năng nhà nớc trong mối quan hệ với quyền lực nhà nớc và
trình độ dân chủ
Quyền lực nhà nớc và chức năng nhà nớc tồn tại nh một tất yếu trong xã
hội có giai cấp và Nhà nớc. Chức năng nhà nớc là một trong nhiều hình thức thể
hiện quyền lực nhà nớc, luôn gắn với cơ cấu quyền lực nhà nớc. Quyền lực nhà
nớc là vấn đề then chốt để xác định chức năng nhà nớc. Aristốt quan niệm rằng,
mọi phúc lợi xã hội và sự khác nhau giữa các hình thức chế độ Nhà nớc phụ
thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực của mọi thiết chế chính trị - là một trật tự
dựa trên sự phân công các quyền lực nhà nớc. Theo các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào, quyền lực nhà nớc cũng
21
vẫn là quyền lực của giai cấp thống trị, là công cụ chuyên chính của một giai
cấp, thể hiện trên ba phơng diện: thống trị về chính trị, về kinh tế và về t tởng
đồng thời duy trì những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Mặt khác,
quyền lực nhà nớc là một bộ phận của quyền lực chính trị nên có tính giới hạn,
dẫn đến chức năng nhà nớc cũng có giới hạn của nó. Từ đó, có thể hiểu mối quan
hệ giữa chức năng nhà nớc và quyền lực nhà nớc là mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức, các bộ phận quyền lực nhà nớc và yêu cầu thực thi các bộ phận
quyền lực đó chi phối đến sự hình thành, đến nội dung và phơng thức thực hiện
các chức năng nhà nớc. ở nớc ta, quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân nên các
chức năng nhà nớc là phơng thức thực hiện quyền lực nhân dân, phục vụ nhân
dân.
Một trong những yếu tố góp phần quyết định đến chức năng nhà nớc là
trình độ dân chủ của xã hội mà Nhà nớc đó tồn tại.
Chế độ dân chủ, theo C. Mác, là chế độ do nhân dân tự quy định Nhà n-
ớc. Trong chế độ dân chủ, Nhà nớc với tính cách là một tổ chức công quyền,
thực hiện công quản, đóng vai trò là ngời tổ chức các quá trình xã hội theo hớng
dân chủ trên cơ sở tuân theo các quy luật vận động khách quan của xã hội. Tuy
nhiên, trong từng chế độ xã hội khác nhau, tính chất của nền dân chủ cũng khác
nhau, nh Lê-nin đã nói: "Dân chủ cho một thiểu số rất nhỏ, dân chủ cho ngời
giàu, đó là nền dân chủ trong xã hội t bản chủ nghĩa... Dân chủ cho tuyệt đại đa
số nhân dân... đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ..." [87,
tr. 107].
Bản chất nhà nớc xã hội chủ nghĩa là Nhà nớc dân chủ, là quyền lực
thuộc về nhân dân nhng để thực hiện đợc dân chủ thực sự, phải thu hút đợc các
tầng lớp nhân dân lao động tham gia một cách rộng rãi và thật sự bình đẳng vào
quản lý công việc Nhà nớc và xã hội. Trên phơng diện pháp lý, trình độ dân chủ
thể hiện ở chỗ luật pháp ghi nhận và bảo đảm các quyền dân chủ cho công dân
đợc thực hiện nh thế nào, là sự thể hiện của việc giải quyết mối quan hệ giữa
22
Nhà nớc và công dân. Trong xã hội dân chủ, hoạt động của Nhà nớc chỉ thể
hiện trong những "khoảng hợp pháp" chứ không phải là bao trùm lên toàn bộ
đời sống xã hội. Khi mà Nhà nớc còn trùm bóng mình lên tất cả các quan hệ xã
hội, điều tiết dới hình thức mệnh lệnh, bằng các chỉ tiêu kế hoạch cứng nhắc thì
không thể nói là có dân chủ thực sự. Chủ trơng xã hội hóa trong việc thực hiện
các chức năng nhà nớc ở nớc ta hiện nay là một biểu hiện rõ nét của chế độ dân
chủ, để nhân dân chủ động giải quyết lấy các công việc của mình, đồng thời
góp phần chia sẻ gánh nặng với Nhà nớc, giảm bớt sự can thiệp của công quyền.
Nếu dân chủ đợc bảo đảm, các chức năng kinh tế, xã hội đợc thể hiện rõ nét.
Ngợc lại, các chức năng đó mờ nhạt hơn chức năng chuyên chính giai cấp.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chức năng nhà nớc là những ph-
ơng diện hoạt động cơ bản của Nhà nớc đợc xác định từ bản chất nhà nớc, do
cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp quyết định, nhằm tác động có định hớng lên
các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trớc Nhà n-
ớc.
ở nớc ta, việc nhận thức đúng đắn, khoa học về chức năng nhà nớc
trong cơ chế mới là một trong những cơ sở lý luận để chấn chỉnh, đổi mới tổ
chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nớc, xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc
ta theo đờng lối đổi mới mà Đảng ta đã đề ra từ Đại hội VI.
Trên cơ sở quan niệm chung về chức năng nhà nớc nh vậy, theo chúng
tôi, trong điều kiện hiện nay, chức năng của Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là những phơng diện hoạt động cơ bản của Nhà nớc, thể hiện
bản chất giai cấp, vai trò và ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của Nhà n-
ớc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chức năng nhà nớc thể hiện rõ
nét bản chất nhà nớc là Nhà nớc dân chủ, của dân, do dân và vì dân, thể hiện vai
trò xã hội to lớn của Nhà nớc trong việc giữ cân bằng giữa những lợi ích xã hội,
ổn định xã hội và bảo vệ lợi ích quốc gia, thể hiện đợc mục đích mà toàn Đảng,
toàn dân ta phấn đấu "xây dựng một xã hội dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
23
bằng, dân chủ, văn minh". Xuất phát từ những thay đổi cơ bản về cơ sở kinh tế,
xã hội, các chức năng nhà nớc đã và đang có những thay đổi nhất định về vị trí
trong hệ thống các chức năng, về nội dung và phơng thức thực hiện. Vì vậy, bên
cạnh việc tăng cờng chức năng chuyên chính giai cấp để giữ vững thể chế chính
trị thì các chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nớc cần đợc quan tâm đặc biệt.
- Phân loại chức năng nhà nớc cũng là một việc cần thiết giúp chúng
ta xác định khái niệm và phạm vi của các chức năng nhà nớc.
ở nớc ta hiện nay có nhiều quan điểm phân loại chức năng của Nhà nớc
theo nhiều tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nớc, đa số giáo trình của Việt
Nam thờng chia chức năng nhà nớc theo thành hai hệ thống là chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại. Trong đó, chức năng đối nội là những mặt hoạt
động chủ yếu của Nhà nớc trong nội bộ đất nớc nh: đảm bảo trật tự xã hội, trấn
áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế...; chức năng đối
ngoại những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nớc thể hiện vai trò của Nhà nớc
trong quan hệ với các nhà nớc, các dân tộc khác, nh: phòng thủ đất nớc, chống
sự xâm lợc từ bên ngoài, thiết lập các mối quan hệ bang giao với các quốc gia
khác... Một số nhà luật học của Liên Xô trớc đây và Cộng hòa Liên bang Nga
gần đây cũng phân chia chức năng nhà nớc theo tiêu chí này, tuy nhiên có nhiều
ý kiến khác nhau khi phân loại các chức năng cụ thể trong hai hệ thống đó.
Mặc dù đây là cách phân loại chức năng nhà nớc đợc thừa nhận rộng rãi
nhất, nhng theo chúng tôi, nếu chỉ căn cứ vào phạm vi không gian của hoạt
động nhà nớc để phân chia chức năng thì cha đầy đủ, việc phân định vai trò nhà
nớc trên phạm vi đối nội và đối ngoại cũng chỉ mang tính tơng đối, không phản
ánh đợc đầy đủ các thuộc tính của bản chất nhà nớc cũng nh giá trị xã hội của
Nhà nớc. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi nhiều vấn đề về chính trị, kinh
tế, xã hội không dừng lại trong phạm vi mỗi quốc gia, không chỉ chịu sự điều
24
tiết của riêng từng Nhà nớc thì cách phân loại này bộc lộ những hạn chế nhất
định.
Quan điểm khác cho rằng, "chức năng duy nhất của Nhà nớc là quản lý xã
hội bằng một thứ quyền lực đặc biệt...". Chức năng duy nhất đó của Nhà nớc lại đ-
ợc tạo thành bởi một hệ thống các chức năng: chức năng kinh tế, chức năng ngoại
giao, chức năng phòng thủ quốc gia, chức năng bảo đảm xã hội... [23, tr. 30].
Hoặc căn cứ vào hoạt động của Nhà nớc theo các lĩnh vực quyền lực
nhà nớc, một số ngời chia các chức năng nhà nớc thành chức năng lập pháp,
chức năng hành pháp và chức năng t pháp [20, tr. 3], [24, tr. 9]. Theo chúng tôi,
nhóm ý kiến này là hợp lý nếu xét trên phơng diện quyền lực nhà nớc và thực
thi quyền lực nhà nớc vì cách phân định này phản ánh đợc cơ cấu quyền lực nhà
nớc và các phơng diện hoạt động của Nhà nớc theo cơ cấu quyền lực đó. Tuy
nhiên cách phân định này không thể hiện rõ vai trò của Nhà nớc đối với từng
lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Một số học giả t sản phơng Tây cũng đã có
cách phân định này, nhng khác với chúng ta, cơ sở lý luận cho sự phân định của họ
là dựa trên nguyên tắc phân chia quyền lực.
Một số ý kiến khác căn cứ vào nguồn gốc, bản chất nhà nớc hoặc lĩnh
vực hoạt động thực tiễn của Nhà nớc để khẳng định Nhà nớc có chức năng xã
hội.
Quan điểm thứ nhất: Xuất phát từ nguồn gốc và bản chất giai cấp, bản
chất xã hội của Nhà nớc, mọi Nhà nớc ngoài việc phải thực hiện chức năng
thống trị giai cấp đều phải thực hiện chức năng xã hội. Theo quan điểm này
chức năng xã hội đợc hiểu là những giá trị về mặt xã hội mà Nhà nớc thực hiện
[68, tr. 12] hoặc là "chức năng công quản" [38, tr. 78]; thể hiện rõ thuộc tính
thứ hai của bản chất nhà nớc là tính xã hội, cùng với chức năng thống trị giai
cấp tạo thành chức năng của Nhà nớc. ở đây, chức năng xã hội của Nhà nớc đ-
ợc hiểu ở phạm vi rộng: bao gồm các phơng diện hoạt động của Nhà nớc tác
25
động tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trừ lĩnh vực chính trị. Quan niệm
này là phù hợp khi nghiên cứu chung cho tất cả các kiểu Nhà nớc.
Trên căn cứ tơng tự, xuất phát từ bản chất giai cấp và bản chất xã hội
của Nhà nớc xuyên suốt các kiểu Nhà nớc trong lịch sử, có tác giả phân chức
năng nhà nớc thành hai phân hệ: chức năng thống trị giai cấp và chức năng kinh
tế - xã hội [24, tr. 9]. Theo quan điểm này, chức năng xã hội đợc hiểu ở phạm vi
hẹp hơn so với quan điểm thứ nhất, thấy đợc mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó giữa
chức năng kinh tế và chức năng xã hội tuy nhiên vẫn cha thể hiện rõ đợc tính
độc lập tơng đối của chức năng này.
Nh vậy, mặc dù các quan điểm này đều xuất phát từ bản chất nhà nớc để
luận giải nhng do những mục đích, phạm vi nghiên cứu khác nhau nên vẫn có
sự nhận thức khác nhau về khái niệm, vị trí, phạm vi chức năng xã hội của Nhà
nớc.
Theo chúng tôi, dù xác định các chức năng nhà nớc theo tiêu chí nào thì
vai trò xã hội của Nhà nớc vẫn không thể phủ nhận đợc. Vai trò xã hội của Nhà
nớc chính là sứ mệnh lịch sử của Nhà nớc trong tiến trình phát triển của xã hội,
thể hiện trong trách nhiệm của Nhà nớc trớc xã hội. Nhà nớc có trách nhiệm
quản lý xã hội, tổ chức đời sống xã hội và phục vụ xã hội. Nhiệm vụ của Nhà n-
ớc trong lĩnh vực xã hội là điều tiết các quá trình xã hội, đảm bảo sự ổn định xã
hội và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, theo xu thế chung trên thế giới, khi con ngời
đợc đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển, các nhà nớc đang chuyển dần từ
"Nhà nớc cai trị" sang "Nhà nớc phục vụ", vai trò phục vụ của Nhà nớc đợc chú
trọng hơn thì chức năng xã hội của Nhà nớc ngày càng đợc quan tâm hơn,
khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống các chức năng của Nhà nớc. Do đó,
theo chúng tôi, để thấy rõ ý nghĩa và vai trò xã hội to lớn của Nhà nớc đối với
đời sống xã hội và tính u việt của một chế độ Nhà nớc thì cần phải tiếp cận theo
chức năng xã hội của Nhà nớc.
26
Trong điều kiện thực tế của nớc ta hiện nay, việc xác định chức năng
Nhà nớc theo bản chất, vai trò của Nhà nớc đối với xã hội và các phơng diện tác
động của Nhà nớc phù hợp hơn xác định chức năng nhà nớc theo các lĩnh vực
của quyền lực nhà nớc mặc dù suy đến cùng quyền lực nhà nớc yếu tố quyết
định phạm vi, nội dung, phơng thức thực hiện chức năng Nhà nớc. Xuất phát từ
bản chất và vai trò của Nhà nớc, căn cứ vào các mặt hoạt động của Nhà nớc và
nhóm chúng theo các lĩnh vực của đời sống xã hội, cần chia chức năng nhà nớc
tơng ứng với các lĩnh vực của đời sống xã hội mà
ở đó, Nhà nớc thực hiện vai trò, sứ mệnh của mình vì lợi ích giai cấp mà
Nhà nớc đại diện, đồng thời vì sự phát triển và tiến bộ của toàn xã hội. Do đó,
các chức năng nhà nớc có thể đợc phân thành chức năng bảo vệ an ninh chính
trị, chức năng kinh tế và chức năng xã hội. Cách phân loại này thể hiện rõ mối
quan hệ giữa chức năng nhà nớc và bản chất nhà nớc, đồng thời đáp ứng đợc
yêu cầu phản ánh hoạt động của Nhà nớc trong việc thực thi quyền lực nhà nớc
đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là đối với Nhà nớc ta hiện nay.
Tuy nhiên, sự phân định này cũng chỉ mang ý nghĩa tơng đối bởi các lĩnh vực
của đời sống xã hội cũng chỉ đợc xác định một cách tơng đối mà thôi.
1.1.2. Khái niệm chức năng xã hội của Nhà nớc
Thực ra chức năng xã hội của Nhà nớc không phải là một khái niệm mới
và chỉ có chúng ta mới quan tâm nghiên cứu. Trong lịch sử, đã từng xuất hiện
những quan điểm về chức năng xã hội của nhiều nhà t tởng trong các thời kỳ
phát triển của xã hội.
Aristôt (384-322 tr.CN) quan niệm rằng, sứ mệnh của Nhà nớc là phải
đảm bảo cho mọi ngời sống hạnh phúc không chỉ về mặt của cải vật chất mà
còn cả về mặt đảm bảo công lý. Ông coi mức độ phúc lợi mà Nhà nớc đem lại
cho công dân trong xã hội là tiêu chuẩn để đánh giá Nhà nớc [13, tr. 235]. Theo
ông, "mục đích của Nhà nớc là cuộc sống phúc lợi... bản thân Nhà nớc là sự
giao thiệp của các gia tộc và dân c nhằm đạt đợc sự tồn tại một cách hoàn thiện
27
và tự lập" [91, tr. 462]. Tuy nhiên, hạn chế của ông là ở chỗ ông không coi nô lệ
là con ngời, là công dân mà chỉ coi họ là công cụ biết nói, vì thế Nhà nớc và
những phúc lợi của Nhà nớc chỉ là dành cho một bộ phận nhất định các thành
viên xã hội.
Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689-1775) cho rằng: "Nhà nớc phải có nghĩa vụ
bảo đảm cho mọi thành viên các phơng tiện sinh tồn, thức ăn, quần áo - những
thứ có lợi cho sức khỏe" [92, tr. 167].
Jăng Jắc Rútxô (1712-1788) khi bàn về dấu hiệu của một chính phủ
(Nhà nớc) tốt, đã nhận thấy trách nhiệm xã hội của Nhà nớc: "Mục đích cuối cùng
của một tập thể chính trị là gì? Chính là sự bảo toàn và phát triển của các thành
viên tập thể... Một chính phủ mà để cho dân ngày càng hao mòn, suy nhợc, số
dân ngày càng giảm sút; đó là chính phủ tồi tệ nhất" [69, tr. 125].
Theo Imanuen Cantơ (1724-1804), Nhà nớc là sự liên kết của mọi ngời
trong khuôn khổ luật pháp nhằm giám sát và đảm bảo bình đẳng cho mọi công
dân. Nhà nớc ra đời nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hòa sự phát
triển của xã hội theo hớng ngày càng hoàn thiện vì lợi ích con ngời. Vì vậy, sứ
mệnh của Nhà nớc nhằm mục đích phục vụ con ngời [90, tr. 407].
Tomat Giephecxơn (1743-1826) cho rằng, Nhà nớc là phải đảm bảo tự
do và hạnh phúc cho mọi con ngời; Chính phủ, chế độ và luật pháp phải tôn
trọng con ngời [51, tr. 114-115].
Marcel Mauss quan niệm rằng: Nhà nớc thực hiện chức năng xã hội nh
là thực hiện nghĩa vụ trả lại cho công dân những gì mà công dân đã cho xã hội
bằng chính công sức của mình. Nhà nớc thực hiện chức năng xã hội, theo quan
điểm của Mauss, nh là nghĩa vụ, trách nhiệm qua lại giữa Nhà nớc và cá nhân,
Nhà nớc và xã hội chứ không phải là sự ban ơn, từ thiện, cho không của Nhà n-
ớc, ngay cả trong mối quan hệ với tầng lớp nghèo khổ nhất, khó khăn nhất trong
xã hội. Nh vậy, quan điểm này có điểm tiến bộ, thấy đợc chức năng xã hội cũng
28
nh chức năng nhà nớc nói chung chứa đựng nhu cầu khách quan của xã hội
thông qua hoạt động chủ quan của Nhà nớc.
Học thuyết "Nhà nớc phúc lợi chung" của các học giả t sản sau chiến tranh
thế giới lần thứ hai cũng đặc biệt chú ý đến các chức năng xã hội của Nhà nớc.
Những ngời đề xớng và ủng hộ học thuyết này cho rằng: Nhà nớc t sản hiện đại
đang trở thành "Nhà nớc phúc lợi chung", thành tổ chức "trên giai cấp" có
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nhân dân và là công cụ để chuyển hóa dần chủ
nghĩa t bản độc quyền nhà nớc thành chủ nghĩa xã hội. Nhng cũng cần lu ý
rằng, dụng ý của họ là nhằm chống lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận bản chất giai
cấp của Nhà nớc.
Alvin Tôffeler cho rằng, trong thời đại văn minh, chức năng xã hội của
Nhà nớc là bảo vệ gìn giữ sự đa dạng, phong phú các lợi ích và nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội trên nền tảng công bằng xã hội đợc thiết lập...
Còn theo Kôzôlốp A.P, "Nhà nớc có chức năng xã hội. Nếu xuất phát từ
định nghĩa chức năng này là những phơng hớng (và các mặt) hoạt động cơ bản
của Nhà nớc, thì tất cả các hoạt động của Nhà nớc trong lĩnh vực xã hội (...) là
chức năng xã hội". Nhng ở đây, Kôzlốp không làm rõ sự khác nhau giữa chức
năng và hoạt động của Nhà nớc.
Theo "Những nguyên lý xây dựng Nhà nớc Xô-viết và pháp quyền":
Nhà nớc có chức năng mới, độc lập, đó là chức năng xã hội,
chức năng phục vụ các thành viên trong xã hội. Nội dung của chức
năng này là phục vụ nhân dân lao động và gia đình họ trong lĩnh vực
bảo trợ xã hội, y tế, văn hóa, giáo dục, sinh hoạt công cộng, điều d-
ỡng... [87, tr. 22].
Những nội dung cụ thể của chức năng nh cuốn sách trên đã liệt kê là
mới so với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Nhà nớc Xô-viết nhng bản thân chức
29