Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.86 KB, 120 trang )

119

Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị





Nguyễn Đức Bình






Giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh
hiện nay




Luận văn thạc sĩ Triết học












Hà Nội - 2006
120

Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị




Nguyễn Đức Bình




Giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh
hiện nay



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80


Luận văn Thạc sĩ Triết học


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Quang Thọ




Hà Nội - 2006


1

Mục lục
Mở đầu 3
Chương 1. Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách cho học sinh trung
học phổ thông trong điều kiện hiện nay 7
1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện
nay 7
1.2. Giáo dục nhân cách học sinh trung học phổ thông - vai trò, nội
dung, phương thức giáo dục nhân cách trong điều kiện hiện nay 33
Chương 2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc giáo dục nhân cách
cho học sinh trung học phổ thông Đông Anh hiện nay 46
2.1. Khái lược về tình hình kinh tế, văn hóa xã hội huyện Đông Anh. 46
2.2.Thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông ở
Đông Anh hiện nay 51
2.3. Những vấn đề đặt ra. 72
Chương 3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân
cách cho học sinh trung học phổ thông ở Đông Anh hiện nay 80
3.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và chính quyền các cấp đối với
việc giáo dục nhân cách 80
3.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi người về việc giáo dục

nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay 83
3.3. Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục nhân cách theo hướng
phát huy tính chủ động, tích cực và năng lực thực hành của học sinh . 88
3.4. Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
trong quản lý, giáo dục học sinh 92
3.5. Tạo môi trường tích cực đối với giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông 97
Kết luận 109
Danh mục tài liệu tham khảo 111
2

Bảng quy ước chữ viết tắt trong luận văn

BCHTƯ : Ban chấp hành Trung ương
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNH : Công nghiệp hoá
GDCD : Giáo dục công dân
HĐH : Hiện đại hoá
KHKT : Khoa học kỹ thuật
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TNCS : Thanh niên Cộng sản
UBND : Uỷ ban nhân dân
3

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi chúng ta tiến hành đổi mới, Đảng ta luôn coi “con người và
nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Do đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

IX, Đảng ta đã xác định “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lí tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn
trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn” là phẩm chất của thế hệ trẻ ngày nay. Trong thành tựu chung
của công cuộc đổi mới, chúng ta vui mừng thấy có sự đóng góp to lớn của
nền giáo dục nước nhà. Phần lớn thanh niên năng động phấn đấu vươn lên,
vượt qua thử thách, đua tranh, tự chịu trách nhiệm với bản thân, lao vào học
tập rèn luyện lập nghiệp. Tuy nhiên cũng từ khi chúng ta thực hiện nền kinh
tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN thì trật tự giá trị trong phần lớn nhân dân bị thay đổi, đặc biệt
là thế hệ trẻ, như Nghị quyết TƯ2 khoá VIII đã nhận định: Một bộ phận học
sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, có lối
sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, có lối sống thụ động
trông chờ. Qua thực tế cho thấy lối sống của học sinh hiện nay đang có xu
hướng coi nặng các giá trị vật chất, kinh tế, coi nhẹ các giá trị tinh thần xã
hội, con người sẵn sàng hy sinh chuyển sang con người hướng vào lợi ích cá
nhân.
Thực trạng trên, trách nhiệm một phần thuộc về ngành giáo dục - đào
tạo. Chúng ta phải thừa nhận rằng trong những năm qua nền giáo dục nước
ta có phần thiên về “dạy chữ”, ít chú ý đến “dạy người”, hoặc phương thức
“dạy người” chủ yếu nặng về lí thuyết truyền đạt, bắt học sinh phải theo một
“mẫu” có sẵn, mà chưa chú ý đến các phương thức giáo dục tích cực chủ
động nhằm tạo nên động cơ, mục đích bên trong từ đó phát huy quá trình
4

hình thành nhân cách một cách tự giác trong học sinh. Trong khi đó chúng
ta biết rằng 3 mục tiêu: Dân trí, nhân lực, nhân tài của giáo dục - đào tạo chỉ
có thể đạt được trên một cơ sở chung là nhân cách. Chính vì thế mà giáo dục
nhân cách cho học sinh, đặc biệt là học sinh THPT - đối tượng chuẩn bị trở
thành chủ thể của xã hội - là vấn đề mang tính cấp thiết hơn lúc nào hết.

Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, là địa phương mà quá
trình đô thị hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ. Những giá trị nhân cách, nhất là
học sinh THPT ở Đông Anh cũng ngày càng bị thay đổi theo sự biến đổi của
xã hội. Chính vì vậy nhằm định hướng cho nhân cách của các em như mong
muốn thì việc giáo dục nhân cách và định hướng những giải pháp giáo dục
cho học sinh THPT ở đây càng trở thành vấn đề cấp thiết. Xét tình hình thực
tế ở Đông Anh và với cương vị của một nhà giáo cho nên tôi đã chọn đề tài
“Giáo dục nhân cách cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Đông Anh hiện
nay” mong được góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển con
người và nguồn nhân lực địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhân cách là những phẩm chất xã hội của một con người cụ thể, nó
được hình thành và phát triển dưới tác động chủ yếu của các yếu tố xã hội.
Cho nên khi cuộc sống của con người bị thay đổi thì các thang giá trị của
nhân cách cũng thay đổi theo. Kể từ khi chúng ta bắt đầu xây dựng nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN thì nó cũng kéo theo những sự thay
đổi nhất định về nhân cách con người Việt Nam nói chung và nhân cách thế
hệ trẻ nói riêng. Chính vì vậy, trong những năm gần đây rất nhiều công trình
nghiên cứu về giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ.
Đề tài “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh lại nghiên cứu về
xây dựng nhân cách của sinh viên trong điều kiện hiện nay.
Đề tài “Kinh tế thị trường với sự hình thành và phát triển nhân cách
người thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Như Thơ
5

lại nghiên cứu về nhân cách người thầy giáo trong điều kiện kinh tế thị
trường.
Còn về vấn đề giáo dục nhân cách học sinh THPT trong điều kiện
hiện nay, nhất lại ở trên phạm vi của một địa phương có độ đô thị hoá và

công nghiệp hoá cao (như Đông Anh) thì chưa có một đề tài nào nghiên
cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
- Làm rõ những yêu cầu cơ bản đối với nhân cách học sinh THPT
hiện nay và vai trò của việc giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện
kinh tế thị trường.
- Trên cơ sở làm rõ thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh hiện
nay, từ đó luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm nhân cách và vai trò của việc giáo dục
nhân cách cho học sinh THPT trong điều kiện hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của việc giáo dục nhân cách
cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay.
- Nghiên cứu đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn này được nghiên cứu trên tình hình thực tế học sinh của các
trường Phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh - Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
6

- Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với phương pháp điều tra xã hội
học, thống kê và phân tích, đánh giá.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ những yêu cầu đối và vai trò của việc giáo dục

nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay.
- Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiện quả giáo dục
nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay.
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo, ứng dụng vào công tác giáo dục nhân cách cho học
sinh THPT ở huyện Đông Anh cũng như ở địa phương khác.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, được chia thành 3 chương, 10 tiết.

7

Chương 1
Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách
cho học sinh trung học phổ thông
trong điều kiện hiện nay
1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện
nay
1.1.1. Nhân cách và những yêu cầu đối với nhân cách học sinh
trong điều kiện hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người luôn là vấn đề
trung tâm và trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học. Cũng như mọi
công trình nghiên cứu, khi nghiên cứu con người cần phải có hệ thống các
khái niệm công cụ, trong đó khái niệm nhân cách được coi là khái niệm
trung tâm và cơ bản nhất.
Khái niệm nhân cách đầu tiên được hai nhà tâm lý học người Đức là
Dolthey và Spranger nêu ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo các
ông: Nhân cách là các mặt nạ có tính chất xã hội che “Cái tôi" bên trong khi

nào các mặt nạ đó trùng với "Cái tôi" bên trong thì nhân cách phát triển đến
độ chín muồi. Cho đến nay, khái niệm nhân cách đã được đề cấp đến ở rất
nhiều góc độ khác nhau.
Có quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật, hay nói
cách khác là sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản
năng tình dục (S.Freud), là đặc điểm của hình thể (Krestchmer), siêu đẳng,
bù trừ (A.Adler) vô thức tập thể (Kaal Jung), là các kiểu hoạt động thần kinh
cao cấp của người (một số nhà tâm lý học quá sùng bái học thuyết Pavlov).
Thực chất của các quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có
8

khác nhau nhưng đều sinh vật hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm
duy tâm siêu hình.
Có quan điểm cho rằng bản chất nhân cách là nhân tính con người
(trường phái nhân văn và đại diện là: C.Rogers, R.May, A.Maslow, G.
Allport, Ch.Buhlerova, J.Bugental, A.Sutich, C.Moustakas ). Những người
ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con
người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, những kinh nghiệm của con
người. A.Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người.
Những nhu cầu như giao tiếp, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản
năng, đặc trưng cho giống người. Nhân cách là động cơ tự động điều hành
(G. Allport), là nhu cầu (A.Muarray), là tương tác xã hội (G.H.Mead), là lo
lắng (K.Hornej). Những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh
vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội của nhân cách, do đó cũng rơi
vào chủ nghĩa duy tâm.
Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như là toàn bộ mối quan
hệ xã hội của cá nhân (Lucien Seve, Zeigarnite, Ogorodnikov). Trong thực
tế của đời sống, một số người lấy quan hệ xã hội của cá nhân (gia đình, nhà
trường, cơ quan công tác, nghề nghiệp, bạn bè) làm chuẩn để đánh giá nhân
cách. Về thực chất của quan điểm này là xã hội hoá nhân cách một cách đơn

giản.
Nhân cách cũng được hiểu đồng nghĩa với khái niệm con người. Như
K.K. Platonov cho rằng nhân cách là con người có ý thức, nhân cách là con
người có lý trí, có ngôn ngữ, lao động (Từ điển Giáo dục, Đại bách khoa
toàn thư Liên Xô). Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất
của con người mà không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách.
Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như cá nhân con người
với tư cách là chủ thể của mỗi quan hệ hoạt động có ý thức. (A.G.KAvalev,
I.X.Kon, từ điển tâm lý học Liên Xô). Hiện nay quan điểm này được đa số
9

các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân, là cá thể so
với tập thể và xã hội.
Nhân cách cũng được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản
chất nhân cách như các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc
thuộc tính xã hội. P.Bueva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ
những phẩm chất con xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và
những quy luật cá nhân (H.Hipso và M.Phor vec), là tổng số những đặc
điểm cá nhân con người mà không người nào có (E.P.Hollander).
Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý của cá nhân.
Trong hàng chục năm lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng hiểu
nhân cách là cấu trúc, hệ thống tâm lý (A.N.Leonchiev, K.Obuchowxki).
Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan hệ
sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó (A.N.
Leonchiev), với quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức. K.
Obuchokxki định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là sự tổ chức những
thuộc tính tâm lý của con người có tính chất lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó
cho phép và giải thích và dự đoán hành động cơ bản của con người”. Mặc
dù có những điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách (thành phần cấu trúc, sự
phối hợp, các thành phần đó, thứ bậc của thành phần, v.v ), nhưng nói

chung có nhược điểm là quy nhân cách về tâm lý học, là biểu hiện của chủ
nghĩa duy vật y học trong quan niệm nhân cách mà Lucien Seve đã phê
phán.
ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt nhân cách được hiểu là những
phẩm chất con người. Tuy nhiên, trên thực tế cách hiểu của người Việt Nam
về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực, hoặc là con người có phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
10

- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm
chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con
người (ít nói đến cá nhân). Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm
chất đòi hỏi ở mỗi người phải có.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề
nhân cách càng nổi lên với những công trình nghiên cứu đồ sộ. Có thể nói,
không một lĩnh vực khoa học nào có đủ khả năng và điều kiện để nghiên
cứu nhân cách một cách độc lập và biệt lập. Trong số hàng trăm định nghĩa
về nhân cách khó có thể tìm được một định nghĩa có tính phổ quát nói lên
được hoàn toàn đầy đủ các tố chất hợp thành khái niệm nhân cách. Mỗi
ngành khoa học: Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức học, Luật học, Văn hoá
học đều đã chọn một mặt, một phương diện nào đó của nhân cách và lấy
đó làm đối tượng phân tích khoa học của mình. Điều này lý giải tại sao lại
có nhiều định nghĩa nhân cách và vì sao có những sự khác nhau nhất định
giữa các quan niệm ấy.
Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng các quan điểm về nhân cách của các

nhà khoa học được chia làm hai khuynh hướng:
- Một là: Coi nhân cách là đặc trưng, chức năng, vai trò vị trí của con
người trong xã hội.
- Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [13,
tr.11].
Khi bàn về con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt
chú ý đến bản chất xã hội của con người, lý giải các mối quan hệ xã hội
tham gia vào sự hình thành bản chất ấycũng như vai trò của thực tiễn và
hoạt động thực tiễn đối với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân
11

cách. Mác đã đưa ra nhận xét bản chất của con ngườilà phẩm chất xã hội
của con người. Như vậy, con người là một thực thể sinh học xã hội mang
bản chất xã hội, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội,
phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người.
Nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữ yếu tố xã hội và cá nhân trong
mỗi con người. Sự thống nhất này tạo điều kiện cho quá trình hình thành và
phát triển nhân cách.
Triết học Mác-Lênin xem nhân cách là một chỉnh thể cá nhân có tính
lịch sử cụ thể. Nó tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể
của nhận thức và sự phát triển xã hội [4, tr.33]. Hay nói cách khác nhân
cách là con người cụ thể đã định hình và phát triển về mặt xã hội và trở
thành chủ thể của xã hội.
Như vậy nói đến nhân cách trước hết là nói đến nhân cách của một
con người hiện thực, gắn liền với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nó là kết quả của hoạt động người trong
quá trình họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự giáo dục của
bản thân. Quá trình này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển nhân cách mà còn là phương diện chủ yếu để tạo ra diện mạo
nhân cách của con người. ở đây các yếu tố sinh vật di truyền, tâm sinh lý, xã

hội hòa quyện vào nhau. Đối với sự phát triển nhân cách, yếu tố di truyền và
tâm sinh lý là cơ sở sinh vật, là điều kiện tự nhiên mà trên cơ sở đó hình
thành những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người.
Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân cụ thể có quan hệ
mật thiết với điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân mang
nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá của bản thân vừa có khả năng
đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác. Quá trình tự đánh giá
và được đánh giá đó là quá trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình
và cho người khác theo yêu cầu chung của nhân cách xã hội. Nói cách khác,
12

nhân cách là phẩm chất bên trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của
xã hội và của bản thân cá nhân để cá nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm
của mình với bản thân và với xã hội. Do đó nhân cách bị chi phối bởi nhân
cách xã hội, phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy
mình qua những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá
nhân.
Nghiên cứu khái niệm nhân cách nhằm xây dựng một nhân cách của
con người Việt Nam hài hoà thì không thể không nghiên cứu cấu trúc nhân
cách.
Cấu trúc nhân cách là sự xắp xếp các tính chất, thành phần, thuộc tính
của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong những
mối liên hệ và quan hệ nhất định. Hiện nay đang tồn tại những quan niệm
khác nhau về cấu trúc nhân cách. Học thuyết phân tâm của S. Freud cho
rằng con người được tạo ra bởi ba khối: Vô thức, tiền ý thức và ý thức.
Tương ứng với ba khối này cấu trúc nhân cách có ba phần: Nó (Freud gọi là
Id); Tôi (Freud gọi là Ego) và siêu tôi (Freud gọi là super Ego). Id là nơi
chức năng lượng tâm thần, khát vọng, bản năng, hoạt động theo nguyên tắc
khoái cảm, nghĩa là yêu cầu được thoả mãn ngay tức khắc những khát vọng
bản năng. Ego được hình thành do áp lực của thực tại bên ngoài tới toà bộ

khối bản năng, hoạt động theo nguyên tắc của nhu cầu thực tại, nghĩa là con
người phải dùng một năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm soát những
phi lí của Id. Super Ego được hình thành do kết quả của giáo dục và văn
hoá, hoạt động theo nguyên tắc phê phán và kiểm duyệt. Nhân cách sẽ phát
triển bình thường nếu ba khối này ở trạng thái cân bằng tương đối. Sự xung
đột, mâu thuẫn giữa ba khối này chính là cơ chế hoạt động tinh thần của con
người.
Phái "Lý luận hai thành phần trong sự phát triển tâm lý" cho rằng cấu
trúc nhân cách gồm hai cấu trúc nhỏ: nội tâm lý và ngoại tâm lý: Nội tâm lý
13

bao gồm các yếu tố sinh vật của nhân cách, còn ngoại tâm lý bao gồm tất cả
các nội dung xã hội của nhân cách.
Những quan niệm trên hoặc đã tuyệt đối hoá mặt bản năng sinh vật
của con người (Freud), hoặc đã phân chia một cách siêu hình hai thành phần
xã hội và sinh vật của con người (Phía hai thành phần).
Khắc phục những sai lầm đó, các nhà khoa học mác xít đã xác lập cấu
trúc nhân cách trên cơ sở cuộc sống thực và hoạt động thực của con người.
Nhà tâm lý học (Liên xô cũ) A. G. Côvaliốp cho rằng nhân cách gồm bốn
thuộc tính: xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực. Theo J. Stêpphannôvic
(Tiệp khắc) cấu trúc nhân cách gồm 5 thành phần: Đặc điểm tích cực - động
cơ của nhân cách thể hiện tính xu hướng của nhân cách; đặc điểm lập
trường - quan hệ của nhân cách thể hiện giá trị của nhân cách: đặc điểm
hành động của nhân cách thể hiện khả năng hoạt động của nhân cách; đặc
điểm tự điều chỉnh của nhân cách thể hiện khả năng tự điều chỉnh, kiểm tra,
đánh giá, phê bình của nhân cách; đặc điểm về động thái của nhân cách thể
hiện ở khí chất của nhân cách
ở Việt Nam, khi nói đến nhân cách người ta thường nói đến hai thành
phần cơ bản: Đức và Tài hay phẩm chất và năng lực. Phẩm chất là yếu tố
nền tảng có ý nghĩa định hướng, định vị cho mỗi người và là một trong

những điều kiện chủ quan để phát triển và sử dụng tốt năng lực. Còn năng
lực là yếu tố quan trọng, yếu tố hữu dụng đối với xã hội, thể hiện tính tích
cực của xã hội của mỗi cá nhân. Tuỳ sở trường mà năng lực được thể hiện ở
mặt này hay mặt khác. Đối với toàn xã hội mà nói, năng lực trí tuệ là quan
trọng nhất. Năng lực trí tuệ được thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ tư
duy, khả năng suy nghĩ và hành động hợp lý, khả năng thích nghi với những
biến đổi của hoàn cảnh. Nếu nhìn từ gốc độ kinh tế, năng lực trí tuệ được
coi là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi nói về nhân cách cũng đã nêu ra cấu trúc nhân cách người cán bộ gồm
14

hai khối: Đức và tài. Người luôn coi trọng yếu tố "đức", thường đặt "đức"
trước "tài", "hồng" trước " chuyên": "Phải có chính trị trước rồi mới có
chuyên môn, chính trị là đạo đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có
đức là hỏng" [26, tr.188] coi trọng đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm
gốc, song chưa bao giờ người xem nhẹ tài năng. Một người cách mạng chân
chính phải có cả đức lẫn tài, phẩm chất cách mạng và năng lực công tác, đó
là hai mặt không thể tách rời hoà quyện vào nhau trong nhân cách người cán
bộ. Biện chứng giữa đức và tài, phẩm chất và năng lực được thể hiện rất rõ
trong luận điểm sau của chủ tịch Hồ Chí Minh "Có tài mà không có đức ví
như anh làm kinh tế tài chính rất giỏi lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đưc mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng không cũng
không lợi gì cho loài người" [25, tr.74]. Trong những phân tích dưới đây
của luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm coi nhân cách bao gồm phẩm
chất và năng lực, quan niệm cấu trúc nhân cách như vậy gần gũi với những
quan niệm truyền thống của người Việt Nam và cũng phù hợp với định
nghĩa triết học về nhân cách mà chúng tôi sử dụng ở phần trên.
1.1.1.2. Những yêu cầu đối với nhân cách học sinh trung học phổ thông
Với quan niệm như vậy, qua nhiều năm làm công tác giáo dục tôi

nhận thấy học sinh trung học phổ thông hiện nay nói chung phải có nhưng
yêu cầu sau:
Thứ nhất: Có lí tưởng, có hoài bão và đạo đức trong sáng:
Lí tưởng là mục tiêu cuộc sống được phản ánh vào đầu óc con người
dưới hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi kéo mạnh mẽ toàn bộ
cuộc sống cá nhân, chỉ đạo sự tu dưỡng và hành động của cá nhân trong một
thời gian dài. Như vậy lí tưởng của thanh niên, học sinh có vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành nhân cách của họ. Nếu xác định lí tưởng đúng
đắn thì học sinh sẽ có sự tu dưỡng và hành động phù hợp với nhu cầu lợi ích
15

của xã hội và trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu lí tưởng
lệch lạc thì các em sẽ có cuộc sống buông thả, thiếu sự rèn luyện và hành
động vì lợi ích cá nhân dẫn đến ích kỷ, hẹp hòi. Tuy nhiên nói như vậy
không có nghĩa chúng ta phủ nhận lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân phải
được kết hợp hài hoà trong lợi ích tập thể. Thực tế cho thấy hiện nay bên
cạnh sự hi sinh, phấn đấu và cống hiện cho lợi ích cộng đồng thanh niên rất
quan tâm đến lợi ích của gia đình mình. Do đó lí tưởng của thanh niên học
sinh hiện nay có nội dung là kết hợp hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi
ích cá nhân.
Trong sự nghiệp đổi mới việc xây dựng niềm tin lí tưởng trong thanh
niên nói chung và trong học sinh nói riêng là rất quan trọng. Bởi vì niềm tin
có quan hệ trực tiếp với hành động hàng ngày của con người, nó hướng dẫn,
thôi thúc nhân cách trong hoạt động thực tiễn, củng cố được niềm tin lí
tưởng trong các em sẽ làm cho các em cống hiến hết sức mình vào sự
nghiệp đổi mới và nó thể hiện cụ thể bằng thái độ tích cực học tập và rèn
luyện của các em. Do đó lí tưởng là một yêu cầu không thể thiếu của nhân
cách học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, thanh niên học sinh đang đứng trước những nhiệm vụ to
lớn và đầy vinh quang là cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi

mới nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh
thổ. Do đó thanh niên học sinh phải có hoài bão và đạo đức cách mạng.
- Có hoài bão là tính cách điển hình của thanh niên học sinh. Trong
cảnh đất nước bị xâm lăng, các thế hệ thanh niên học sinh đã mang hoài bão
lớn “ Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu” sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân
để góp phần giải phóng đất nước. Thanh niên ngày nay lại ra sức “Rèn đức,
luyện tài - ngày mai lập nghiệp” họ đã biết gắn liền sự phấn đấu vì cuộc
sống tốt đẹp hơn của bản thân và gia đình với ý chí mãnh liệt: xây dựng đất
nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
16

Mặt khác, thế giới ngày nay đang chứng kiến những tiến bộ vĩ đại của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Vì vậy, để thực hiện được hoài bão trên
các em phải có trí tuệ, có chí nâng cao trí tuệ về mọi mặt thì các em mới có
khả năng đáp ứng yêu cầu của đất nước và của thời đại.
Một đòi hỏi nữa đối với nhân cách của học sinh trung học phổ thông
hiện nay là phải không ngừng rèn luyện đạo đức. Đạo đức phải được thể
hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày phải hiếu thảo đối với cha mẹ,
kính già yêu trẻ tôn trọng thầy cô, bạn bè ở xã hội nào cũng vậy, con
người phải có đạo đức đó là cái gốc của nhân cách con người. Khi đất nước
chuyển sang kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tốt, những mặt tích cực
cũng có những biểu hiện suy đồi đạo đức và những mặt tiêu cực. Do đó việc
rèn luyện đạo đức, bảo tồn những giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc, chống
những biểu hiện suy đồi trong lối sống, đạo đức là một đòi hỏi bức thiết đặc
biệt là đối với thanh niên học sinh.
Thứ hai: Có ý thức tự lập, chủ động, sáng tạo trong học tập và cuộc sống
Học sinh trung học phổ thông là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. ở
tuổi ấu thơ các em được sống trong sự đùm bọc, che chở của gia đình, sự
chăm sóc của xã hội. Khi trưởng thành bước vào cuộc sống các em dần
thoát li khỏi sự bao cấp của gia đình, phải tự khẳng định mình trong cuộc

sống ngày càng đa dạng và phức tạp. Do đó, hình thành và phát triển tính tự
lập cho các em là một đòi hỏi khách quan nhằm chuẩn bị cho các em tự tin
bước vào cuộc sống.
Sự tự lập trong cuộc sống là một đặc điểm mới trong nhân cách của
học sinh trung học phổ thông mặc dù, ngay từ khi còn nhỏ con người luôn
có xu hướng tự khẳng định mình trong mọi hoạt động. Nhưng khi bước chân
vào nhà trường trung học phổ thông các em có hoạt động mới, địa vị mới
trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh. Những hoàn
cảnh này buộc các em phải ý thực được đặc điểm nhân cách của mình. Các
em phấn đấu để khẳng định mình trong đời sống tập thể.
17

Quá trình hình thành tính tự lập trong các em là quá trình lâu dài và
phức tạp. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại như
thời niên thiếu mà các em còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội
trong tập thể, nó thể hiện rất rõ ở tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng ý thức
trong cộng đồng Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng phát huy tính tự
lập trong mọi hoạt động của các em nếu thiếu sự quản lý giáo dục của gia
đình, nhà trường thì hậu quả rất khó lường. Do đó việc giáo dục, định hướng
cho các em là rất quan trọng.
Thứ ba: Có tinh thần trách nhiệm, có ý thức vươn lên trong học tập
và trong cuộc sống.
Tinh thần trách nhiệm và ý chí vươn lên trong cuộc sống là một trong
những đặc điểm không thể thiếu của nhân cách con người thời kỳ công
nghiệp hoá - nói chung và của học sinh trung học phổ thông nói riêng.
Như chúng ta đã biết trong cuộc sống con người luôn vươn tới sự tự
do. Nhưng từng con người không thể đạt được điều đó nếu họ đứng riêng
biệt không trong xã hội. Tự do cá nhân không thể phù hợp nhân tính kỷ luật,
nghĩa vụ công dân, sự tôn trọng người khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin xem
quyền và trách nhiệm công dân trong sự thống nhất với nhau.

Trách nhiệm thường được hiểu là năng lực của con người, ý thức
được và thấy trước được những kết quả hoạt động của mình, xác định đến
lợi ích hoặc tác hại do hoạt động đó có thể đem lại cho xã hội [40, tr.52].
Như vậy trách nhiệm có thể tồn tại ngay khi cá nhân tiên đoán một cách
đúng đắn kết quả hoạt động của mình và có những khi kết quả đó trái với dự
tính. Trách nhiệm là quyền và nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và ngược
lại xã hội đối với cá nhân. Trách nhiệm đó bao gồm việc từng cá nhân ý
thức được hành động của mình đối với chính mình, đối với mọi người và
đối với xã hội.
18

Trách nhiệm khác với nghĩa vụ, nghĩa vụ của mỗi người biểu hiện ở
việc ý thức được và thể hiện các yêu cầu của xã hội, còn trách nhiệm biểu
hiện ở chỗ các yêu cầu đó được hoàn thành và không hoàn thành tới mức
nào. Trách nhiệm của mỗi người có nội dung khách quan và nội dung này
do tính tất yếu lịch sử quy định. Việc ý thức được tính tất yếu lịch sử cho
phép nhân cách quyết định, lựa chọn các hành vi của mình một cách có
trách nhiệm hơn.
Việc con người ý thức được tính tất yếu phải kết hợp hài hoà giữa lợi
ích và nhu cầu của mình với lợi ích và nhu cầu người khác, của toàn xã hội
cho phép họ biểu hiện ý thức trách nhiệm cao hơn đối với bản thân, đối với
người khác và đối với xã hội.
Khi chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường, con người được giải
phóng mọi năng lực cá nhân, lợi ích của con người được bảo đảm. Do đó
nếu thiếu tinh thần, trách nhiệm hoặc hiểu không đúng về tinh thần trách
nhiệm thì sẽ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, thậm chí đôi khi xung đột mâu thuẫn
vì lợi ích của tập thể hoặc toàn xã hội. Trong xã hội công nghiệp, nền sản
xuất với trình độ chuyên môn hoá cao thì càng đòi hỏi phải có ý thức trách
nhiệm cao, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
Thực tế thế hệ trẻ nói riêng và học sinh trung học phổ thông hiện nay

đang rất mơ hồ về trách nhiệm, thậm chí còn thiếu trách nhiệm trước những
yêu cầu của xã hội. Qua điều tra hơn 2000 học sinh ở trường Trung học phổ
thông Vân Nội về ý thức trách nhiệm của các em cho thấy đến 98% số học
sinh cho rằng học tập là vì bản thân, vì gia đình, 1,7% cho rằng học tập vì xã
hội, còn lại là vì nguyên nhân khác.
Khi được hỏi “Anh (chị) có quan tâm đến các chỉ tiêu đời sống xã hội
không ?” 70% trả lời: không, 30% trả lời: ít quan tâm.
Từ kết quả trên đây chứng tỏ học sinh trung học phổ thông rất ý thức
trách nhiệm đối với xã hội, một bộ phận không có trách nhiệm đối với bản
19

thân. Do đó giáo dục ý thức trách nhiệm cho các em là điều hết sức quan
trọng.
Trong cơ chế thị trường bên cạnh những yếu tố tích cực, còn có vô số
những tác động tiêu cực làm cho cuộc sống có rất nhiều rủi ro, nếu không có
lập trường vững vàng, một ý chí vươn lên thì còn người sẽ chịu nhiều thất
bại. Đối với các em học sinh trung học phổ thông, từ nhỏ các em đã được sự
chăm lo, che chở, bảo hộ của gia đình, hầu như các em chưa vấp phải những
khó khăn trong cuộc sống, do đó ý thức chán trường, không chịu khắc phục
khó khăn, thách thức thường được biểu hiện rất rõ khi các em gặp khó khăn.
Một hiện tượng đáng báo động hiện nay trong đời sống tâm lý của các em
đó là lối sống buông thả do gặp phải rủi ro trong cuộc sống. Như vậy cùng
với việc giáo dục tinh thần trách nhiệm thì giáo dục ý chí vươn lên của các
em là hết sức cần thiết.
Thứ tư: Có ý thức chấp hành pháp luật của Nhà nước, quy định của
cộng đồng, nội quy, quy chế của nhà trường.
Con người là một thực thể sinh vật, nhưng đồng thời con người cũng
là một thực thể xã hội. Do đó mỗi con người là một thành viên không thể
tách rời một gia cấp, một tập thể, một xã hội nhất định. Khi tồn tại trong một
tổ chức nhất định mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ phục tùng kỷ luật, kỷ cương

chung của tổ chức ấy, tức là cá nhân mỗi con người phải có nghĩa vụ chấp
hành.
Như chúng ta đã biết, trong cuộc sống, để tồn tại và phát triển mỗi
con người đều phải có những nhu cầu và lợi ích riêng và muốn được thoả
mãn những nhu cầu và lợi ích ấy. Muốn vậy con người phải lao động để tạo
ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình. Trong
lao động đòi hỏi phải có sự bình đẳng, sự đoàn kết và tính kỷ luật. Có như
vậy mới đạt hiệu quả cao trong lao động.
Tính chấp hành của nhân cách được biểu hiện ở thái độ phục tùng kỷ
luật của tổ chức, pháp luật của xã hội. Một tổ chức, một xã hội muốn có sức
20

mạnh thì phải có tính kỷ luật và đòi hỏi mọi thành viên của tổ chức, xã hội
ấy phải phục tùng. Có như vậy xã hội mới hoàn thành nhiệm vụ của mình
đem lại quyền lợi cho mỗi cá nhân.
Tính chấp hành của ý thức cần được thể hiện rõ ở ý thức biết đem nhu
cầu và lợi ích của mình phục tùng nhu cầu lợi ích của tập thể, của người
khác, của xã hội. Trong những trường hợp nhất định biết hy sinh nhu cầu và
lợi ích của mình cho nhu cầu lợi ích của toàn xã hội. Như vậy tính chấp
hành của nhân cách thể hiện ở tinh thần tập thể, tinh thần cộng đồng. Mỗi cá
nhân, trong cuộc sống của mình phải tham gia nhiều tập thể do đó ở địa
phương phải chấp hành những qui định ở địa phương, ở nhà trường phải biết
chấp hành nội qui của nhà trường và trong xã hội phải biết chấp hành pháp
luật của nhà nước.
Học sinh trung học phổ thông là nhóm nhân khẩu đặc thù tuổi từ 15-
16 và 17-18 có đặc điểm tâm lí sôi nổi nhưng bồng bột, các em dễ bị các
thói hư tật xấu lôi kéo, thích lối sống tự do, chán ghét sự chấp hành.
Thực tế qua điều tra cho thấy hầu hết các em cảm thấy khi chịu phải
chấp hành một qui định nào đó cho dù qui định đó là chính đáng. Có đến
95% số học sinh ở trường Vân Nội được hỏi trả lời khó chịu khi phải mặc

đồng phục, đi dép quai hậu; 76% trả lời khó chịu khi được sự quan tâm của
gia đình.
Ngày nay chúng ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền, do đó
tính chấp hành là một đặc điểm không thể thiếu trong nhân cách của con
người mới.
1.1.2. Các nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách học sinh Trung học phổ thông
Đối với học sinh trung học phổ thông cũng như các cá nhân khác
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mình cũng chịu ảnh
hưởng của hai yếu tố cơ bản đó là yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Yếu tố
sinh học được quy định chủ yếu từ cơ chế di truyền còn mặt xã hội của nhân
21

cách được quy định quá trình con người ra nhập vào môi trường xã hội.
Nhưng học sinh học sinh trung hoc phổ thông - nhóm nhân khẩu đặc thù thì
ngoài sự ảnh hưởng của hai yếu tố trên còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
sau:
- Một là: Nhân tố tâm lý lứa tuổi:
Đa số học sinh trung học phổ thông là ở lứa tuổi mới lớn ở lứa tuổi
này các em có tính năng động và độc lâp ở mức độ cao hơn so với thời thiếu
niên. Do đó ý thức của các em đối với mọi hoạt động đều phát triển. Các em
có sức khoẻ, có bộ máy thần kinh và hoạt động thần kinh hoàn thiện nên các
em có khả năng phản xạ chính xác, nhanh nhẹn, dễ thích nghi với hiện thực
xung quanh, có thái độ ham hiểu biết, có nhu cầu về tình bạn, tình yêu phát
triển. Nhưng đặc điểm này tác động mạnh tới sự hình thành tư tưởng chính
trị của các em và khi các em xác định được niềm tin, lý tưởng thì các em sẵn
sàng xả thân vì lý tưởng.
ở lứa tuổi trung học phổ thông tư duy của các em cũng có bước phát
triển mạnh mẽ hơn so với tuổi thiếu niên. Trong hoạt động học tập các em
không chỉ tiếp thu một cách thụ động mà các em có đòi hỏi nắm vững, hiểu

rõ kiến thức được học, ở các em bắt đầu có tư duy lý luận. Do đó khi tiếp
thu tri thức các em thường đòi hỏi phải chứng minh, luận giải chặt chẽ. Do
sự phát triển của tư duy mà khả năng hiểu biết của các em cũng phát triển
nên các em thường hay tranh luận, tìm tòi thêm những kiến thức ở các
nguồn thông tin để bổ sung cho kiến thức của mình. ở các em quan hệ tình
bạn chiếm vị trí lớn trong quan hệ xã hội nên các em thích giao lưu, thích
sinh hoạt tập thể. Vì vậy các em tự nguyện tham gia các chương trình cộng
đồng, qua đó các em rèn luyện được cho mình năng lực thực tiễn. Do ở lứa
tuổi năng động nên các em không có tính trì trệ, bảo thủ, dễ thích nghị với
những cái mới. Chính vì vậy trong quá trình giáo dục nhân cách nếu không
có tính định hướng thì hậu quả thật khó tưởng tượng nhất là trong cơ chế thị
trường hiện nay.
22

Vấn đề hiện nay mà học sinh trung học phổ thông quan tâm nhiều
nhất là vấn đề tương lai, các em luôn hướng đến tương lai. Cho nên các em
cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của dân tộc, đến chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều đó giúp các em định hướng
cho tương lai của mình. Chính vì vậy, việc giáo dục nhân cách cho các em
không chỗ dừng lại ở vấn đề giáo dục các chuẩn mực đạo đức chung chung
mà các việc định hướng tương lai cho các em, định hướng nghề nghiệp và
định hướng kiến thức. Đó là trách nhiệm của gia đình và nhà trường.
Đối với các em, kinh tế còn phụ thuộc gia đình cho nên các em coi
trọng gia đình, tích cực học tập. Các em phải ý thức được vai trò vị trí của
mình đối với gia đình. Do đó gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói
riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành nhân cách của các
em vì gia đình không chỉ là cái nôi nuôi dưỡng mà còn là cái nôi tinh thần
của các em.
Trong quan hệ xã hội với đặc trưng lứa tuổi các em có khả năng cảm
thụ xúc cảm, đồng cảm phát triển mạnh. Cho nên, hầu hết học sinh trung

học phổ thông có tình cảm cởi mở, dễ hoà nhập, các em thích những hoạt
động giao lưu văn hoá, hoà nhập mình vào các mối quan hệ xã hội cũng từ
đây các em ý thức được vị trí của mình đối với xã hội, các em có ý thức tự
điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước theo những chuẩn mực xã hội để khẳng định vị thế của mình
trong xã hội và tìm ra câu trả lời: Tôi là ai? tôi có vị trí như thế nào trong xã
hội? ý nghĩa cuộc đời tôi là gì? Đó là phẩm chất thế giới quan của nhân cách
học sinh.
Vì có hoàn bão lớn, có mơ ước và có lý tưởng chính trị, có ý chí vươn
lên nên học sinh trung học phổ thông đa số có xu hướng tích cực phấn đấu.
Tuy nhiên do đặc điểm tâm lý lứa tuổi nên cũng có những mặt tiêu cực tác
động đến sự hình thành nhân cách của các em.
23

- Do yếu tố giao tiếp quan hệ bạn bè giữ vai trò chủ đạo chi phối các
quan hệ khác trong đời sống xã hội của học sinh nên các em thích bàn luận
về những vấn đề tình bạn, tình yêu các vấn đề văn hoá nghệ thuật hơn là
những vấn đề chính trị, chính vì vậy ở các em chính trị ít được quan tâm cho
nên việc giáo dục những lý tưởng chính trị cần có những phương pháp phù
hợp không nên thuyết giảng cứng nhắc. Do tâm lý không thích bàn luận vấn
đề chính trị, kết hợp với sự chưa từng trải, chưa kinh qua thực tiễn lao động
và chiến đấu, sự thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống cho nên các em mơ hồ
về chính trị, ngại tham gia công tác đoàn thể. Chính vì vậy, nhiều khi các
thế lực phản động lợi dụng đặc điểm tâm lý này đến lôi kéo thế hệ trẻ vào
những mục đích của chúng. Để khắc phục hạn chế này đối với các em thì
công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng phải thường xuyên
liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, phải có sự tác động tích cực của nhiều phương
thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi để tạo ra nhu cầu và cũng là chiếm lĩnh
khoảng trống trong họ trên mặt trận chính trị tư tưởng.
- Do các em có nhu cầu muốn khẳng định mình trong xã hội nhưng lại

chưa đủ kinh nghiệm sống và không phải lúc nào mục tiêu các em đặt ra đều
được ý thực rõ ràng. Cho nên các em cảm thấy không được thoả mãn và
mục tiêu các em đặt ra dễ thay đổi. Trong cuộc sống các em thường quan
tâm đến bản thân và nhân cách của mình nhiều hơn, chính vì thế các em hay
đề cao mình quá mức. Do đó trong mọi hoạt động các em đều muốn thử sức,
muốn bộc lộ khả năng của mình và nhiều khi không phân biệt được hoạt
động nào là tốt là xấu. Những đặc điểm này làm các em dễ thay đổi trước
những bước ngoặt của cuộc đời, trước những vấn đề phức tạp của cuộc
sống. Không ít những trường hợp thanh niên học sinh bị bế tắc trong cuộc
sống đã có những hành động bột phát trái với đạo đức, trái với pháp luật.
Nhận xét về thanh niên trong bức thư gửi thanh niên đã Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Nói tóm lại: ưu điểm của thanh niên là hăng hái giàu kinh

×