Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tư Tưởng nhân sinh trong kinh Pàli của Phật giáo - Những vấn đề đặt ra cho việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.75 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***



NGUYỄN VĂN THƠM
(THÍCH HẠNH KÍNH)




TƢ TƢỞNG NHÂN SINH TRONG KINH PÀLI
CỦA PHẬT GIÁO - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CHO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC







HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





NGUYỄN VĂN THƠM
(THÍCH HẠNH KÍNH)




TƢ TƢỞNG NHÂN SINH TRONG KINH PÀLI
CỦA PHẬT GIÁO - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CHO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 602280

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Minh Đô




HÀ NỘI - 2014
NGUYỄN VĂN THƠM LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2014




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình quý thầy cô Trường Đại học
Quốc Gia Hà Nội và Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Trung tâm bồi
dưỡng giảng viên chính trị Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là
những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đế Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Minh Đô
đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Trung Ương giáo hội Phật giáo
Việt Nam cùng quý Hòa Thượng, Thượng Tọa và chư Tôn đức đã tạo rất
nhiều điều kiện về tài liệu để tôi hoàn thành tốt luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn

Hà Nội ngày 08 tháng 11 năm 2014
Học viên


Nguyễn Văn Thơm

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
1. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của PGS – TS Hoàng Minh Đô
2. Mọi tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng tên tác

giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố.
3. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo, hay gian trá, tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
Hà Nội ngày 08 tháng 11 năm 2014
Học viên


Nguyễn Văn Thơm
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CAND : Công an nhân dân
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTQG : Chính trị quốc gia
CTTG : Công tác tôn giáo
ĐHQGHN : Đại học quốc gia Hà Nội
GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam
KHXH : Khoa học xã hội
LLCT : Lý luận chính trị
NXB : Nhà xuất bản
NCPH : Nghiên cứu Phật học
NCTG : Nghiên cứu tôn giáo
PGS : Phó giáo sư
PGVN : Phật giáo Việt Nam
TG : Tôn giáo
TS : Tiến sỹ
VHPG : Văn hóa Phật giáo
VNCTG : Viện nghiên cứu tôn giáo
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Kết cấu luận văn. 9
Chƣơng 1 KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH BỘ KINH PÀLI VÀ TƢ
TƢỞNG NHÂN SINH CỦA PHẬT GIÁO 10
1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng của sự hình thành bộ
kinh Pàli 10
1.2. Khát quát tư tưởng nhân sinh trong kinh Pàli của Phật giáo 15
Chƣơng 2 VAI TRÒ NHÂN SINH CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY 57
2.1. Khái niệm về giáo dục và đạo đức 57
2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh phật giáo với vấn đề đạo đức của con người
ở Việt Nam hiện nay 61
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với
việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay 77
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93


1
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, được du nhập
vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Từ những ngày đầu của quá
trình du nhập vào Việt Nam, Đạo Phật đã hòa đồng một cách nhanh chóng với
phong tục tập quán, truyền thống và suy nghĩ của người bản địa, hòa nhập
một cách tự nhiên vào đời sống của người Việt. Vì thế Đạo Phật được xem là
một tôn giáo có truyền thống gắn bó với dân tộc ta từ lâu đời và ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống tinh thần nói chung và đạo đức của nhân dân Việt Nam nói
riêng. Đúng như xác quyết mà Phật giáo đã chỉ ra: “Đạo pháp - dân tộc - chủ
nghĩa xã hội”
Đạo Phật có một hệ thống giáo lý mang đậm tính nhân bản, nhiều học
thuyết của Phật giáo có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
của nền đạo đức dân tộc, đặc biệt là tư tưởng về nhân sinh của Phật giáo, là
một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách,
đạo đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ
rõ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã
hội Việt Nam, nó góp phần ngăn chặn sự xuống cấp trầm trọng của đạo đức
đã làm ảnh hưởng đến những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những
bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa diễn ra trên đất nước ta, thì sự biến đổi, ảnh hưởng về nhân sinh
quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra
khá rõ nét và có những biểu hiện mới.
Bên cạnh sự phát triển về mặt kinh tế không thể phủ nhận thì kinh tế
thị trường cũng biểu hiện những mặt trái của nó: đó là sự phân hóa giàu
2
nghèo, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo
cho sự thành công và lấy đó để đặt mối quan hệ trong giao tiếp cuộc
sống…Sự xuống cấp của đạo đức, lối sống đang ngày càng lan rộng không

chỉ ở quần chúng nhân dân mà còn len lỏi sâu trong bộ máy cầm quyền, thể
hiện sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên: tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp luật của một số người có
chức có quyền, làm ăn gian dối coi thường tính mạng, vi phạm đạo đức nói
chung, y đức nói riêng. Lối sống thực dụng, chạy theo vật chất ấy đang làm
băng hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm vào đó, là sự tác động của
toàn cầu hóa, quá trình mở cửa, hội nhập, giao lưu văn hóa đã tác động rất lớn
đến con người và xã hội Việt Nam, phá vỡ những chuẩn mực đạo đức xã hội,
làm cho xã hội đứng trước nguy cơ rối loạn. Những ảnh hưởng tiêu cực ấy
ngày càng phổ biến và đang dóng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với Việt Nam-
một dân tộc có truyền thống nhân văn. Đây cũng là vấn đề hết sức cấp thiết
mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đặt ra để tìm cách giải quyết. Để giải quyết
những tiêu cực trong xã hội như đã nêu trên, Đảng và nhà nước ta đã có
những giải pháp tích cực, một trong những giải pháp đó là giữ gìn và phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những học thuyết về nhân sinh của
Đạo Phật là một trong những chuẩn mực đạo đức để quy định và phát huy
cũng như giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật
giáo đối với tinh thần, đặc biệt là định hướng đạo đức của người Việt Nam sẽ
như thế nào? Cần đánh giá những ảnh hưởng đó trên cả những mặt tích cực và
tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và bằng cách
nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là vấn đề cấp thiết đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
3
Với những ý nghĩa và lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng
nhân sinh trong kinh Pàli của Phật giáo – Những vấn đề đặt ra cho việc
giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành triết học của mình nhằm góp một phần nhỏ bé trong hệ vấn đề
to lớn đó.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng nhân sinh của Phật giáo đối với
đời sống tinh thần nói chung và việc giáo dục đạo đức của con người Việt
Nam nói riêng là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt được
những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
Thứ nhất: Nghiên cứu về đạo Phật có các tác phẩm:
- Tác phẩm “Đạo Phật Việt Nam” của tác giả Thích Đức Nghiệp, Nxb
TP Hồ Chí Minh 1995. Trong công trình nghiên cứu này, Hòa thượng đã phân
tích rất kỹ đến đạo đức học Phật giáo. Tác giả khẳng định, đạo đức Phật giáo
có thể coi như một khoa học nhân bản mà trong đó “giới luật” và “bát chính
đạo” làm nền tảng trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức, nhân cách con
người, con người mà tốt thì xã hội mới có đạo đức. Theo tác giả, đạo đức học
Phật giáo nhằm mang lại giác ngộ và giải thoát, hạnh phúc và tự do cho một
xã hội nhân bản nói riêng và cho toàn thể nhân loại nói chung
- Tác phẩm “Các nguyên tắc đạo đức của Phật tử tại gia” của tác giả
Thích Nhật Từ, Nxb TP Hồ Chí Minh 1995 là công trình nghiên cứu gồm 18
chương, một trăm điều nói về văn hóa ứng xử trong các quan hệ của cuộc
sống dành cho các Phật tử tại gia và sự áp dụng các nguyên tắc đạo đức này
vào cuộc sống hàng ngày. Các điều này được tác giả trình bày giản dị, dễ
hiểu. Đối với các phật tử có niềm tin với Phật pháp, theo tác giả thì những
nguyên tắc ấy làm hành trang để con người tự hoàn thiện nhân cách cá nhân,
đem lại hạnh phúc cho gia đình và góp phần làm ổn định xã hội.
4
Thứ hai: đề cập đến những ứng dụng thiết thực của Phật giáo trong
đời sống
- Tác phẩm “Phật giáo với dân tộc” của tác giả Thích Thanh Từ Nxb TP
Hồ Chí Minh, ấn hành năm 1992. Tác giả đã khẳng định đạo Phật đã hòa
nhập với cuộc sống của con người Việt Nam. Tư tưởng Đạo Phật đã thấm
nhuần tinh thần dân tộc và sự liên hệ mật thiết này, người dân Việt Nam coi
đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Từ buổi đầu dựng nước đến cuối đời

Trần, các thiền sư Phật giáo đã có sự đóng góp quan trọng trong công cuộc
cứu quốc và xây dựng đời sống chính trị, văn hóa. Sự có mặt của Phật giáo
chẳng những giúp cho nhà vua có đường lối chính trị sang suốt mà còn
hướng dẫn dân tộc tiến cao trên con đường văn minh, đạo đức. Những vị
Thiền sư thời ấy chẳng những thâm đạt về đạo lý xuất thế mà còn thấu hiểu
các tổ chức xã hội, đem lại an lạc thực tế cho dân tộc
Không những khẳng định đạo đức Phật giáo phù hợp với phong tục, tập
quán, tín ngưỡng của người Việt, tác giả còn đề cập đến một số giáo lý như:
Luân hồi, vô ngã, giải thoát và khẳng định đạo Phật lấy giải thoát làm mục
đích. Theo đạo Phật, phải biết quý trọng tự do của con người, con người tự do
là con người được sống trong đất nước tự do, được sống trong quốc gia văn
minh, tiến bộ và con người không bị ràng buộc bởi những hận thù, tù tội…
- Trong Luận án Tiến sĩ Phật học, “Lý thuyết về Nhân tính qua kinh tạng
Pàli” của Tác giả Thích Chơn Thiện, Nxn TP HCM, ấn hành năm 1999. Tác
giả đã diễn giải và phân tích giáo lý Duyên Khởi của Đức Phật và trình bày
một cách có hệ thống những lời Đức Phật dạy qua kinh tạng Pàli là “Lý thuyết
về nhân tính” làm cơ sở xây dựng môi trường văn hóa, giáo dục mới. Trong
luận án này, tác giả không chỉ đề cấp đến lý thuyết nhân tính do Đức Phật dạy
mà còn chỉ rõ con đường giải phóng các vấn đề khủng hoảng cá nhân và
khủng hoảng xã hội trong xã hội hiện đại.
5
Thứ ba: Vai trò của Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức con
người Việt Nam
- Luận án Tiến sỹ Triết học của Đặng Thị Lan : “Đạo đức Phật giáo và
ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam” Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn năm 2004, là công trình nghiên cứu đã nêu được một
số nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật
giáo đến con người Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp để phát
huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo.
- Đây là bài viết rất chuyên sâu về mảng của đề tài này, trong đó có những

vẫn đề chính yếu sau đây: thứ nhất là bàn về một số khái niệm về đạo đức và
nhân sinh và mối quan hệ giữa đạo đức và nhân sinh; thứ hai là ảnh hưởng
của Phật giáo đối với quan niệm đạo đức nói chung gắn với tiết thuyết nhà
Phật; thứ ba là ảnh hưởng của Phật giáo đối với nhân cách người Việt.
- Luận văn Thạc sĩ Triết học của Thích Từ Ân: Quan niệm về nghiệp của
Phật giáo và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam
hiện nay (Trường Khoa học xã hội và nhân văn, 2010). Toàn bộ chương một
tác giả đã phân tích rất kỹ đến khái niệm Nghiệp của Phật giáo, trình bày
nguồn gốc, biểu hiện và những đặc điểm của Nghiệp. Chương hai của luận
văn, tác giả khảo sát quan điểm của rất nhiều học giả về khái niệm giáo dục,
khái niệm đạo đức. Theo tác giả nhận thức được giáo lý Nghiệp, con người sẽ
có nhiều đức tính tốt bởi biết rõ mọi sự xảy ra đều từ nhân mà thành quả,
không một quả nào ngẫu nhiên mà có hay do một thế lực thiêng liêng tạo ra,
tất cả đều do con người gieo nhân rồi gặt quả. Từ việc khẳng định vai trò quan
trọng của giáo lý Nghiệp nói riêng và giáo lý Phật giáo nói chung đối với việc
giáo dục đạo đức người Việt Nam hiện nay, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức theo tinh thần Phật giáo.
6
- Công trình nghiên cứu của nhiều tác giả: Đạo đức học Phật giáo, (Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, TP Hồ Chí Minh, năm 1995) tập
hợp những bài viết của nhiều tác giả tại Hội thảo khoa học do Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam tổ chức. Tất cả các bài viết đều nêu bật được những
nội dung cơ bản và tính ưu việt của Đạo đức học Phật giáo. Vì vậy, theo các
tác giả, bảo tồn và phát huy những giá trị Đạo đức Phật giáo là góp phần vào
việc để bảo tồn truyền thống văn hóa của dân tộc. Đặc biệt, trong bài viết
Những giá trị của đạo đức Phật giáo trong xã hội truyền thống của tác giả Đỗ
Văn Nhung đã khẳng định giá trị nhân sinh của Phật giáo, cụ thể trên phương
diện giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách cho con người không chỉ đối với
xã hội truyền thống mà tác giả còn khẳng định nhân sinh Phật giáo còn có ý
nghĩa và vai trò quan trọng góp phần vào việc điều chỉnh sự cân bằng xã hội

hiện đại, giữ cho xã hội không bị lệch lạc trên con đường phát triển.
- Chuyên đề “Ảnh hưởng của Phật giáo trong đạo đức và nhân cách
của con người Việt Nam hiện nay” của PGS, TS, Hoàng Minh Đô, Tạp chí
KHXH miền trung, số ISN 1859 -2635, số 3năm 2009. Đây là bài viết rất
chuyên sâu về mảng của đề tài này, trong đó có những vẫn đề chính yếu sau đây:
+ Bàn về một số khái niệm về đạo đức và nhân sinh và mối quan hệ giữa
đạo đức và nhân sinh;
+ Ảnh hưởng của Phật giáo đối với quan niệm đạo đức nói chung gắn với
tiết thuyết nhà Phật;
+ Ảnh hưởng của Phật giáo đối với nhân cách người Việt.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình như: Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư
tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội, 1986; Lịch sử Phật giáo Việt
Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà Nội, 1991;
Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Khoa
học xã hội, 1993; Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb
7
Văn hóa Thông tin, 1996; Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà
Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy, Nxb Văn hóa thông tin 1997;
ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1997; Tư
tưởng triết của học Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung,
Nxb Chính trị quốc gia, 1998; ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo
trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến
sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Đạo Phật với
con người Việt Nam do Hoàng Yến, Trường Tâm biên dich, Nxb Phương
Đông;Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1999; Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy,
Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn

Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 v.v
Có thể nhận xét một cách khái quát, những công trình nghiên cứu trên
đều thống nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời
sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính
nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hóa truyền thống đã tạo nên sự
phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Những công trình
nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác
nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực,
tiêu cực của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học này trong đời sống xã hội
Việt Nam lâu nay, là việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm sáng
tỏ ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng
8
đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam dưới tác động mạnh mẽ
của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì hãy còn chưa nhiều. Vì vậy,
luận văn có nhiệm vụ là: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên
cứu của những công trình đi trước để khảo sát đánh giá sự ảnh hưởng nhân
sinh quan Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận mác-xít luận, luận văn làm sáng tỏ về tư tưởng nhân
sinh của đạo Phật trong kinh Pàli, đồng thời nêu lên mối quan hệ về lĩnh vực
nhân sinh của đạo Phật với đời sống nhân loại, cũng như những đóng góp của
nó về lĩnh vực giáo dục đạo đức của người việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày khái quát quá trình hình thành, phát triển của bộ kinh Pali
và tư tưởng nh©n sinh mà bộ kinh Pàli đề cập.

- Trình bày một số khái niệm cơ bản về giáo dục và đạo đức làm cơ sở
lý luận để khẳng định vai trò giáo dục đạo đức của tư tưởng nhân sinh của
Phật giáo.
- Phân tích và làm rõ ảnh hưởng tư tưởng nhân sinh của Phật giáo trong
việc giáo dục đạo đức truyền thống con người Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nhân sinh đối với việc giáo dục
đạo đức hiện nay ở nước ta.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng các nguyên lý, quan điểm của triết học mác-xít
như: quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và đạo đức tôn giáo; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
9
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết
học Mác-Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khác:
phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp logíc,
lịch sử … Ngoài ra , tác giả còn sử dụng các phương pháp chung của khoa
học xã hội như phân tích, so sánh, hệ thống, khái quát, đồng thời kết hợp với
các phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học, văn hóa học, sử học…trên cơ
sở tiếp thu những thành tựu có liên quan của các tác giả khác.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về tư tưởng nhân sinh của đạo Phật
thông qua bộ kinh Pàli, ảnh hưởng của nó đối với việc giáo dục đạo đức của
con người Việt Nam hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của đạo Phật với những học
thuyết triết học mang lại cho việc giáo dục và đào tạo con người, góp phần

quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời tạo ra cái nhìn
khách quan hơn về đạo Phật.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên nghiên cứu về tư
tưởng nhân sinh cũng như các phạm trù triết học của đạo Phật và một số
ngành liên quan.
7. Kết cấu luận văn.
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung chính, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phần phụ lục. Trong phần nội dung chính của luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.

10
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH BỘ KINH PÀLI
VÀ TƢ TƢỞNG NHÂN SINH CỦA PHẬT GIÁO

Phật giáo là tôn giáo có hệ thống giáo lý đồ sộ, thiên kinh vạn quyển và
thâm sâu huyền diệu. Hệ thống giáo lý ấy đề cập đến nhiều tư tưởng, từ vấn
đề thế giới quan đến vấn đề nhân sinh quan. Nếu như các trường phái triết học
Hy Lạp cổ đại như Milê, Êlê chủ yếu bàn về những vấn đề thế giới quan, bản
thể luận như đi tìm bản nguyên của thế giới, bản chất của thế giới, trạng thái
của thế giới Còn những vấn đề về con người ít được đề cập thì trái lại, ở
Phật giáo, bên cạnh những tư tưởng, quan niệm về thế giới, vấn đề nhân sinh
quan không chỉ được đặt ra ngay từ đầu mà còn là nội dung tư tưởng chủ yếu
bao trùm lên toàn bộ hệ thống. Đặc điểm này của đạo Phật bị chi phối bởi
chính hoàn cảnh lịch sử của đất nước Ấn Độ cổ đại - nơi đã sản sinh ra đạo Phật.
1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa - tƣ tƣởng của sự hình
thành bộ kinh Pàli
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã hội Ấn Độ là nơi phát sinh một trong các nền văn hóa lâu đời nhất
của nhân loại. Theo tài liệu khảo cổ học, ở Ấn Độ, thời đại “đồ đồng” hình

thành vào khoảng 3000 năm trước Công nguyên. Dân tộc định cư ở đây bao
gồm: Mundian, Sumerian….đặc biệt là Dravidian và đã hình thành một nền
văn hóa “nông nghiệp” mà ta gọi là văn minh Ấn- Hà trải dài từ phía Đông
đến thung lũng sông Hằng và Đông Nam vượt qua Gujarat. Bấy giờ đã hình
thành hai thành phố lớn, hai trung tâm chính, một ở Punjab và một ở Sindh.
Về tôn giáo, dân tộc Ấn- Hà thờ Thượng đế, Warder viết: “Về tôn giáo, dân
chúng Ấn- Hà thờ đấng Thương đế, một vài đức tính của Ngài nói lên rằng
Ngài là gốc của thần Siva (vị thần phổ biến trong các dân tộc Tamil): một
11
mặt ngài là biểu tượng của sáng tạo và phồn vinh, một mặt ngài xuất hiện
trong vai một tu sĩ khổ hạnh hay một yogin phát huy các quyền lực siêu
nhiên”[85,18]
Vào khoảng thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XIII (trước Công nguyên),
nền văn minh Ấn- Hà đi vào suy sụp khi người Ariyan xâm chiếm xứ Ấn. Tại
đây, dân Dravidian kiên cường chống lại nhưng bị thất bại. Người Ariyan lại
chịu sự ảnh hưởng của người Dravidian: họ theo lối sống định cư của người
Dravidian, định cư trong các làng mạc, thị trấn, thành phố. Mặt khác, người
Dravidian chịu ảnh hưởng tư tưởng của người Ariyan di trú. Hai nền văn
minh ấy đã kết hợp lại tạo ra một nền văn minh mới vào thời đại “đồ sắt”,
khoảng từ thế kỷ thứ X đến thứ VIII (trước công nguyên). Theo chứng cứ
nhân chủng học, người Ariyan nói ngôn ngữ hình thức sớm nhất của Sanskrit
gọi là “Vedic” (Vêda). Kinh Vêda do người Ariyan sáng tác vào khoảng 3 thế
kỷ sau khi đánh bại người Dravidian xâm chiếm xứ Ấn. Từ bấy giờ kinh
Vêda, đặc biệt là của hig- Vêda chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tập tục của người
Ariyan- di trú và dừng lại nghỉ ngơi sau khi qua nhiều vùng đồi núi, sa mạc cô
liêu hay các vùng cao nguyên bát ngát, dưới những bầu trời nắng cháy, những
cơn mưa nặng hạt, những cơn bão tuyết hay dưới những bó đuốc chập trùng
giữa đêm khuya. Đấy là những tư tưởng của vũ trụ vô biên đầy quyền lực gắn
với con người. Các tư tưởng này ngày càng thực tiễn khi chúng nói đến các vị
thần đất, thần cây, thần bò của người Dravidian.

Đặc biệt từ thế kỷ VI (trước Công nguyên) đến thế kỷ I (sau Công
nguyên), chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính chất gia trưởng kiểu phương
Đông khá phát triển ở Ấn Độ. Do việc mở mang các công trình thuỷ lợi, sản
xuất nông nghiệp phát triển. Thủ công nghiệp tách hẳn khỏi nông nghiệp.
Nhiều thành phố trở thành trung tâm thủ công nghiệp và thương nghiệp quan
trọng thời kỳ này như Benares, Sravasti Nhiều con đường thương mại thuỷ
12
bộ đã hình thành. Ấn Độ đã giao dịch buôn bán khá rộng rãi với các nước
trong vùng như Trung Quốc, Ả Rập, Trung Á Nhưng xã hội Ấn Độ vẫn bị
bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn cùng với chế
độ phân biệt màu da, chủng tính khắc nghiệt.
Xã hội Ấn Độ lúc này được chia thành bốn đẳng cấp cách biệt: 1. Tăng
lữ thuộc đẳng cấp Bàlamôn; 2. Vua chúa thuộc đẳng cấp Kshatiya; 3. Nông
dân, thợ thủ công và thương nhân thuộc đẳng cấp Vaishya; 4. Nô lệ thuộc
đẳng cấp Shudra. Bàlamôn và vua chúa là giai cấp thống trị; nông dân, thợ thủ
công, thương nhân và nô lệ thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp này theo chế độ
thế tập, cha truyền con nối tạo thành một tổ chức xã hội bất công.
1.1.2. Bối cảnh văn hóa - tư tưởng
Ấn Độ cổ đại là một đất nước có một nền triết học phong phú hết sức bề
thế xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XV trước công nguyên đã xuất hiện
bộ kinh điển Rg Vêđa. Đó là những bài ca tán có tính chất thần thoại nhưng
đã bao hàm nhiều tư tưởng về vũ trụ và nhân sinh quan. Tiếp theo trong
khoảng 1000-800 năm trước công nguyên là thời đại Brahman. Đến thời kỳ
800-600 năm trước công nguyên là triết học Upanishad. Upanishad là một
trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Vêđa. Xu hướng chính của
Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm tôn giáo, vốn có trong
kinh Vêđa về cái gọi là "tinh thần sáng tạo tối cao" sáng tạo ra thế giới này.
Upanishad cho rằng thế giới vô ngã Brahman hay "tinh thần vũ trụ tối cao" là
thực thể duy nhất, tồn tại vĩnh viễn, là cái từ đó nảy sinh ra và chi phối mọi
cái tồn tại. Atman (tiểu ngã) chỉ là một phần hiện thân của Brahman (đại ngã);

linh hồn sống của con người chỉ là sự biểu hiện của "tinh thần tối cao" trong
cơ thể con người. Vì vậy, linh hồn cá biệt về bản chất là đồng nhất với "linh
hồn tối cao" cũng tồn tại vĩnh viễn, tuyệt đối, bất diệt. Trong Upanishad cũng
đặt vấn đề là chính do những ham muốn, dục vọng và những hành động của
13
con người nhằm thoả mãn những ham muốn trong đời sống trần gian đã gây
những hậu quả, gieo đau khổ cho kiếp này và cả những khiếp sau gọi là
nghiệp báo Karma. Do vậy linh hồn bất tử bị sự luân hồi nên không nhận ra
và trở về đồng nhất với chân bản của nó được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử
khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của thế giới hiện tượng cảm tính như
ảo ảnh thường biến, đạt tới sự đồng nhất với "tinh thần vũ trụ tối cao", con
người phải tu luyện hành động karma- yoga và tu luyện tri thức jana- yoga,
nhận ra chân bản của mình.
Triết lý duy tâm tôn giáo của Upanishad giải thích căn nguyên của thế
giới bằng nguyên lý " tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối, bất diệt là cơ sở cho
những học thuyết triết học duy tâm sau này và đã đóng vai trò là cơ sở lý luận
cho đạo Bàlamôn ở Ấn Độ cổ đại. Kinh Upanishad đã đề cập đến những vấn
đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ (Brahman)
và linh hồn cá thể (Atman), Thuyết luân hồi, nghiệp, nhân quả v.v
Sau thời kỳ Vêda, các vấn đề triết học dần dần xuất hiện và ngày càng
trở nên rõ ràng và khoa học hơn. Sự kiện này nói lên rằng khái niệm về tự ngã
của các hiện hữu ngày càng được nhấn mạnh. Từ vấn đề triết lý đặt ra từ thời
kỳ đầu Vêda rằng: bằng cách nào ta hợp nhất thiên nhiên với thượng đế? Đến
vấn đề triết lý do các đạo sư Bàlamôn về sau đặt ra: ta là ai? Các câu trả lời
cho câu hỏi “ta là ai?” biến đổi dần: từ con người vật lý đến con người sinh lý,
rồi đến con người tâm lý, siêu hình, và sau hết là con người tâm linh Nhưng
về sau, đạo Balamôn quay sang miên man suy ngĩ về “cái tôi” (ngôi thứ nhất),
về cái tự ngã của sự vật như là thực thể .
Tóm lại, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy
tâm trong thánh kinh Vêđa, kinh Upanishad và đạo Bàlamôn đã trở thành hệ

tư tưởng thống trị đời sống tinh thần của Ấn Độ cổ. Uy thế của nó mạnh mẽ
tới mức, tư tưởng triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng chính thống
14
của ấn Độ cổ và tất cả những môn phái triết học vô thần, duy vật, chống lại uy
thế của kinh Vêđa và triết lý tôn giáo Bàlamôn đều bị coi là những tư tưởng
triết học không chính thống. Sự thống trị khắc nghiệt về xã hội, chính trị, tư
tưởng trên đã làm nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc trong đời sống xã hội và
tất yếu dẫn đến sự phản kháng của quần chúng lao động đòi hỏi một sự tự do,
công bằng, bình đẳng xã hội. Đây chính là những nhu cầu của hiện thực lịch
sử làm xuất hiện các trường phái tư tưởng mới ở Ấn Độ trong thời kỳ này.
Đạo Phật xuất hiện chính trong bối cảnh lịch sử trên với tư cách là một hệ tư
tưởng phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, phủ nhận uy thế của kinh
Vêđa, chống giáo lý duy tâm hoang đường của Bàlamôn giáo, bác bỏ uy
quyền thần thánh và phương pháp tu hành khổ hạnh, xây dựng niềm tin vào
chính con người. Nó là sự khẳng định một đạo lý, một đường hướng cứu khổ
mới cho con người.
Theo các sử liệu ghi lại, người sáng lập ra Phật giáo là Thích-ca-mâu-ni,
có tên thật là Siddhartha (Tất-đạt-đa), họ là Gautama (Gô-ta-ma), thái tử con
vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ Sakya, có kinh đô là thành Kapilavastu
(Catylavê) ở phía Bắc Ấn Độ. Phật Thích Ca sinh năm 563 (trước Công
Nguyên), (nhưng theo tài liệu của Hội nghị Phật giáo Thế giới họp tại Tokyo
năm 1952 lại cho rằng ông sinh năm 624 trước Tây lịch). Năm 29 tuổi ông đã
quyết định từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tu. Sau mười một năm tu luyện
ông đã ngộ đạo và tìm ra con đường giải thoát con người khỏi những nỗi khổ
đè nặng trong đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại. Sau khi tìm ra con đường giải
thoát, ông truyền bá những tư tưởng của mình cho chúng sinh ở Ấn Độ (phụ
lục 2) và tìm các đệ tử lập ra các đoàn thể Phật giáo. Ông mất năm 80 tuổi
(năm 544 trước Công nguyên).
Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn, thể hiện trong một khối lượng kinh điển rất lớn. Pãncanikàya là từ

15
ngữ chỉ kinh tạng Pàli thuộc Tam tạng của Thượng tọa bộ (Theravada), thuộc
hệ văn học Pàli từ thời đức Phật đến thời đại Đại đế A- Dục. Theo Pàli hệ,
"Tam tạng " (Tripitaka) gồm ba bộ phận: Luật tạng, Kinh tạng, Luận tạng.
1. Tạng Kinh (Sutrapitaka) ghi những lời dạy của đức Phật Thích Ca
trong 40 năm giáo hóa. Kinh tạng gồm năm bộ kinh còn gọi là Ngũ bộ
Nikàya: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ và Tiểu bộ.
2. Tạng Luật (Vinaya pitaka, gồm các giới luật của đạo Phật,chứa đựng
các luật lệ và giới luật của Tăng già Phật giáo như là các điều lệ thu nhận
vào đoàn thể Tăng già, về việc phát lồ các tội, về an cư kiết hạ, về chỗ ở, y cà
sa, thuốc men và các sinh hoạt của Tăng già.
3. Tạng Luận (Adhidharma pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận
giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả, về sau này là phần diễn
giải bổ sung vào Kinh tạng, có các bộ Dhammasangani, Vibhanga,
Kàtthàvatthu, Puggalapannatti, Dhàtukathà, Yamaka, Patthàna. Các bộ này do
chư vị đệ tử của đức Phật vào thời kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ ba, dưới triều
đại đế A – Dục, sáng tác vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch kỷ nguyên.
Như vậy, Ấn Độ là nơi sinh ra Phật giáo và Phật giáo là sản phẩm trực
tiếp của xã hội Ấn Độ cổ đại với những mâu thuẫn đẳng cấp gay gắt. Cho nên
ngay từ đầu, Phật giáo là tôn giáo của đại đa số những người đẳng cấp thấp ở
Ấn Độ, những người cần được an ủi về mặt tâm linh trước sự phân biệt đẳng
cấp khắc nghiệt. Chính vì vậy, tư tưởng chính trong kinh Pàli của Phật giáo đã
quan tâm đến vấn đề nhân sinh: quan niệm về con người và cuộc đời con
người, vấn đề sướng, khổ, vấn đề giải thoát
1 .2. Khát quát tƣ tƣởng nhân sinh trong kinh Pàli của Phật giáo
1.2.1. Quan niệm về con người
Đạo Phật ra đời khi mà xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có một nền văn
minh phát triển rực rỡ, với một di sản tư tưởng và tôn giáo rất bề thế. Vì vậy,
16
để cho triết thuyết của mình có thể đứng vững trước thuyết tạo thần của đạo

Bàlamôn, Đức Phật đã xây dựng thuyết nhân duyên sinh làm nền tảng cho
học thuyết của mình
Kinh Phật nói rằng: "Nhất thiết pháp, nhân duyên sinh".
Với thuyết nhân duyên sinh, Phật muốn nói lên một định lý: mọi sự vật,
vạn pháp trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành; sự vật, vạn
pháp sẽ biến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là nguyên nhân, là năng lực tiềm ẩn của mọi sự hình thành, biến
đổi. Không có gì là không có nguyên nhân. Duyên là những quan hệ, những
điều kiện, những ảnh hưởng chung quanh giúp cho nhân phát khởi hiện hành.
Tất cả các hiện tượng đều nương nhau mà thành lập - Nói nương nhau có
nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng, đối đãi lẫn nhau mà
thành. Tất cả mọi hiện tượng đều có quan hệ mật thiết với nhau, không một
hiện tượng nào được thành lập, ngoài sự nương vào nhau, ngoài sự liên hệ
trực tiếp với nhau. Đó là nhân duyên.
Nói về thuyết nhân duyên, trong kinh "Phật Tự Thuyết" (thuộc kinh Tiểu
bộ, tập 1) đã có câu:
“Nhược thử hữu, tắc bỉ hữu,
Nhược thử sinh, tắc bỉ sinh,
Nhược thử vô, tắc bỉ vô,
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt”.[16, 129]
Nghĩa là:
“Cái này có thì cái kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này không thì cái kia không,
Cái này diệt thì cái kia diệt” [9, 95]
17
Tất cả các pháp đều sinh diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với
nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập và trường tồn, nhất thành bất biến.
Trong Kinh "Thủ Lăng Nghiêm "có đoạn viết:
Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh

Nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt.
Cho nên sinh cũng chẳng thực sinh, mà diệt cũng chẳng thực diệt.
Khi nhân duyên hội họp thì nói là sinh, khi nhân duyên tan rã thì nói là diệt.
Trong kinh "Đại Bát Niết Bàn" có viết:
“Nhất thiết chư pháp, bản vô hữu tính, nhân duyên cố sinh, nhân duyên cố diệt".
Nghĩa là:
Hết thảy mọi pháp,
Đều không có tự tính,
Vì nhân duyên mà sinh,
Vì nhân duyên mà diệt.
Ở một chương khác Phật lại nói:
“Tòng duyên sinh cố,
Danh chi vi hữu,
Vô tự tính cố,
Danh chi vi vô” [9, 96]
Có nghĩa là:
Tùy theo duyên mà hiện ra hình như có sinh, cho nên gọi là "có"; bởi
không có tự tính, cho nên gọi là "không". Sự vật chỉ "có" một cách giả tạo,
một cách vô thường, nhân duyên, mọi yếu tố hợp lại đầy đủ thì sự vật là "có",
nhân duyên tan rã, các yếu tố khộng hợp lại được thì sự vật là "không".
Thế giới vũ trụ, vạn pháp, con người đều cấu thành bởi vô số nhân và
trùng trùng duyên khởi. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hòa
hợp chúng hiện hữu một cách giả hợp. Bởi thế tìm kiếm đến cùng không thấy
18
vạn pháp có "thủy" (nơi bắt dầu ) và xét đến muôn đời, muôn kiếp về sau
cũng không thấy vạn pháp có "chung" (nơi kết thúc).
Thuyết nhân duyên sinh cho chúng ta thấy chỉ có nhân và có duyên chứ
không thực có sự vật. Tất cả những pháp có mặt trên cuộc đời, thế gian này từ
thế giới của sự vật, hiện tượng cho đến thế giới bí ẩn của ý niệm sâu xa đều
do các nhân, các duyên tương tác lẫn nhau mà hình thành: do cái này có mà

cái kia mới có. Từ đó, Phật giáo cho rằng, sự vật không phải tự nhiên mà có,
cũng chẳng phải do một đấng thiêng liêng nào tạo ra mà mọi sự vật sinh ra là
đều có nguyên nhân của nó. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra
được sự vật mà phải có đủ duyên mới tạo ra quả được. Quả sinh ra lại có thể
nếu gặp đủ duyên, biến thành nhân, để rồi sinh ra quả khác và lại thế nối tiếp
nhau sinh sinh hóa hóa. Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân đã
sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu đủ duyên tốt. Trái lại, quả có thể kém
nhân nếu gặp duyên xấu. Sự vật là một chuỗi nhân quả, ảnh hưởng lẫn nhau
không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng. Sự duyên khởi dây chuyền
của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật thì gọi
là pháp giới trùng trùng duyên khởi. Đó là thuyết nhân quả.
Giáo lý nhân duyên sinh của Phật giáo đưa đến hai hệ quả trực tiếp:
thuyết vô thường và thuyết vô ngã, chi phối nhân sinh quan Phật giáo.
Thuyết vô thường (Amicca) là một trong những thuyết cơ bản trong
giáo lý Phật, là một cơ sở lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của
những con người tu dưỡng theo giáo lý Phật.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Theo thuyết
vô thường chỉ ra các pháp (sự vật, hiện tượng, con người) luôn biến dịch,
không có gì là thường trụ, bất biến. Sự chuyển biến ra trong từng sátna
(Kshana) - sự chuyến biến rất nhanh trong thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả
một cái nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã
19
vụt chấm dứt. Sự chuyển biến này diễn ra nhanh chóng, ngấm ngầm thường ta
không nhận thức kịp mà kết quả là dẫn đến sự chuyển biến rõ rệt, kết thúc
một trạng thái cũ chuyển sang một trạng thái mới. Do vậy, vạn vật vô tình
trong vũ trụ đều tuân theo qui luật: Thành - trụ - hoại - không. Mọi vật được cấu
thành, trụ một thời gian, biến chuyển đi đến diệt, hoại thành không.
Các sinh vật đều tuân theo qui luật: Sinh - trụ - dị - diệt.
Chung quanh ta, sự vật biến chuyển không ngừng. Theo luật vô thường
thì không phải khi vạn vật sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là

diệt, mà từng phút, từng giây, từng sátna, sự sống và sự chết đã từng liên tiếp
xảy ra.
Từ thuyết vô thường, Phật nói sang thuyết vô ngã (Anatta): Vô ngã là
không có cái Ta trường tồn vĩnh cửu. Theo nguyên lý duyên sinh, các sự vật
đều là các pháp duyên sinh. Tất cả sự vật (các pháp) có hình, có tướng đều do
những bộ phận hợp lại mà thành, đều là nhất hợp tướng, đều có thể chia chẻ
ra được. Tất cả sự vật đều đối đãi với nhau mà thành lập: Tâm đối với cảnh,
cảnh đối với thân, lớn đối với nhỏ, dài đối với ngắn, sống đối với chết, có đối
với không. Tất cả sự vật đều do đối đãi với nhau mà thành nên đều vô ngã,
đều không có tự tính: Thân vô ngã, tâm vô ngã, cảnh vô ngã.
Với nguyên lý cơ bản trên đây, Đức Phật trình bày những vấn đề về
nhân sinh: Con người từ đâu mà có? Con người được sinh ra như thế nào?
Cuộc đời con người ra sao? Con đường giải thoát cho con người ?
Khi trả lời cho câu hỏi "Con người do đâu mà sinh ra?" Phật xác định
con người là một chỉnh thể vũ trụ, là một tiểu vũ trụ, là kết quả của sự kết hợp
giữa danh và sắc. Nghĩa là con người có đầy đủ cả hai phần sinh lý và tâm lý:
Cái ta sinh lý tức là thân (gọi là sắc uẩn).
Cái ta tâm lý tức là tâm (bao gồm thọ, tưởng, hành, thức).

×