Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.55 KB, 74 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN TRIẾT HỌC ĐẠI HỌC KHOA HỌC XH & NV


NGUYỄN TRUNG KIÊN

ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC






HÀ NỘI, 2009


2
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN TRIẾT HỌC ĐẠI HỌA KHOA HỌC XÃ HỘI & NV

NGUYỄN TRUNG KIÊN


ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn: PS|GS. TS Phạm Văn Đức




HÀ NỘI, 2009

3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY 12
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết xã hội 12
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết xã hội 17
1.3. Nhận thức chung về đoàn kết xã hội 23
Chương 2: ĐOÀN KẾT XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP 44
2.1. Thực trạng thực hiện đoàn kết xã hội: một số kết quả, hạn chế và nguyên
nhân 44
2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện
nay 59
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69








4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, đoàn kết xã hội là một giá trị truyền thống tốt đẹp. Truyền
thống đó được hun đúc và tôi luyện qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,
được thử thách qua cuộc đấu tranh với thiên nhiên và các cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc ta. Nhờ truyền thống đó, mỗi khi có giặc mọi người như một
đứng dậy với một quyết tâm sắt đá thà huy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm,
biến cố lúc thịnh lúc suy. Dưới các triều đại phong kiến, nhân dân ta đoàn kết một
lòng đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc và bờ cõi non
sông đất nước. Thời đại ngày này – thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam truyền thống đó tiếp tục được phát huy cao độ trong công
cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng
tháng Tám năm 1945 là một mốc thay đổi to lớn trong lịch sử dân tộc, nó củng cố
và phát triển tinh thần yêu nước, ý thức đoàn kết dân tộc của nhân dân ta lên một
tầm cao mới. Nhờ đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng như tranh thủ
được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên
thế giới, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ thành công thành quả của cách mạng
Việt Nam. Đó là nền độc lập, tự do của Tổ quốc và nhân dân, non sông thu về một
mối, Bắc – Nam sum họp một nhà, tạo nền tảng vững chắc để cả nước tiếp tục sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa cùng quá trình mở cửa, hội nhập thế giới với quy mô ngày càng rộng lớn
và mức độ ngày càng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó,
nổi bật nhất là những hoạt động hợp tác, liên doanh trong lĩnh vực kinh tế theo xu
thế toàn cầu hóa, dẫn đến những biến động, phân hóa giữa các giai tầng trong xã hội

5
theo những thái cực khác nhau. Mặt khác, sự phát triển bùng nổ của cách mạng
khoa học và công nghệ đã mang lại những cơ hội phát triển cho đất nước; đồng thời
cũng đặt ra cho xã hội chúng ta trước những thách thức và hàng loạt những vấn đề
với mức độ gay gắt ngày càng tăng: vấn đề phân hóa giàu - nghèo; vấn đề tham
nhũng, vấn đề đói nghèo và nạn thất nghiệp,… Mặt khác, chiến lược diễn biến hòa
bình của kẻ thù tiếp tục được đẩy mạnh, hòng gây chia rẽ giữa Đảng và Nhà nước
với nhân dân, giữa các cộng đồng dân tộc, giữa người Việt Nam ở trong nước với
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, giữa đồng bào các tôn giáo với nhau,…
Đứng trước những thuận lợi, khó khăn và thử thách đó, vấn đề đặt ra là,
trong điều kiện đất nước hòa bình và mở cửa hội nhập, làm thế nào để phát huy vai
trò động lực của đoàn kết xã hội đối với sự phát triển của đất nước. Xâu chuỗi
những nội dung trên, chúng ta thấy có vấn đề liên quan đến đoàn kết xã hội. Vì vậy,
có thể nói, việc nghiên cứu đề tài “Đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay” là cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đoàn kết xã hội là một vấn đề được đặt ra khá sớm trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, ngay từ thời cổ đại ở cả phương Tây lẫn phương Đông, nhất
là ở những nền văn hóa, văn minh lớn trên thế giới như Hy Lạp cổ đại, Trung Hoa
cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, thời gian và cả những gì mà con người làm
được vẫn còn khá khiêm tốn so với những ước mơ, hy vọng và hoài bão, do đó
không khiến vấn đề này trở nên cũ kỹ, lỗi thời. Trái lại, trong bối cảnh thế giới ngày
nay, hơn bao giờ hết đoàn kết xã hội tiếp tục là vấn đề nổi bật trong đời sống nhân
loại, trở thành tâm điểm chú ý của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, các vị chức sắc và
quan chức hoạch định chính sách, cũng như toàn xã hội.

Hiện nay, chúng ta đã có nhiều công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau
nghiên cứu về đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các công trình khoa học đi

6
vào nội dung về đoàn kết và đoàn kết xã hội ở nhiều phương diện khác nhau: nguồn
gốc, điều kiện, cơ sở, nội dung và phương pháp của đoàn kết xã hội theo những
cách tiếp cận khác nhau. Sản phẩm của những công trình khoa học này đáp ứng
được yêu cầu xã hội, có những đóng góp nhất định vào việc phát huy đoàn kết xã
hội dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Nhưng đứng trước những thay đổi to lớn trong
thời đại ngày nay, chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Trong đó, lý luận về đoàn kết xã hội ngày càng trở nên quan trọng và thu hút
được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học. Nhưng có một thực tế là lý luận
về đoàn kết xã hội mới dừng lại ở mức độ diễn đàn, hội thảo khoa học hay các bài
báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Hiện chưa có một công trình khoa học
nghiên cứu một cách có hệ thống về đoàn kết xã hội. Do đó vấn đề được đặt ra là
chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu về đoàn kết xã hội, góp phần vào việc giải quyết
những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống xã hội.
Ở Việt Nam thời gian gần đây, vấn đề đoàn kết xã hội thu hút sự quan tâm
chú ý của các nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu về đoàn kết xã hội ở Việt Nam tập
trung vào các hướng chủ yếu sau đây:
- Hướng thứ nhất, nghiên cứu cơ sở, vai trò của đoàn kết xã hội và mối
quan hệ của nó với vấn đề dân chủ và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi
điểm qua một số bài báo, công trình tiêu biểu sau:
+ “Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay”[28]. Trong
bài viết này, tác giả Phạm Văn Đức đã trình bày một cách khái quát những tư tưởng,
quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn
kết xã hội; đồng thời, phân tích và luận giải từ góc độ triết học vai trò động lực và
cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, sự đồng thuận và đoàn

kết xã hội là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Chính sự kết hợp hài
hoà các lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân là cơ sở quan trọng tạo

7
nên sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Đó cũng là cơ sở cho sự phát triển bền vững
của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.
+ “Lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đại đoàn kết ở Việt Nam”[40]. Trong bài
viết này, tác giả Nguyễn Đình Hòa đã luận chứng để làm rõ hai vấn đề: 1/ Sự hình
thành và phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lý tưởng ấy phù hợp với
nhu cầu, nguyện vọng của toàn thể dân tộc, trở thành ngọn cờ tập hợp, kết nối quần
chúng nhân dân thành một khối thống nhất đấu tranh vì lợi ích chung; 2/ Đại đoàn
kết dân tộc là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, nó đã được
nâng lên một chất lượng mới, trở thành phương thức, động lực cơ bản để thực hiện
lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả, Việt Nam đã và đang chứng minh cho ý
nghĩa to lớn của đại đoàn kết dân tộc với tính cách một giá trị văn hoá trong tiến
trình phát triển.
+ “Đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội”[82]: Trong bài viết này,
tác giả Đặng Hữu Toàn cho thấy lịch sử nhân loại nhiều thế kỷ, lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy giá trị to lớn, ý
nghĩa quyết định của đồng thuận xã hội trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc. Trong bài viết này, sau khi làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giá trị và ý nghĩa đó của đồng thuận xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, tác
giả đã đề xuất và luận giải tính khả thi của một số giải pháp cho việc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở tạo dựng và củng cố đồng thuận xã hội. Đó là: 1)
Xây dựng một xã hội dân chủ, xã hội công dân; 2) Thường xuyên khơi dậy tinh thần
tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, phát huy tinh thần tự lực tự cường; 3)
Phát triển kinh tế thị trường đi đôi với khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó;
4) Nắm vững và vận dụng thành công bài học đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh; 5) Xây dựng Đảng lãnh đạo thật sự trong sạch, vững
mạnh, xây dựng một hệ thống chính trị tiên tiến, có hiệu quả và hiệu lực.

+ “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển bền
vững”[3]: Để làm rõ vai trò của dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát

8
triển bền vững, trong bài viết này, tác giả Hoàng Chí Bảo đã đưa ra và luận giải: 1)
Nền tảng văn hoá của phát triển bền vững; 2) Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã
hội với tư cách những giá trị văn hoá trong phát triển bền vững; 3) Xây dựng và
thực hành văn hoá phát triển theo hệ giá trị dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội.
- Hướng thứ hai, các tác giả tập trung nghiên cứu những điều kiện để
đoàn kết dân tộc trong tiến trình lịch sử Việt Nam, dưới lăng kính văn hóa và
truyền thống văn hóa Việt:
+ “Vấn đề đoàn kết và điều kiện để đoàn kết trong lịch sử”[84]: Tác giả
Nguyễn Tài Thư cho rằng, đoàn kết là một hiện tượng nhiều người liên kết thành
một khối thống nhất cùng hoạt động vì mục đích chung. Đoàn kết là xu thế tất yếu
trong sự phát triển của các cộng đồng người. Cộng đồng nào đoàn kết vượt lên được
thì sống, không đoàn kết thì chết, sống được ngoài lý do khác ra thì đoàn kết là một
yếu tố quan trọng có tính quyết định. Làm rõ nhận định trên, tác giả phân tích
những đặc trưng của sự đoàn kết, từ đó chỉ ra những điều kiện để có sự đoàn kết
trong lịch sử dân tộc ta: cá nhân cần đến cộng đồng và cộng đồng cần đến cá nhân –
đó là điều kiện tự nhiên, ban đầu và có lợi cho sự đoàn kết của bất cứ cộng đồng
nào. Những điều trên đây theo tác giả không phải là tất cả, nhưng là những bài học
cơ bản làm nên sự đoàn kết, tạo nên những chiến thắng và thành công.
+ “Nghĩ về truyền thống đoàn kết trong văn hóa Việt Nam” – tác giả Vũ
Trọng Dung; “Giá trị văn hóa truyền thống và truyền thống đoàn kết Việt Nam” –
tác giả Lê Ngọc Anh; “Đoàn kết xã hội nhìn từ góc độ truyền thống văn hóa” –
tác giả Trần Tuấn Phong [25]. Các tác giả cho rằng: Nếu đoàn kết xã hội được hiểu
như một tiến trình để tìm đến sự hòa hợp thì rõ ràng rằng cơ sở của sự hòa hợp đấy
phải là truyền thống văn hóa. Chỉ có thể dựa vào truyền thống văn hóa, thể hiện
trong ethos, Lễ hay Pháp, con người mới phát triển và hoàn thiện mình, mới “thành
người” được. Truyền thống văn hóa chính là nền tảng tinh thần chung mọi người

trong một cộng đồng, một xã hội cùng chia sẻ. Và cái nền tảng chung đó là cơ sở
quan trọng nhất để liên kết con người với nhau.

9
Nhìn chung, một số tác giả đã ít nhiều tập trung vào việc làm rõ vị trí và vai
trò của đoàn kết xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời phân tích
những cơ sở và điều kiện của đoàn kết xã hội. Bên cạnh đó, một số tác giả đi tìm cái
lôgic – lịch sử trong truyền thống đoàn kết của dân tộc ta từ xưa đến nay nhằm phản
ánh những vấn đề có tính quy luật của đoàn kết xã hội ở Việt Nam trong cả quá
khứ, hiện tại và tương lai. Tuy tất cả mới chỉ dừng lại ở mức độ là những diễn đàn,
hội thảo, các bài báo khoa học và trao đổi ý kiến. Chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về đoàn kết xã hội ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. Để góp phần vào việc tìm hiểu vấn đề đang được quan tâm
nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn “Đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận và thực trạng đoàn
kết xã hội ở nước ta hiện nay, luận văn tập trung làm rõ một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy hơn nữa đoàn kết xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào những
nhiệm vụ chính sau đây:
Một là, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đoàn kết, đoàn kết xã hội nhằm làm rõ hơn cơ sở của đoàn kết xã hội.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay
và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy đoàn kết xã hội ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là triết học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, luận
văn cũng tham khảo, kế thừa những kết quả nghiên cứu công trình khoa học của
một số tác giả (hoặc tập thể tác giả) trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.


10
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp: phân
tích, tổng hợp, so sánh, lôgic và lịch sử.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đoàn kết xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
5.2. Phạm vi:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ Đại
hội VI của Đảng ta đến nay) về đoàn kết xã hội.
- Thực trạng thực hiện đoàn kết xã hội ở Việt Nam từ những năm đổi mới
đến nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
7. Cái mới của luận văn
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm “đoàn kết xã hội” và “đồng thuận xã
hội”, thể hiện nhận thức bước đầu của tác giả về nội dung này.
- Luận văn phân tích sự thống nhất, hài hòa các lợi ích và đồng thuận xã hội
với tính cách là cơ sở của đoàn kết xã hội, cũng như mối quan hệ giữa chúng.
- Luận văn đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy đoàn kết xã
hội ở nước ta hiện nay. Trong đó, luận văn tập trung vào ba nhóm giải pháp là nhóm
giải pháp về lợi ích, về dân chủ và về công bằng xã hội – được coi là giải pháp then
chốt và cơ bản nhất góp phần phát huy đoàn kết xã hội ở nước ta hiện nay.
8. Ý nghĩa của luận văn

11
Về lý luận: Luận văn một lần nữa khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò của đoàn kết xã hội là hoàn toàn đúng đắn,
khách quan và khoa học, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của

chúng ta. Bên cạnh đó, luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở của đoàn kết xã hội ở
nước ta hiện nay, đó là sự thống nhất, hài hòa các lợi ích và đồng thuận xã hội.
Về thực tiễn: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thực trạng đoàn kết xã hội ở
nước ta hiện nay (những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém còn
tồn tại). Từ đó, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những
hạn chế, yếu kém để phát huy hơn nữa đoàn kết xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.














12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết xã hội
Hồ Chí Minh là con người kiệt xuất. Cuộc đời và sự nghiệp của Người đã để
lại cho chúng ta những di sản vô cùng quý báu. Trong đó, đoàn kết là một tư tưởng
lớn được hình thành và phát triển cùng với toàn bộ quá trình hoạt động lý luận và
thực tiễn cách mạng của Người.

1.1.1. Vai trò của đoàn kết xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ
quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[69;
tr. 497]. Đoàn kết không chỉ là một trong những tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh,
mà hơn thế nữa, vượt qua khuôn khổ tư tưởng thuần túy, nó trở thành nguồn sức
mạnh, động lực vật chất đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn
nửa thế kỷ qua; tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược cách mạng
của dân tộc Việt Nam.
Đoàn kết là vấn đề mang tính chiến lược, quyết định sự thành bại của cách
mạng. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi.
Điều đó nghĩa là đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng. Coi đoàn kết là chiến
lược, quyết định thành công sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp
cách mạng là rất to lớn nên những người làm cách mạng phải đoàn kết với nhau để
thực hiện sự nghiệp đó. “Người mình đã làm cách mạng nhiều rồi mà chưa thành
công trước hết bởi vì thiếu đoàn kết với nhau. Khi xâm lược nước ta thực dân Pháp
dùng thủ đoạn chia để trị, vì vậy, chỉ có đoàn kết mới đánh bại được âm mưu chia rẽ
của kẻ thù, chỉ có đoàn kết nước ta mới giành được độc lập”. Đó là tư tưởng về việc

13
xây dựng và củng cố, mở rộng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt
cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.
Đoàn kết không chỉ là một phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách
mạng mà cao hơn, sâu sắc hơn và rộng hơn, bởi đó là vấn đề có tính đường lối; là
mục tiêu, động lực và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Có đoàn kết mới có thành
công nên đoàn kết phải là điểm xuất phát, sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chủ
trương của Đảng. Chính vì vậy, ở bất cứ thời điểm cách mạng nào, khi xây dựng
đường lối chiến lược, vấn đề quan trọng hàng đầu là xác định cho được mục tiêu,
nhiệm vụ, phương pháp phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số quần
chúng nhân dân mới có thể thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng

vào sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định mục đích của Đảng Lao động
Việt Nam bao gồm tám chữ: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” và đúc kết vấn
đề này trong luận điểm nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”.
Đoàn kết là một nhu cầu, một đòi hỏi khách quan của chính quần chúng
nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, do vậy, đoàn kết cũng trở thành một
sự nghiệp của quần chúng, vì quần chúng. Đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân.
Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết không phải là chủ trương, sách lược xuất phát từ ý
muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo, mà là một nhu cầu, đòi hỏi khách quan của
chính quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Do vậy, đoàn kết là sự nghiệp
của quần chúng, vì quần chúng, lực lượng lãnh đạo cách mạng chỉ có sứ mạng thức
tỉnh, hướng dẫn quần chúng chuyển những nhu cầu tự nhiên, tự phát của họ về đoàn
kết thành nhu cầu tự giác, thành đoàn kết hiện thực, có tổ chức để trở thành sức
mạnh tổng hợp.
1.1.2. Nguyên tắc và phương pháp đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh nối tiếp những luận điểm trên nhằm nêu rõ nguyên tắc
của đoàn kết là: “Đoàn kết rộng rãi và lâu dài: Đoàn kết của ta không những rộng

14
rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một
thủ đoạn chính trị”[66; tr. 438]. Nguyên tắc rộng rãi thể hiện ở chỗ: “Ai có tài, có
sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với
họ”[66; tr. 438]. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn
kết với họ”[66; tr. 438]. Nguyên tắc lâu dài, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mà ngày nay chúng ta gọi là nguyên tắc chiến lược của đại đoàn kết, theo tư
tưởng của Người thể hiện cả ở cơ sở của đại đoàn kết và mục tiêu của đại đoàn kết
chính là ở lợi ích dân tộc: Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của
Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Từ thực tế lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát: “Sử ta dạy cho ta bài

học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[62; tr. 217]. Cơ
sở tạo nên sự tương đồng, sự nhất trí đó mang tính lịch sử; trong các giai đoạn lịch
sử khác nhau, sự tương đồng đó được xuất phát từ những nhu cầu, lợi ích chung
không như nhau. Chính vì vậy, nhân dịp Mặt trận Việt Minh được thành lập (19-5-
1941), trong Kính cáo đồng bào, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân
tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và
bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”[62; tr. 198]. Mặt khác,
muốn đoàn kết phải giải quyết mối quan hệ lợi ích, Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn
cho hàng ngàn, hàng vạn người ấy đoàn kết chặt chẽ với nhau, thì họ phải cùng một
ý chí như nhau, có vậy mới đoàn kết. Khi nào cùng ý chí, cùng mục đích thì khi ấy
mới có thể cùng đoàn kết, bằng không thì hô hào đoàn kết mấy đi nữa cũng không
thể nào đoàn kết được. Theo Người thì dân chúng rất sáng suốt, rất khôn khéo, rất
anh hùng. Nếu những nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người không được
quan tâm thì tính tích cực của họ sẽ bị giảm sút, mọi chính sách dù hay mấy cũng
không thực hiện được. Trái lại, đưa tiền của dân, sức của dân để làm việc lợi ích
cho dân thì bao giờ dân cũng hăng hái, việc gì cũng thành công.

15
Hồ Chí Minh nêu ra vấn đề có tính phương pháp luận: đoàn kết trên cơ sở sự
thống nhất. Cách giải quyết của Hồ Chí Minh là: tìm kiếm, trân trọng, phát huy
những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố khác biệt,
mâu thuẫn, xung đột giữa các mối quan hệ lợi ích theo phương châm "Cầu đồng,
tôn dị". Theo Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, “Tư tưởng Hồ Chí Minh cố tìm mẫu
số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình xoáy trôn ốc
đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ”. Theo Hồ Chí Mình, muốn
thực hiện đoàn kết trên tinh thần “cầu đồng, tôn dị” thì đoàn kết phải thật sự chân
thành, thân ái, thẳng thắn, đoàn kết gắn với phê bình và tự phê bình. Đoàn kết phải
thương yêu, thông cảm, vị tha với đồng chí, đồng nghiệp, đồng bào nhưng không có
nghĩa là thủ tiêu đấu tranh, dĩ hoà vi quý, gió chiều nào ngả chiều ấy. Phê bình để

đoàn kết tốt hơn. Người nói: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và
thống nhất nội bộ”[64; tr. 232].
Hồ Chí Minh cho rằng, dân là gốc rễ, là nền tảng của đoàn kết. Người nói:
Gốc có vững thì cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh, dân là chủ thể của đoàn kết. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[67; tr. 276].
Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đoàn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng. Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, của hệ thống chính trị và của cách mạng.
Đoàn kết là công việc cách mạng của toàn dân. Đảng Cộng sản vừa là thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, lực lượng
xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Như vậy, Đảng Cộng sản là một bộ phận không
thể tách rời khối đoàn kết dân tộc. Cái khác của Đảng Cộng sản đối với các bộ phận
khác, đảng là lực lượng tiên phong, là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn, là tấm gương
về đoàn kết của khối đoàn kết dân tộc. Đảng Cộng sản cần vận động, tuyên truyền,
giáo dục để quần chúng giác ngộ thấy sự cần thiết phải đoàn kết lại; phải tìm cho

16
được những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để thu hút, tập hợp động
đảo, rộng rãi các lực lượng tiến bộ trong quần chúng; phải định hướng cho khối
đoàn kết dân tộc đấu tranh, xây dựng theo những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp
với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng, cơ bản của quần
chúng nhân dân.
Phương pháp nêu gương: Người cán bộ, đảng viên phải là một tấm gương
đoàn kết, một mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có sức lôi cuốn, thu phục quần
chúng bởi tình cảm trong sáng và tinh thần tận tụy vì dân, vì nước. Hồ Chí Minh là
con người mà tư tưởng, tình cảm, đạo đức hoà quyện với nhau một cách rất tự
nhiên, trong đó tư tưởng soi sáng tình cảm, đạo đức; ngược lại tình cảm, đạo đức lại
tôn cao sức hấp dẫn, cuốn hút của tư tưởng. Hồ Chí Minh cảm hóa, cuốn hút, tập

hợp mọi người bằng tấm lòng Trung với nước, hiếu với dân, bằng cuộc đời cần
kiệm liêm chính chí công vô tư, bằng phẩm chất giàu sang không thể mua chuộc,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
Phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng: Nội dung tuyên
truyền, giáo dục phù hợp với tâm lý, nguyện vọng chung nhất của dân tộc, phản ánh
đúng những nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi chủ yếu nhất của từng giai cấp,
từng cộng đồng xã hội. Sử dụng các hình thức phổ thông để tuyên truyền, giáo dục,
vận động quần chúng để ai cũng hiểu được, hiểu được thì nhớ được, nhớ được thì
làm được.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị là vấn đề quan trọng nhất trong
phương pháp đoàn kết Hồ Chí Minh, bởi muốn xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc thì phải có phương pháp xây dựng, kiện toàn, không ngừng phát triển hệ
thống chính trị. Sự thống nhất và bền vững của hệ thống chính trị chính là yếu tố
quyết định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, cần xây
dựng Đảng Cộng sản trí tuệ, cách mạng và thống nhất thì mới đủ sức tập hợp sức
mạnh thời đại đoàn kết và lãnh đạo dân tộc. Cũng chỉ có một đảng kiểu mới, đảng
cầm quyền như thế mới đủ khả năng thể hiện được mình là đại diện quyền lợi của

17
dân tộc, là hạt nhân lãnh đạo, mới có thể tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và quốc tế. Xây dựng chính quyền thật sự của dân, do dân và vì dân, bởi chỉ có
như vậy, nhà nước mới thật sự là công cụ của Đảng, là tổ chức đại diện cho quyền
lực của nhân dân, mới được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Xây dựng hoàn thiện các
tổ chức chính trị, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Tổ chức rộng rãi
nhất, liên quan trực tiếp đến việc tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc là các đoàn thể
quần chúng. Chính các đoàn thể này tập hợp lại thành Mặt trận dân tộc thống nhất
và đó chính là cái vỏ vật chất của khối đại đoàn kết dân tộc. Mặt trận dân tộc thống
nhất càng rộng rãi bao nhiêu càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn
kết dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu.
Khái quát lại, phương pháp đoàn kết Hồ Chí Minh nằm ở chỗ, Người nhận

thức và giải quyết khoa học, hiệu quả các mối quan hệ phức tạp chứa những mần
mống biến động, khác nhau, đôi khi đối lập giữa giai cấp với dân tộc; giữa quốc gia
với quốc tế; giữa truyền thống với hiện tại. Chính nhờ sự biện chứng trong chiến
lược đại đoàn kết dân tộc, chính nhờ sự nắm bắt được cái hồn của nhận thức đấu
tranh giai cấp mà Hồ Chí Minh “đã hòa giải khôn ngoan những đối kháng về quyền
lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định phục vụ tập trung cao nhất cho quyền
lợi dân tộc”[23; tr. 58-59].
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết xã hội
1.2.1. Mục tiêu của đoàn kết xã hội
Theo Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị về đoàn
kết và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất nhấn mạnh: Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Kế thừa
và phát huy truyền thống đó, ngay từ ngày thành lập Đảng ta luôn coi trọng, củng
cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với
sức mạnh quốc tế, sức mạnh truyền thống kết hợp với sức mạnh thời đại, lãnh đạo
nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của
Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó là bài học lớn của cách mạng Việt

18
Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
thành công, thành công, đại thành công”. Nghị quyết phân tích bối cảnh trong nước
và quốc tế nhằm đề ra nhiệm vụ của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong tình hình
mới, đó là: Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường,
đoàn kết mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững
độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, góp phần
tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán

về đoàn kết xã hội nhằm mục tiêu “giữ vững độc lập thống nhất, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[18; tr. 123]. Mục tiêu đó phản ánh lợi
ích, nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện sự
tôn trọng mục tiêu riêng, lợi ích riêng của mọi người trong xã hội thuộc các thành
phần khác nhau. Mục tiêu chung là phải làm cho nước mạnh lên, điều này thì ai
cũng tán thành, nhất trí, mà muốn nước mạnh thì phài làm cho dân giàu, nghĩa là ai
cũng có quyền được làm giàu một cách chính đáng bằng sự nỗ lực, cố gắng phấn
đấu của bản thân. Đó là mục tiêu riêng. Do đó, đoàn kết xã hội là sự nghiệp của
toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo thực hiện mục tiêu là
các tổ chức đảng.
1.2.2. Đoàn kết xã hội là động lực của sự phát triển
Tiếp tục kế thừa tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh, Đại hội IX của Đảng
khẳng định đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc “là đường lối chiến lược và là động lực
to lớn để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc”. Đường lối chiến lược đó nhằm “thực hiện
đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới,
mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người
đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt

19
Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài”[18; tr. 123]. Đại hội còn chỉ rõ nguyên tắc
để xây dựng khối đại đoàn kết: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc,
truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu
giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái
với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới
tương lai”[18; tr. 124].
Đến Đại hội X của Đảng với chủ đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong đó, tư

tưởng về đại đoàn kết dân tộc được trình bày một cách cô đọng nhất, được đưa vào
chủ đề Đại hội và được trình bày trong mục X thuộc Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX với tiêu đề: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục
đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân. Những tư tưởng cơ bản về đại đoàn kết dân tộc được trình bày trong Văn
kiện Đại hội X có thể được khái quát ở một số điểm sau đây: Đoàn kết dân tộc dựa
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đại
đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lấy mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc làm điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với
lợi ích của dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần
cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
1.2.3. Phương hướng thực hiện đoàn kết xã hội

20
Đoàn kết xã hội là sự nghiệp của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ngay từ Đại hội VI, khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta
đã nhận thấy lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân đang đặt nhiều vấn đề cấp
bách cần giải quyết, do đó cần phải có chính sách phù hợp với từng đối tượng, cụ
thể là đối với giai cấp công nhân, đối với nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, đối
với các dân tộc thiểu số và các đồng bào theo tôn giáo cũng như đối với người Việt
Nam sinh sống ở nước ngoài.
Đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn

đấu cho sự phát triển của đất nước, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích toàn xã hội. Việc kết hợp hài hòa về mặt lợi ích giữa các chủ thể sẽ tạo ra
động lực quan trọng cho đoàn kết xã hội. Nhân tố lợi ích nổi lên hàng đầu trong
việc củng cố và tăng cường khối đoàn kết giữa Đảng với nhân dân và giữa mọi
người dân trong xã hội. Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích
tập thể và lợi ích xã hội về cơ bản là thống nhất với nhau, nhưng không phải là
không có mâu thuẫn; mỗi loại lợi ích lại có vai trò riêng, trong đó lợi ích cá nhân có
vai trò trực tiếp. Muốn củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân,
Đảng phải mang lại ngày càng nhiều lợi ích cho nhân dân. Mục đích của Đảng
không có gì khác là đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Kinh tế thị
trường càng phát triển, các lợi ích ngày càng đa dạng. Đảng lãnh đạo việc xây dựng
chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
nhóm xã hội có địa vị khác nhau, trước tiên là những giai cấp, tầng lớp đông đảo
nhất trong xã hội. Đó là công nhân, nông dân và trí thức, đồng thời quan tâm lợi ích
của các tầng lớp xã hội khác, trong đó những người có công với cách mạng, những
người khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo, đồng bào ở vùng
sâu, vùng xa, v.v…

21
Việc chăm lo lợi ích của các tầng lớp xã hội được Đảng ta thể hiện trước hết
và chủ yếu ở các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và bằng tổ chức
các phong trào để nhân dân tự chăm lo lợi ích cho mình. Những chủ trương, chính
sách, pháp luật trong thời kỳ đổi mới nhằm phát triển sản xuất, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, phát huy dân chủ… chính là để củng cố và tăng cường sự đoàn kết
giữa Đảng và nhân dân. Cùng với những chủ trương quốc gia, các phong trào nhân
dân xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công đã và đang phát triển sâu
rộng. Đảng đã có Nghị quyết về tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân, kinh
tế tập thể phát triển. Luật doanh nghiệp được ban hành và từng bước hoàn thiện
nhằm mở ra con đường thông thoáng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế phát triển, làm cho các tầng lớp nhân dân phấn khởi sản xuất, làm ăn theo

pháp luật, đời sống được cải thiện rõ rệt. Đó là những yếu tố quan trọng củng cố sự
đoàn kết, nhất trí giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngoài việc quan tâm đến lợi
ích lâu dài, Đảng ta cũng không ngừng quan tâm đúng mức đến những lợi ích thiết
thực hằng ngày của người dân; cùng với việc chăm lo lợi ích kinh tế, Đảng còn
quan tâm cả lợi ích văn hóa, tinh thần, đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lối sống lành mạnh trong toàn xã hội, phát huy truyền thống đoàn kết, tương
thân tương ái của dân tộc, chống tư tưởng cá nhân vị kỷ và những thói hư tật xấu do
mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại.
Cũng trong Văn kiện X, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết là sự
nghiệp của toàn dân tộc. Cho nên Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân cần có
những giải pháp cụ thể đối với từng giai cấp, tầng lớp và từng cộng đồng người Việt
Nam để không ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết đó. Chẳng hạn, khi nói
về đoàn kết với các đồng bào tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo
là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo tôn giáo
của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo

22
tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”[19; tr.
122].
Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lấy phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm; gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái trong từng
bước phát triển; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng.
Tổ chức việc kết nghĩa, giúp đỡ nhau giữa các vùng, các địa phương có kinh tế phát
triển với vùng nghèo, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, phấn
đấu nâng dần độ đồng đều về trình độ dân trí, văn hóa và mức độ hưởng thụ, chăm

sóc sức khỏe của nhân dân các vùng trong nước; gìn giữ và phát huy văn hóa truyền
thống tốt đẹp của từng dân tộc; xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi; thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, coi trọng vai trò của nhân dân trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Phát huy mãnh mẽ vai trò của chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp
nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây
dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

23
Việc tìm hiểu một số quan điểm Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chúng ta thấy quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kế thừa
và phát triển những quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết xã hội. Từ thực tiễn
những năm kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là
thực tiễn những năm đổi mới, Đảng ta đã đi đến một khẳng định có ý nghĩa quan
trọng: Đại đoàn kết là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Nhận thức chung về đoàn kết xã hội
1.3.1. Khái niệm về đoàn kết xã hội
Trước hết, ta điểm một vài quan niệm về đoàn kết xã hội của một số nhà
nghiên cứu. Theo tác giả Đỗ Hoài Nam, đoàn kết xã hội được hiểu là phương thức
tập hợp lực lượng và hình thành động lực để hiện thực hóa các mục tiêu xây dựng
một thế giới thịnh vượng và tốt đẹp, trong đó các giá trị người được tôn trọng, thực

hiện và bảo đảm trên thực tế [25; tr. 41]. Trong bài viết “Dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội trong phát triển bền vững”, tác giả Hoàng Chí Bảo cho rằng, đoàn kết
xã hội không chỉ chứa đựng trong nó (từng giá trị và cả chỉnh thể hệ giá trị) nội
dung kinh tế và những lợi ích vật chất, tính chất chính trị (thể chế nhà nước, kiểu
mô hình chế độ chính trị, hệ thống luật pháp, chính sách…) mà còn thể hiện sâu sắc
các giá trị văn hóa kết tinh trong nó cả truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa, đặc
điểm dân tộc, đạo đức, tâm lý, ý thức dân tộc [25; tr. 434]. Trong bài viết “Dân chủ,
đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển bền vững”, tác giả Nguyễn Tài Thư
cho rằng, đoàn kết là một hiện tượng nhiều người liên kết thành một khối thống
nhất cùng hoạt động vì một mục đích chung. Khái niệm đoàn kết có khi còn được
hiểu là: đồng tâm hiệp lực, tề tâm nhất trí, liên hợp, kết hợp,…[25; tr. 495]. Còn
theo tác giả Joshep Sayer, thuật ngữ “Đoàn kết” bắt nguồn từ Latinh “solidus”, có
nghĩa là sự vững chắc, đồng hợp tác, sự kết giao và kết dính. Đoàn kết phải được
xem như một chuẩn tắc của xã hội [25; tr. 604]. Trong bài viết “Vai trò và cơ sở của
đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Phạm Văn Đức hiểu đoàn kết xã hội

24
là sự thống nhất, sự cố kết và hợp tác giữa các tầng lớp, giai cấp và các tập đoàn
xã hội [25; tr. 416]. Theo Từ điển Tiếng Việt, đoàn kết được hiểu là kết thành một
khối thống nhất, cùng hoạt động vì mục đích chung [86; tr. 334].
Theo chúng tôi, đoàn kết xã hội là sự thống nhất, liên minh, hợp tác của các
thành viên trong xã hội trên cơ sở đồng thuận về những vấn đề cơ bản nhằm đạt
được sự đảm bảo về lợi ích chung của cộng đồng cũng như những lợi ích riêng của
từng cá nhân. Đoàn kết xã hội là một phạm trù lịch sử, có thể khái quát ở những
điểm cơ bản sau:
Một là, đoàn kết xã hội là sự thống nhất, liên minh, hợp tác có mục đích của
các thành viên trong cộng đồng.
Hai là, đoàn kết xã hội phải dựa trên cơ sở đồng thuận, nhất trí về những vấn
đề cơ bản có liên quan đến các thành viên trong cộng đồng.
Ba là, đoàn kết xã hội phải nhằm đạt được lợi ích chung, đồng thời cũng phải

đảm bảo được những lợi ích chính đáng của tất cả các thành viên trong cộng đồng.
1.3.2. Cơ sở của đoàn kết xã hội
1.3.2.1. Sự thống nhất, hài hòa các lợi ích là cơ sở của đoàn kết xã hội
Khi khẳng định, lợi ích là chất kích thích chủ yếu của đoàn kết xã hội thì
điều đó nghĩa là sự thống nhất về lợi ích mới là động lực, chứ không phải mâu
thuẫn là động lực. Nếu quan niệm giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực của
đoàn kết xã hội thì việc sớm phát hiện và giải quyết mâu thuẫn đóng vai trò quan
trọng để tạo dựng và phát huy sự đoàn kết xã hội.
Chúng ta biết rằng, xã hội là một cấu trúc hết sức phức tạp, là một tổng thể
các mối quan hệ liên quan đến các giai cấp, các lực lượng và các cá nhân, không chỉ
có thống nhất mà còn có khác biệt, mâu thuẫn thậm chí là xung đột về lợi ích và
nhu cầu, về nhận thức và ý thức, tâm lý và lối sống, ngoài ra còn biết bao sự khác
biệt tồn tại nữa như về đặc điểm tộc người, về tín ngưỡng, tôn giáo, về thế hệ và

25
quan hệ giữa các thế hệ trong lựa chọn giá trị,… Đời sống xã hội và đời sống cá
nhân, trong đó đời sống gia đình và sinh hoạt cộng đồng của các nhóm xã hội – lớn
và nhỏ, chính thức và không chính thức là những vòng khâu liên hệ nối liền giữa cá
nhân và xã hội, là sự tác động và phản ánh lẫn nhau, bao gồm cả tính tự giác lẫn tự
phát, có thể được tổ chức và định hướng theo mục tiêu phát triển mà cũng có không
ít những tình huống phát sinh, những ngẫu nhiên ngoài ý muốn, ngoài những dự
tính, trù liệu của chủ thể. Những xung đột về lợi ích và quyền lực không chỉ nằm
trong giới hạn một nước, một quốc gia – dân tộc (mà thường là quốc gia – dân tộc
có kết cấu đa tộc người, đa tôn giáo, do đó cũng là đa văn hóa, đa văn minh) trong
tiến trình phát triển mà còn diễn ra trong khu vực, giữa các khu vực, liên quan tới
nhiều quốc gia – dân tộc khác nhau, có khi bột phát tạo ra những khủng hoảng lớn,
những tranh chấp và xung đột gay gắt, trong quan hệ quốc tế và thế giới. Nó có thể
là tranh chấp, xung đột về lãnh thổ, biên giới, chủ quyền quốc gia, nó cũng có thể là
những xung đột về lợi ích kinh tế, buôn bán thương mại, cũng có thể là những xung
đột về chính trị, ý thức hệ, tôn giáo và văn hóa. Do đó, đoàn kết xã hội là giá trị để

liên kết con người với con người, cá nhân với cộng đồng và xã hội, dân tộc với quốc
tế và thế giới nhân loại. Tính hiện thực vật chất làm xung lực cho sự liên kết này
suy cho cùng là lợi ích, trước hết là những lợi ích thường nhật đảm bảo cho con
người tồn tại, sống một đời sống thực tại của người với tư cách là một con người xã
hội. Cùng với lợi ích còn là những nhu cầu về tính người như danh dự, lòng tự
trọng, phẩm giá. Chính lợi ích thúc đẩy con người, ở mọi thế hệ, mọi thời đại, cho
đến cả loài người hoạt động, tìm kiếm lợi ích, áp dụng những phương thức để thực
hiện lợi ích. Quy luật muôn đời là vậy như việc con người phải có cái ăn, cái mặc,
nhà ở, khí trời để thở, nước để uống,… tồn tại một cách trực tiếp cảm tính trước khi
hoạt động sáng tạo lịch sử, làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Như
C.Mác đã từng khẳng định cái sự thật hiển nhiên đó, điều giản dị như một lẽ thông
thường của lịch sử loài người. C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là tiền đề đầu tiên để
con người tham dự vào lịch sử. Ở đâu, bao giờ và với bất cứ ai, lợi ích vẫn là vấn đề

×