1
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN TRIẾT HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ GIANG
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN NHÀ NƯỚC VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2009
2
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VIỆN TRIẾT HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH&NV
TRẦN THỊ GIANG
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN NHÀ NƯỚC VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Thức
Hà Nội, 2009
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƢ BẢN NHÀ
NƢỚC 10
1.1. Khái niệm, nội dung, hình thức, vai trò của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc 10
1.1.1 Khái niệm, nội dung chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc 10
1.1.2. Những hình thức của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc thời Lênin 18
1.1.3. Vai trò của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong nền kinh tế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội 22
1.2. CNTBNN ở các nƣớc đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH 28
CHƢƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ CNTB
NHÀ NƢỚC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XHCN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 33
2.1. Tính tất yếu để thực hiện CNTB Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN ở nƣớc ta 33
2.2. Tình hình phát triển của CNTB Nhà nƣớc ở nƣớc ta từ năm 1986 đến nay 38
2.3. Những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển CNTBNN theo định hƣớng
XHCN ở nƣớc ta 65
2.3.1. Hoàn thiện môi trƣờng kinh tế-xã hội cho sự phát triển CNTB Nhà
nƣớc 65
2.3.2. Tăng cƣờng sức mạnh kinh tế của Nhà nƣớc để phát triển và sử dụng
có hiệu quả CNTBNN ở nƣớc ta theo định hƣớng XHCN 68
2.3.3. Mở rộng và lựa chọn các hình thức CNTBNN phù hợp với điều kiện
nƣớc ta 71
2.3.4. Tăng cƣờng hiệu quả và hiệu lực thi hành quản lý Nhà nƣớc đối với
hoạt động phát triển kinh tế của đất nƣớc ta. 77
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
4
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNTBNN : CHỦ NGHĨA TƢ BẢN NHÀ NƢỚC
CNXH : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
XHCN : XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
KTTBNN : KINH TẾ TƢ BẢN NHÀ NƢỚC
CNĐQ : CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
CNTB : CHỦ NGHĨA TƢ BẢN
NEP : CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI
TBCN : TƢ BẢN CHỦ NGHĨA
KCX, KCN : KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHIỆP
HTX : HỢP TÁC XÃ
KTTT : KINH TẾ TẬP THỂ
KVKTTNTN : KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG NƢỚC
DNTN : DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
DNNN : DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
DNVN : DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
DN : DOANH NGHIỆP
ĐTNN : ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
CNH, HĐH : CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
NSNN : NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
XNLD : XÍ NGHIỆP LIÊN DOANH
CTCP : CÔNG TY CỔ PHẦN
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân,
công cuộc đổi mới ở nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu to lớn về kinh tế - xã
hội: kinh tế tăng trƣởng khá cao, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đƣợc
đẩy mạnh, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt, vị thế nƣớc ta trên trƣờng
quốc tế không ngừng đƣợc nâng cao. Những thành tựu đó đã chứng tỏ đƣờng lối
đổi mới của nƣớc ta là đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, các văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII,
VIII, IX, X của Đảng ta ngày càng tiếp cận sâu hơn, đầy đủ hơn và hiệu quả hơn
vấn đề chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong bức tranh
toàn cảnh đa dạng hoá sở hữu và các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ X, với tinh thần đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đƣa nƣớc ta khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng ta đề cập tới
vấn đề Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc với chủ trƣơng: Trên cơ sở ba chế độ sở
hữu(toàn dân, tập thể, tƣ nhân), hình thành hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nƣớc, kinh tế tập thể, kinh tế tƣ nhân (cá thể, tiểu chủ, tƣ bản
tƣ nhân),kinh tế tƣ bản nhà nƣớc, kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ra đời gắn với công cuộc đổi
mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo. Tuy mới đƣợc xây
dựng nhƣng đã có những bƣớc phát triển đáng kể trong nhận thức về kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN, song đây vẫn là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức
mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa nghiên cứu để có bƣớc đi phù
hợp, gắn bó giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng Cộng sản, Nhà nƣớc XHCN và nhân dân lao
động. Vì vậy, có nhiều vấn đề cần phải đƣợc tiếp tục đƣợc làm sáng tỏ và nhận
thức thống nhất.
6
Có thể nói rằng, trong thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
thời kỳ đổi mới, không thể không nói đến sự đóng góp quan trọng của CNTBNN.
Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc chiếm một tỷ trọng đáng kể trong vốn đầu tƣ xã hội,
góp phần quan trọng gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ phát triển
công nghiệp và dịch vụ, tạo ra tác động tổng hợp trong việc tăng năng lực sản
xuất, nâng cao trình độ công nghệ đào tạo và bồi dƣỡng một đội ngũ chuyên gia,
các nhà quản lý và công nhân lành nghề, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của nông
thôn và thành thị ở nƣớc ta, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển của
Việt Nam với thế giới.
Trong tình hình đó vấn đề phát triển CNTBNN dƣới sự điều tiết và kiểm
soát của nhà nƣớc Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN là sự cần thiết khách quan. Cho đến nay đã có không ít cuốn sách,
công trình nghiên cứu, bài báo viết về CNTBNN, nhƣng thực tế vẫn còn những
nhận thức khác nhau về khái niệm, nội dung cũng nhƣ xu hƣớng quan điểm và
giải pháp phát triển của CNTBNN. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu CNTBNN
là một công việc cấp thiết. Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: "Quan điểm của Lênin
về Chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc và sự vận dụng trong nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN ở nƣớc ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi Đảng và Nhà nƣớc ta thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, đặc biệt chính sách phát triển kinh tế tƣ bản tƣ nhân và
hƣớng nó vào con đƣờng của chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc cùng với chính sách
đẩy mạnh thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thì hình thức chủ nghĩa tƣ bản Nhà
nƣớc thực sự hình thành và phát triển. Vì thế, việc nghiên cứu về chủ nghĩa tƣ
bản Nhà nƣớc đã thu hút đƣợc giới lý luận và hoạt động thực tiễn ở nƣớc ta quan
tâm.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoan nghênh tƣ bản nhà
nƣớc vào đầu tƣ ở nƣớc ta, nhƣng trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi và bình
đẳng, chứ không phải vào để ràng buộc áp chế. Khi trả lời một nhà báo nƣớc
ngoài phỏng vấn Hồ Chủ Tịch về thái độ của Việt Nam đối với tƣ bản ngoại quốc
7
sau khi giành đƣợc độc lập, Ngƣời nói: Sau 80 năm bị thực dân Pháp vơ vét, bóc
lột và mấy năm bị thực dân Pháp tàn phá, cƣớp bóc, nƣớc Việt Nam độc lập cần
phải ra sức kiến thiết. Bất kỳ nƣớc nào (gồm cả Pháp) thật thà muốn đƣa tƣ bản
đến kinh doanh ở Việt Nam với mục đích làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ
rất hoan nghênh. Bất kỳ nƣớc nào (gồm cả nƣớc Pháp) mong đƣa tƣ bản đến để
ràng buộc áp chế Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt.
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khá công phu
nhƣ cuốn "Mấy vấn đề về chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc" của đồng tác giả Vũ Hữu
Ngoạn - Khổng Doãn Hợi do Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 1993. Trong
cuốn này, hai tác giả đã trình bày một cách tƣơng đối có hệ thống lý luận cơ bản
của V.I.Lênin về chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc và nêu lên những định hƣớng cơ
bản vận dụng lý luận đó vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
- Cuốn Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc
trong những năm đầu thế kỷ XXI của tác giả Lƣơng Việt Hải do Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội 2008.
- Cuốn Về thành phần kinh tế tƣ bản Nhà nƣớc (sách tham khảo) của tác
giả Trần Ngọc Hiên, chủ biên Nxb Chính trị Quốc gia., Hà Nội 2002.
- Cuốn sách "Những đỉnh cao chỉ huy cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới". Ở
cuốn sách này đã trình bày toàn bộ lịch sử kinh tế của thế kỷ XX. Nhƣng bất ngờ
hơn hết cho tất cả mọi ngƣời khi "ông tổ" đầu tiên hiểu và đƣa ra khái niệm những
đỉnh cao chỉ huy lại là ngƣời cộng sản - một lãnh tụ của chủ nghĩa cộng sản
V.I.Lênin.
- Luận án TS Triết học với đề tài: "Học thuyết V.I.Lênin về chủ nghĩa tƣ
bản Nhà nƣớc và sự vận dụng ở thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Nguyễn
Chơn Trung (1996)
Bản Luận án của tác giả chủ yếu đi sâu phân tích thực trạng phát triển của
chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc ở thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó tác giả đề
xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển hơn nữa chủ
nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc ở thành phố Hồ Chí Minh.
8
Luận án TS Triết học với đề tài: “chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin”
của tác giả Lê Thanh Sinh (1999).
Bản luận án đã phân tích một cách sâu sắc vÒ chính sách kinh tế
mới(NEP).
- Ngoài ra còn có những cuộc Hội thảo khoa học về lý luận và thực tiễn
vận dụng chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc đƣợc tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội. Một số công trình nghiên cứu về chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc đã đƣợc
nghiệm thu nhƣ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Kinh tế tƣ bản Nhà nƣớc và
sự vận dụng trên địa bàn Hà Nội" của trƣờng đại học Kinh tế Quốc dân; hoặc đã
đƣợc công bố rải rác trên các sách báo và tạp chí nhƣ các công trình của các tác
giả: Nguyễn Văn Thức, Trần Anh Phƣơng, Nguyễn Thế Nghĩa, Nguyễn Xuân
Quang, Thành Phƣơng, Đặng Hữu Toàn Đã có nhiều bài viết bàn về CNTBNN.
Những công trình này chủ yếu tập trung đi sâu vào khai thác CNTBNN nói
chung. Một số bài viết đã phân tích CNTBNN trong hoạt động thức tiễn nói
chung chứ chƣa đi sâu vào khai thác vai trò của nó trong lĩnh vực cụ thể nên
chƣa làm rõ ý nghĩa thực tiễn, cụ thể của CNTBNN.
Các nghiên cứu trên đây có giá trị khoa học và có ý nghĩa nhất định đối
với thực tiễn đất nƣớc, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Song, các tài liệu trên vẫn còn những điểm chƣa thống nhất về khái niệm,
nội dung của chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc, vẫn chƣa trực tiếp làm rõ vai trò của
CNTB Nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH và nhất là về xu hƣớng phát
triển của CNTB Nhà nƣớc trong thực tiễn của nền kinh tế nƣớc ta hiện nay. Bởi
vậy, Luận văn này kế thừa có chọn lọc và phát triển những công trình nghiên cứu
đã nêu trên nhằm góp phần làm rõ hơn về CNTB Nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Mục đích của luận văn là: Góp phần làm rõ quan điểm củaV.I.Lênin về
CNTBNN và sự vận dụng trong nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn. Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có
các nhiệm vụ:
- Trình bày quan điểm củaV.I. Lênin về chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc
9
- Và sự vận dụng quan điểm củaV.I. Lênin về CNTBNN trong nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn đƣợc viết dựa trên lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trƣớc hết và chủ yếu là lý luận về chủ nghĩa tƣ bản
Nhà nƣớc của V.I.Lênin. Luận văn còn dựa vào các Văn kiện Đảng, và các luận
án, các công trình khoa học liên quan đến đề tài.
- Luận văn sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp logic -
lịch sử, trừu tƣợng hoá và khái quát hoá.
5. Đóng góp mới của luận văn.
- Luận văn góp phần làm rõ quan điểm của V.I.Lênin về CNTB Nhà nƣớc
đồng thời luận chứng một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNTB Nhà nƣớc
với tính cách là một thành phần, bộ phận cấu thành nền kinh tế nƣớc ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm.
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận
văn gồm 2 chƣơng, 5 tiết.
10
CHƢƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, nội dung, hình thức, vai trò của chủ nghĩa tư bản
nhà nước
1.1.1 Khỏi niệm ,nội dung chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khái niệm chủ nghĩa tƣ bản đã
mang một nội dung mới và có một vai trò mới. Lênin đã phân biệt rõ chủ nghĩa
tƣ bản Nhà nƣớc ở trong một xã hội mà chính quyền thuộc về giai cấp tƣ sản và
chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc ở trong một xã hội vô sản đó là hai khái niệm khác
nhau. Sự khác biệt của chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc dƣới chính quyền Xô viết
trƣớc hết là ở tính chất giai cấp của Nhà nƣớc - Nhà nƣớc của giai cấp vô sản. Sự
khác biệt thứ hai là ở tính chất xã hội của chế độ sở hữu về tƣ liệu sản xuất - chế
độ công hữu về đất đai và những cơ sở công nghiệp lớn quan trọng nhất. Nhƣ
vậy, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc dƣới chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa tƣ bản Nhà
nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tuy có cùng một tên gọi giống
nhau nhƣng nội hàm khác nhau: đó là hai sản phẩm của hai trình độ xã hội hoá
khác nhau, hai chế độ xã hội khác nhau. Do đó, nguyên nhân ra đời, bản chất và
hình thức tồn tại cũng khác nhau.
Nguyên nhân ra đời: Về mặt lôgíc và lịch sử thì chủ nghĩa tƣ bản Nhà
nƣớc trong giai đoạn độc quyền là hình thức phát triển cao nhất. Chúng ra đời
bắt nguồn từ bốn nguyên nhân:
Một là, sự ra đời của các tổ chức độc quyền thúc đẩy tích tụ và tập trung
sản xuất, từ đó làm xuất hiện những cơ cấu kinh tế mới với trình độ xã hội hoá
sản xuất cao làm cho độc quyền tƣ nhân không thể thích ứng nổi, buộc độc quyền
Nhà nƣớc phải đủ mức để can thiệp vào đời sống kinh tế.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện một số
ngành cần vốn đầu tƣ rất lớn, tỷ xuất lợi nhuận thấp và thu hồi vốn chậm, Nhà
nƣớc cần phải dùng vốn ngân sách để đầu tƣ.
11
Ba là, cùng với xu hƣớng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trƣớng
của các công ty xuyên quốc gia vấp phải những hàng rào dân tộc và xung đột lợi
ích với các đối thủ trên thị trƣờng thế giới, tình hình đó, đòi hỏi phải có sự điều
tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nƣớc.
Bốn là, sự thống trị của độc quyền làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tƣ bản. Nhà nƣớc cần phải tăng cƣờng vai trò là ngƣời chủ sở hữu kinh
tế đối với những tƣ liệu sản xuất chủ yếu có tính chất quyết định để làm dịu
những mâu thuẫn đó.
Nhƣ vậy, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc ra đời trong lòng chủ nghĩa tƣ bản là
kết quả lôgíc của tích luỹ tƣ bản. Nó vừa biểu hiện trình độ xã hội hoá cao hơn,
vừa là sự phát triển của quan hệ sản xuất ở giai đoạn cao của chủ nghĩa tƣ bản
(chủ nghĩa tƣ bản đế quốc Nhà nƣớc- CNĐQ)
Chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại
ra đời trong bối cảnh khác biệt. Sự ra đời của nó bắt nguồn từ thực tế của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là thừa nhận quan hệ trao đổi, quan hệ thị
trƣờng trong thời kỳ quá độ.
Vào thời kỳ ấy, cách mạng vô sản nƣớc Nga đã giành đƣợc thắng lợi
nhƣng còn lạc hậu về kinh tế, lại đang nằm trong vòng vây của các cƣờng quốc
tƣ bản với sức ép ngày càng lớn.
Vì thế, Nhà nƣớc Xô viết phải nhanh chóng phát huy nội lực và mọi tiềm
năng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý cũng nhƣ trình độ lực
lƣợng sản xuất xã hội hoá để bảo vệ thành quả cách mạng và đƣa đất nƣớc đi lên.
Sự lạc hậu về kinh tế, cộng với sức ép khắc phục hậu quả của chiến tranh
đã mang nguy cơ tiềm ẩn mất ổn định xã hội. Tình hình đó đòi hỏi bằng mọi cách
nƣớc Nga phải phát triển lực lƣợng sản xuất, tạo ra cơ sở kinh tế để củng cố
chính quyền Xô Viết.
Một nƣớc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nền sản xuất
nhỏ, chƣa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tƣ bản, nền kinh tế nông nghiệp còn
phổ biến thì phát triển các quan hệ thị trƣờng là cần thiết. Sự phát triển này tất
yếu nảy sinh các quan hệ tƣ bản chủ nghĩa. Các hình thức của chủ nghĩa tƣ bản
12
Nhà nƣớc ra đời là hình thức có hiệu quả để hƣớng tính tự phát tƣ bản chủ nghĩa
đi vào quỹ đạo đặt dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc vô sản và có lợi cho chủ
nghĩa xã hội.
Trong bƣớc chuyển từ giai đoạn giành chính quyền sang giai đoạn xây
dựng đất nƣớc, trình độ lý luận, tƣ tƣởng và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng
Cộng sản không theo kịp bƣớc ngoặt của tình hình, rất đông cán bộ, đảng viên
còn mang nhiều nhận thức không tƣởng về chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh ấy, tƣ tƣởng sáng tạo của Lênin về chủ nghĩa tƣ bản Nhà
nƣớc đã ra đời.
Nhƣ vậy, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một kiểu chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc hoàn toàn khác về nguồn gốc so
với chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc dƣới chủ nghĩa tƣ bản.
Tuỳ theo từng giác độ xem xét, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc mang những
nội dung sau:
Xét về giác độ kết cấu kinh tế xã hội thì chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc đƣợc
coi là một thành phần kinh tế hay còn gọi là một bộ phận kinh tế tƣ bản Nhà
nƣớc.
Lênin cho rằng: Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó
kết cấu kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái
dần, vừa bao hàm những yếu tố xã hội mới đang ra đời, đang lớn lên từng bƣớc
nhƣng chƣa giành toàn thắng.
Lênin viết: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có phải
nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không?” [22, tr.248].
Lênin đã chỉ ra trong kết cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội gồm 5 thành phần kinh tế : Kinh tế nông dân
kiểu gia trƣởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên, sản xuất hàng hoá
nhỏ; chủ nghĩa tƣ bản tƣ nhân, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc và chủ nghĩa xã
hội. Các thành phần đó xen kẽ nhau. Đặc điểm này không chỉ tồn tại ở nƣớc
13
Nga mà còn phổ biến đối với tất cả những nƣớc chƣa có cơ sở vật chất kỹ thuật
ở vào trình độ xã hội hoá cao.
Lênin cũng chỉ ra rằng, với những nƣớc tiểu nông quá độ lên chủ nghĩa
xã hội thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế cũ, không thể đập
tan ngay các cơ cấu kinh tế - xã hội cũ đƣợc mà phải “chấn hƣng” nó. Với tƣ
tƣởng ấy, thành phần chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc cùng với các thành phần kinh
tế khác là những thực tế khách quan tồn tại trong kết cấu kinh tế - xã hội của
thời kỳ quá độ.
Cũng nhƣ phƣơng thức sản xuất, mỗi thành phần kinh tế bao gồm một
lực lƣợng sản xuất với quan hệ sản xuất theo một kiểu nhất định, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất ấy. Do đó, tiêu thức cơ bản để phân
định thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu.
Bởi vậy, nếu tiếp cận chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc dƣới khía cạnh sở hữu thì
đƣơng nhiên phải thừa nhận rằng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là một thành phần
kinh tế. Nhƣ đã đề cập ở trên, khi nói về thời kỳ quá độ, chính Lênin đã xếp chủ
nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là một thành phần kinh tế, và mặc dù không chỉ rõ thành
phần này dựa trên chế độ sở hữu nào, nhƣng khi giải thích vì sao dùng danh từ
chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc, Lênin đã nói: “Điều mà tôi luôn luôn quan tâm tới là
mục đích thực tiễn”. Mục đích thực tiễn ấy chính là việc tìm ra những hình thức
cụ thể để thực hiện. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của nƣớc Nga thời đó, Lênin
đã chỉ ra những hình thức kinh tế cụ thể của chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc (sẽ trình
bày cụ thể ở phần sau).
Xét theo quá trình vận động của nền kinh tế theo quy luật phát triển tự
nhiên: Kinh tế tự cung tự cấp sẽ chuyển lên kinh tế hàng hoá, kinh tế hàng hoá
nhỏ, và kinh tế hàng hoá tƣ bản chủ nghĩa sẽ thụng qua các hình thức của chủ
nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc mà hƣớng lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, đến một giai
đoạn nhất định, chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc (hiểu theo nghĩa rộng) sẽ bao trùm
phần lớn kinh tế quốc dân. Chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc với nghĩa đó đƣợc coi là
một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đặc thù để đƣa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
14
Theo quan niệm của Lênin, chủ nghĩa cộng sản chỉ xuất hiện một cách tự
nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội đã sẵn sàng. Tuy nhiên, thắng
lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga lại không xuất phát từ tiền đề nói trên. Bài
học rút ra từ chính sách cộng sản thời chiến trong thời kỳ đầu của chính quyền
Xô viết đã cho thấy rằng, từ một nƣớc tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội thì không
thể trực tiếp tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa mà phải thông qua việc trao
đổi hàng hoá, qua sản xuất hàng hoá hay còn gọi là kinh tế thị trƣờng. Kinh tế
hàng hoá không phải là kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tƣ bản chỉ là giai
đoạn phát triển cao của nền kinh tế ấy và chủ nghĩa xã hội với tính cách là chế độ
xã hội chỉ có thể trở thành hiện thực khi biết tiếp thu có chọn lọc nền kinh tế thị
trƣờng văn minh ấy.
Bởi vì, Không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ
nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ
nghĩa tư bản đã thu được
Sản xuất hàng hoá chính là cách thức tổ chức kinh tế xã hội ứng với trình
độ phát triển nhất định của lực lƣợng sản xuất. Công lao lịch sử của chủ nghĩa tƣ
bản là đã thực hiện sự chuyển hoá nền kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hoá và
chuyển hoá nền kinh tế hàng hoá thành nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, kinh tế thị
trƣờng tƣ bản chủ nghĩa. Đó chính là quá trình xã hội hoá đã diễn ra dƣới chủ
nghĩa tƣ bản.
Cho nên, để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nƣớc tiểu nông thì phải
tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng. ở
đây, chính quyền dƣới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân đồng thời
phải thực hiện ba sự chuyển hoá: Từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng
hoá; từ nền kinh tế hàng hoá thành nền kinh tế hàng hoá tƣ bản chủ nghĩa; từ nền
kinh tế hàng hoá tiểu tƣ bản và tƣ bản, thành nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, với tính cách là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xã hội hoá
xã hội chủ nghĩa trong thực tế.
15
Cũng chính từ việc tự do mua bán và phát triển kinh tế thị trƣờng mà có
sự liên hợp nền sản xuất nhỏ lại làm phát triển mối quan hệ kinh tế đặc biệt là sự
hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Hơn nữa, sự hình
thành đó còn nhiều hơn trƣớc và ở cả những nơi mà trƣớc kia nó không nảy nở
đƣợc. Do vậy, trong nền kinh tế sẽ xuất hiện và hình thành những cơ sở kinh
doanh tƣ bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong lòng chuyên chính vô sản. Thành
phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân tồn tại và phát triển nhƣ một tất yếu khách quan
trong nền kinh tế quá độ. Việc hƣớng kết cấu đó vào con đƣờng chủ nghĩa tƣ bản
nhà nƣớc cùng với việc “du nhập” tƣ bản nƣớc ngoài dƣới nhiều hình thức sẽ
hình thành và phát triển trong nền kinh tế quá độ một thành phần kinh tế khách
quan chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc. Thành phần kinh tế này cùng với các thành
phần kinh tế khác cấu thành nên tính chất đa dạng của nền kinh tế quá độ, làm
xuất hiện một chế độ sở hữu mang tính phổ biến, đó là chế độ sở hữu hỗn hợp
với nhiều hình thức dƣới sự điều tiết của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣ một kiểu
sản xuất xã hội đặc thù để đƣa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ngoài hai nội dung trên, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc còn mang nội dung
khác phân biệt với chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc dƣới chủ nghĩa tƣ bản, đó là:
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là hệ thống, phương sách, phương pháp điều
tiết đặc biệt của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trƣớc hết, sự có mặt của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ
đƣợc Lênin gắn liền với tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế quá độ mà ở
đó, kinh tế tƣ bản tồn tại một cách khách quan trong điều kiện đó, một mặt, (giai
cấp vô sản bắt buộc phải để chủ nghĩa tƣ bản tham gia vào sự nghiệp của mình)
và mặt khác, muốn không làm thay đổi bản chất của mình, Nhà nước vô sản có
thể thừa nhận cho thương nghiệp tự do và chủ nghĩa tư bản được phát triển
trong chừng mực nào đó và chỉ với điều kiện là thường nghiệp tư nhân và tư bản
tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước.
Vì vậy, chính sách của nhà nƣớc vô sản đối với thành phần kinh tế này
chung quy là:
16
Sử dụng khả năng kinh tế - kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức của tƣ
bản tƣ nhân để phát triển lực lƣợng sản xuất.
Thực hiện kiểm kê kiểm soát đặc biệt đối với các hoạt động của tƣ
bản tƣ nhân dƣới nhiều hình thức, hƣớng chúng vào phục vụ lợi ích của chủ
nghĩa xã hội.
Chính sách đó, suy cho cùng vẫn là nhà nƣớc trực tiếp khống chế các xí
nghiệp tƣ bản chủ nghĩa, là sự điều tiết của nhà nƣớc đối với quan hệ kinh tế tƣ
bản chủ nghĩa đƣợc tính toán, kiểm soát và xã hội hoá.
Theo Lênin thì: Tất cả vấn đề về lý luận cũng nhƣ trên thực tiễn là tìm ra
những phƣơng pháp đúng, giúp nhà nƣớc hƣớng sự phát triển không tránh khỏi
(đến một trình độ nào đó và một thời gian nào đó) của chủ nghĩa tƣ bản vào con
đƣờng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc.
Mặt khác, Lênin cũng chỉ ra rằng: Với sức mạnh của mình, nhà nước vô
sản lại nắm chắc trong tay những vị trí chủ yếu của nền kinh tế, thông qua các
mối quan hệ trực tiếp, hệ thống chính sách và đòn bẩy kinh tế, thông qua luật
pháp bằng biện pháp kết hợp giáo dục và cưỡng bức thì việc áp dụng rộng rãi hệ
thống điều tiết và kiểm soát của nhà nước đối với tất cả các quan hệ kinh tế tư
bản chủ nghĩa đang tồn tại là điều có thể thực hiện được.
Theo nghĩa đó, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội xét về mặt nội dung đƣợc quan niệm không chỉ là một chính sách
kinh tế của giai cấp vô sản đối với tƣ bản tƣ nhân, nhƣ một số ngƣời quan niệm,
và càng không phải là một chính sách cụ thể nhƣ những chính sách cụ thể khác,
mà nó còn là một hệ thống phƣơng sách, phƣơng pháp điều tiết cụ thể điều tiết
đặc biệt của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là sự can thiệp của nhà nƣớc vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, thực ra không phải là sản phẩm riêng có của các nền kinh
tế, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc xuất hiện vào
giai đoạn độc quyền duy trì địa vị thống trị v× lợi ích kinh tế của mình.Ở các nƣớc
17
phát triển theo định hƣớng tƣ bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là chỗ
dựa của nhà nƣớc về kinh tế và là một lực lƣợng để giai cấp tƣ sản trong nƣớc
cạnh tranh với tƣ bản ngoài nƣớc.
Tuy nhiên, việc sử dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin là ngƣời đầu tiên đƣa ra ý tƣởng này vào năm
1921 ở nƣớc Nga trong Chính sách kinh tế mới(NEP), sau thử nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội bằng “con đƣờng trực tiếp” (qua hệ kinh tế hiện vật) không
thành công.
Theo Lênin, từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ
qua giai đoạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa cần thiết phải khôi phục trở lại qan hệ
hàng hóa - tiền tệ và sự phát triển của sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, sự phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa tất yếu sẽ dẫn đến giàu nghèo và làm
phát sinh trở lại quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Nhƣng không vì thế mà có
thể ngăn cấm nó. Vấn đề là phải tìm cách hƣớng các quan hệ sản xuất tƣ bản
chủ nghĩa ấy vận động theo quỹ đạo chung của nền kinh tế quá dộ lên chủ nghĩa
xã hội. Theo V.I.Lênin, cách tốt nhất là hƣớng chúng vào con đƣờng của chủ
nghĩa tƣ bản nhà nƣớc.
Luận giải về chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc và thực tiễn nƣớc Nga khi đó,
V.I.Lênin cho rằng, trong điều kiện một nƣớc tiểu nông kém phát triển , tiềm lực
kinh tế, kỹ thuật nhỏ bé, cần phải mƣợn tay, mƣợn sức của giai cấp khác (nông
dân, tƣ sản, tiểu tƣ sản) để hoàn thành sự nghiệp đó với tƣ cách phƣơng pháp, thủ
đoạn chứ không phải là mục đích của cách mạng. Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc
trong khuôn khổ đó, trở thành hình thức quá độ để vừa mƣợn đƣợc sức của các
giai cấp khác, vừa đảm bảo đƣợc tính chất xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa nhƣ vậy, quan điểm sử dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trở thành tƣ
tƣởng trung tâm của NEP.
Vậy, thực chất của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong thời kỳ chuyên chính
vô sản là gì? Theo V.I.Lênin:Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc chính là sự (kết hợp,
liên hợp, phối hợp giữa nhà nƣớc Xô viết – nền chuyên chính vô sản với chủ
nghĩa tƣ bản) [22. Tr.268]. Đó là công cụ để đấu tranh chống khuynh hƣớng tự
18
phát tƣ bản chủ nghĩa khi sản xuất hàng hóa và chính sách tự do trao đổi đƣợc
khôi phục và khuyến khích phát triển trở lại.
1.1.2. Những hình thức của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc thời Lênin
V.I.Lênin không chỉ là ngƣời Mác xít đầu tiên xây dựng nền tảng lý luận
về chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc kiểu mới, mà còn là ngƣời trực tiếp chỉ đạo việc
thực hiện chủ trƣơng này trong thực tiễn. Và mặc dù chƣa hình dung hết tất cả
mọi hình thức chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc, nhƣng Lênin cũng vạch ra đƣợc một
số hình thức cụ thể áp dụng trong những năm đầu của chính quyền XôViết.
Những hình thức cụ thể đó là:
* Hình thức tô nhượng:
Lênin quan niệm tô nhƣợng là sự liên kết, liên minh giữa chính quyền Nhà
nƣớc Xô Viết với chủ nghĩa tƣ bản các nƣớc tiên tiến, đó là: Hợp đồng giữa Nhà
nƣớc và một số nhà tƣ bản, Nhà nƣớc vô sản giao cho họ đƣợc quyền kinh doanh
khai thác khoáng sản, canh tác hay xây dựng một thời hạn nhất định. Hợp đồng
quy định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngƣời nhận tô nhƣợng, trong đó có việc chia
sản phẩm, lợi nhuận nộp thuế, hết hạn hợp đồng các tài sản trên lại thuộc về
quyền sở hữu của Nhà nƣớc. Hình thức đặt biệt này càng có ý nghĩa trong những
trƣờng hợp mà Nhà nƣớc không có khả năng đầu tƣ, không đủ năng lực kỹ thuật
để khai thác…
Theo Lênin, tô nhƣợng nhằm ba mục đích:
Một là, nhằm tạo công ăn việc làm, cải thiện nhanh chóng đời sống của
ngƣời lao động. Lênin cho rằng: áp dụng một cách chừng mực và thận trọng
chính sách tô nhƣợng nhất định sẽ giúp cho chúng ta cải thiện đƣợc nhanh chóng
ở một mức độ nào đó tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân.
Hai là, đó là sự liên minh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tƣ bản Nhà
nƣớc chống lại sự phát triển tự phát tƣ hữu đang liên minh với chủ nghĩa tƣ bản
tƣ nhân. Sự liên minh đó làm nền tảng đƣa tất cả các thành phần kinh tế đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nhằm mục tiêu đạt tới lợi ích cả hai phía: Về phía nhà tƣ bản, họ
kinh doanh theo phƣơng thức tƣ bản để lấy lợi nhuận; họ đồng ý thoả thuận với
19
chính quyền vô sản để cốt thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có đƣợc loại
nguyên liệu quý hiếm mà họ không thể tìm đƣợc hay khó tìm đƣợc bằng cách
khác. Dĩ nhiên, chúng ta phải “hy sinh” một phần lợi nhuận, có khi là khoản
lợi nhuận to lớn cho nhà tƣ bản nhận tô nhƣợng, nhƣng nếu thành công sẽ du
nhập đƣợc sản xuất lớn hiện đại, tạo ra việc làm và tăng sản phẩm xã hội, xây
dựng những xí nghiệp kiểu mẫu cho chủ nghĩa xã hội ngang với chủ nghĩa tƣ
bản hiện đại.
Rõ ràng, chế độ tô nhƣợng có ý nghĩa rất lớn, không những làm tăng sức
sản xuất - điều hết sức quan trọng đối với Nhà nƣớc Nga lúc bấy giờ – thông qua
chế độ tô nhƣợng, quan hệ sản xuất tiên tiến đƣợc xác lập.
Đánh giá về tính chất của hình thức tô nhƣợng, Lênin cho rằng, so với
những hình thức của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong lòng chế độ Xô viết thì chủ
nghĩa tƣ bản nhà nƣớc dƣới hình thức tô nhƣợng là hình thức đơn giản, rõ ràng,
dễ tiếp thu. Tuy nhiên, không phải là sự chấp nhận vô điều kiện, phải suy nghĩ
cân nhắc tính toán hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhƣợng và sau đó phải giám
sát việc chấp hành nó.
Vì vậy, Lênin đã đề ra những nguyên tắc cần thiết khi thực hiện chế độ tô
nhƣợng. Mấu chốt của những nguyên tắc đó, là nhằm vào việc tạo điều kiện
thuận lợi cho việc ký hợp đông, bảo đảm lợi ích cho cả hai phía trong quá trình
thực hiện tô nhƣợng nhƣ: mức lợi nhuận mà các công ty tƣ bản nƣớc ngoài thu
đƣợc, các điều kiện hoạt động và tiền lƣơng trả cho chuyên gia nƣớc ngoài cũng
nhƣ trách nhiệm cải thiện đời sống của công nhân trong xí nghiệp tô nhƣợng và
việc tôn trọng pháp luật của Nhà nƣớc Xô viết.
* Hình thức hợp tác xã:
Hay còn gọi là chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc - hợp tác xã. Đây là hình thức
liên minh giữa nhà nƣớc vô sản với hàng triệu ngƣời sản xuất nhỏ, là sự kết hợp
lợi ích tƣ nhân với sự giúp đỡ và kiểm soát của nhà nƣớc đối với những lợi ích
đó, làm cho lợi ích tƣ nhân phục tùng lợi ích chung của xã hội. Với giải pháp kết
hợp lợi ích có thể tránh đƣợc sự cƣỡng bức nông dân vào hợp tác xã, xoá bỏ sở
hữu cá thể của nông dân, bảo đảm quyền tƣ hữu tài sản và tự do buôn bán nhƣng
20
hạn chế tình trạng tự phát và phân hoá tƣ bản chủ nghĩa. Đây là con đƣờng duy
nhất đúng để đƣa hàng triệu ngƣời sản xuất nhỏ theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
Vì vậy, Lênin coi loại hình hợp tác xã của những ngƣời tƣ hữu nhỏ về
hình thức giống nhƣ chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc “ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi
cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi những quan hệ đã ghi trong hợp đồng” và
“nếu xét về mặt hình thức thương nghiệp thì hợp tác xã có lợi ích hơn thương
nghiệp tư nhân chẳng những vì lý do kể trên, mà còn vì nó tạo điều kiện thuận lợi
cho việc liên hợp và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng, và tình
trạng ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ nghĩa tư
bản Nhà nước lên chủ nghĩa xã hội” [22, tr.272].
Lênin khẳng định: “hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư
bản Nhà nước đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn, và vì thế
trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn hơn” [22, tr.
271].
Nhƣng đồng thời Lênin cũng nói, khi các tƣ liệu sản xuất đã thuộc về xã
hội, giai cấp vô sản, thì chế độ của ngƣời xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Theo Lênin, có hai loại hợp tác xã của những ngƣời sản xuất nhỏ cá thể,
sự tham gia của họ vào hợp tác xã nhƣng vẫn không xoá bỏ tƣ cách ngƣời chủ sở
hữu tƣ nhân của hợp tác xã nhƣng vẫn duy trì những quan hệ tiền tƣ sản và tƣ
bản chủ nghĩa, hơn nữa còn phát triển những quan hệ đó, đẩy mạnh những quan
hệ đó lên hàng đầu, đó là chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc - hợp tác xã. Còn những hợp
tác xã văn minh, những hợp tác xã không khác với xí nghiệp xã hội chủ nghĩa,
những hợp tác xã mang tính chất xã hội chủ nghĩa mà Lênin nói tới là những hợp
tác xã dựa trên sở hữu tập thể, lao động tập thể bình đẳng của những xã viên,
thành viên hợp tác xã.
Nhƣ vậy, trong điều kiện chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân –
Nhà nƣớc Xô Viết, thì ngoài hình thức hợp tác xã - xã hội chủ nghĩa, còn có một
21
hình thức hợp tác xã - tƣ bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết và đƣợc coi là
một hình thức chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc - hợp tác xã.
* Hình thức công ty hợp doanh:
Đây là một loại hình chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc hỗn hợp, trong đó “vừa
có các nhà tư bản tư nhân Nga và tư bản nước ngoài, vừa có những người cộng
sản cùng tham gia” [22,tr.97].
Thực chất của công ty hợp doanh, theo Lênin là ở chỗ: Những công ty này
đều biểu hiện việc chúng ta, những ngƣời cộng sản, áp dụng những công thức
buôn bán, những phƣơng thức tƣ bản chủ nghĩa.
Còn để công ty hợp doanh hoạt động có hiệu quả, theo Lênin, trƣớc hết,
nhân tố quyết định là đội ngũ cán bộ làm việc trong liên doanh, họ phải làm việc
không kém gì những nhà tƣ bản, vì họ có ƣu thế hơn các nhà tƣ bản, và vì chính
quyền Nhà nƣớc cũng nhƣ nhiều phƣơng tiện quan trọng trong tay họ.
Hai là, để các công ty hợp doanh ra đời và hoạt động tốt, ngƣời cộng sản phải
biết tôn trọng lợi ích của tƣ bản và có thái độ cộng sự thân ái với tƣ bản, những nhà
tƣ bản sẽ không đến với chúng ta, nếu không có những điều kiện tối thiểu cho họ
hoạt động và nếu không có thái độ thân ái cộng tác với họ.
* Hình thức cho tư bản tư nhân thuê tài sản của nhà nước.
Đây là hình thức nhà nƣớc cho các nhà kinh doanh tƣ nhân tƣ bản thuê
một xí nghiệp, hoặc vùng mỏ, khu rừng, khu đất… Phƣơng thức cho thuê là
thông qua một hợp đồng giữa nhà nƣớc với nhà tƣ bản. Hình thức này giống nhƣ
hình thức tô nhƣợng nhƣng khác đối tƣợng nhận tô nhƣợng không phải là nhà tƣ
bản nƣớc ngoài mà là nhà tƣ bản trong nƣớc. Một kiểu “tô nhƣợng nội địa”.
Chính hình thức cho thuê này đã tạo điều kiện mới cho nền kinh tế phát triển với
tốc độ nhanh. Ngƣời đƣợc thuê tài sản có thể nộp tô cho nhà nƣớc bằng tiền hoặc
hiện vật (có thể 30% số than khai thác đƣợc).
* Hình thức gia công đặt hàng, đại lý:
Đây là hình thức chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc, trong đó nhà nƣớc lôi kéo
các nhà tƣ bản gia công một số chi tiết hàng hoá, bỏ vốn thuê lao động và tổ chức
22
các cửa hàng để bán hàng hoá của nhà nƣớc. Đồng thời, giao cho họ cả việc thu
mua sản phẩm trên thị trƣờng tự do.
Làm nhƣ vậy Nhà nƣớc vừa liên kết đƣợc trực tiếp với các nhà tƣ bản,
một mặt thực hiện đƣợc sự kiểm kê, kiểm soát đối với họ, lôi kéo họ đi dần vào
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác sử dụng đƣợc tiền vốn, tay nghề của họ,
thông qua họ mà dẫn dắt nông dân thi theo sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là một số hình thức chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc cụ thể đã đƣợc
thực hành trong thực tiễn nƣớc Nga thời NEP. Nhƣng theo Lênin thì chủ nghĩa tƣ
bản Nhà nƣớc không chỉ bó hẹp trong những hình thức cụ thể đó, mà “ ở chỗ
nào có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa
nói chung, thì ở đó, có chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình
thức khác, ở trình độ này hay trình độ nọ” [22, tr.268].
Có nghĩa là: ở đâu, ở lĩnh vực nào có quan hệ tƣ bản chủ nghĩa thì ở đó có
quan hệ kiểm kê, kiểm soát của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa và do đó có những
hình thức chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc.
Từ quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: Để xác định một hình thức kinh tế
có phải thuộc loại hình chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc hay không, trƣớc hết phải lấy
quan hệ sở hữu làm cơ sở. Mặt khác, phải lấy quan hệ kiểm kê, kiểm soát làm cơ
sở. Một tổ chức nào đó đƣợc hình thành giữa Nhà nƣớc và tƣ bản tƣ nhân trên cơ
sở những thoả thuận hợp đồng (những hình thức này thể hiện qua việc Nhà nƣớc
cho thuê tài sản, cho khai thác tài nguyên, Nhà nƣớc quy định mục đích hoạt
động ràng buộc bằng pháp luật và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nƣớc), với
những hình thức cụ thể đều thuộc chủ nghĩa tƣ bản Nhà nƣớc.
Điều này có ý nghĩa phƣơng pháp luận quan trọng đối với việc phân định
và lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ trong thực tiễn để từ đó quyết định
những chính sách phù hợp đối với từng loại hình tổ chức sản xuất.
1.1.3. Vai trò của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong nền kinh tế quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc
đƣợc vận dụng ở các nƣớc mà điều kiện vật chất, kinh tế hiện có chƣa tiến đến
23
“phòng chờ” đi vào chủ nghĩa xã hội, nên nó có một vai trò đặc biệt quan trọng
đối với việc chuyển nền kinh tế đi qua “phòng chờ” ấy để vào đƣợc chủ nghĩa xã
hội. Điều đó thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc có vai trò quan trọng, góp phần vào
việc giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài
nƣớc để phát triển lực lƣợng sản xuất và tăng trƣởng kinh tế.
Năm 1921, khi đƣa ra chủ trƣơng phát triển chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc ở
nƣớc Nga, Lênin đã phân tích và chỉ cho nhân dân thấy rõ nƣớc Nga vào thời kỳ
đó là một nƣớc tiểu nông, chƣa có cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn
dựa trên nền tảng đại công nghiệp cơ khí, hơn nữa đất nƣớc lại bị tàn phá nặng nề
trong chiến tranh. Do đó chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là những hình thức kinh tế có
vai trò quan trọng trong việc trực tiếp tạo ra những tiền đề vật chất đó cho chủ
nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc mà Lênin không ngừng đấu tranh về lý luận và
thực tiễn để vận dụng vào nƣớc Nga trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế
mới là nhằm mục đích phát triển lực lƣợng sản xuất, xây dựng nền sản xuất đại
công nghiệp của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh tế, là thực
hiện quá trình xã hội hoá sản xuất nhƣ là những điều kiện cần thiết khách
quan để tổ chức và quản lý kinh tế trong quá trình chuyển lên chủ nghĩa xã
hội.
Xuất phát từ trình độ phát triển còn thấp của nền kinh tế khi bƣớc vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện kinh tế chƣa đủ chín muồi để
cho phép chuyển trực tiếp, hay tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện
nhƣ vậy thì sự tiến bộ kinh tế, sự phát triển nền kinh tế hàng hoá của những
ngƣời sản xuất nhỏ là một tất yếu không thể tránh khỏi và là cần thiết và đó là
một quá trình khách quan.
Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại phát triển của các quan hệ
tƣ bản chủ nghĩa, các quan hệ thị trƣờng. Sự phát triển của “loại chủ nghĩa tƣ bản
này” lại đồng thời là quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất. Và điều đó cũng có
nghĩa, nó chính là phƣơng thức phát triển lực lƣợng sản xuất đặc trƣng cho nền
24
sản xuất hàng hoá nhỏ. Ngăn cấm sự phát sinh, phát triển các quan hệ tƣ bản chủ
nghĩa này tức là bóp chết mọi sự phát triển của sản xuất hàng hoá nhỏ, là làm cho
quá trình cải tạo nền kinh tế này trở thành đối lập và kìm hãm sự phát triển của
lực lƣợng sản xuất.
Lênin viết: “Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu
sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư
bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao
đổi; Bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cỏch hướng
nú vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền
tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên” [22, tr.276].
Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc với những
hình thức của nó không kìm hãm mà ngƣợc lại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của kinh tế thị trƣờng và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc nhằm phát triển sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Cái mà chúng ta cần lại là cái mà chủ nghĩa tƣ bản hiện đại và các công ty
xuyên quốc gia đang nắm ƣu thế. Là hình thức tổ chức kinh tế thị trƣờng hiện
đại, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc cho phép huy động các nguồn lực phát triển từ
mọi thành phần, mọi chủ thể trong nƣớc và ngoài nƣớc, tập trung chúng lại cho
mục tiêu tăng trƣởng kinh tế đã đƣợc Đảng và nhà nƣớc lựa chọn. Với ý nghĩa
đó, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển lực
lƣợng sản xuất, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế ở nƣớc ta.
Thứ hai, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc còn có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc cung cấp công nghệ mới, hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.
Nhƣ Lênin đã chỉ rõ là không có kỹ thuật đại tƣ bản chủ nghĩa đƣợc xây
dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì không thể có chủ
nghĩa xã hội và ngƣời đã so sánh chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn
rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta.
Khi nói về vai trò tô nhƣợng trong việc du nhập những thiết bị, công nghệ
sản xuất hiện đại của các nƣớc tƣ bản công nghiệp tiên tiến, Lênin cho rằng,
25
nƣớc Nga sẽ không tự lực khôi phục đƣợc nền kinh tế của mình nếu không có
thiết bị kỹ thuật của nƣớc ngoài. Do đó, cần thiết cho nƣớc ngoài tô nhƣợng
những vùng mỏ, rừng, thậm chí cả một phần khu rừng tốt nhất của nƣớc Nga cho
các công ty tƣ bản quốc tế lớn nhất với mục đích qua đó mà nƣớc Nga du nhập
đƣợc những thiết bị tối tân nhất để lập ra các cơ sở kinh tế có tầm chiến lƣợc
quốc gia.
Trong điều kiện nƣớc Nga lúc đó thì dù có phải trả giá đắt cho những
hợp đồng tô nhƣợng cũng phải làm vì nếu không thì: nƣớc Nga không bị diệt
vong thì cũng sẽ tiếp tục bị chìm đắm trong đƣờng hầm của sự lạc hậu và tụt
hậu không thể xây dựng đƣợc hay phát triển đƣợc các ngành công nghiệp
hiện đại, và do đó “không thể tiếp tục tiến lên trên con đƣờng đi tới chế độ
cộng sản”.
Thứ ba, thông qua việc thực hành các hình thức kinh tế chủ nghĩa tƣ bản
nhà nƣớc, tự nó đã là trƣờng học về công tác tổ chức quản lý nền kinh tế theo lối
đại công nghiệp và đó cũng là cơ sở tạo ra những yếu tố vật chất chiến thắng sự
hỗn độn vô tổ chức kém hiệu quả của nền tiểu sản xuất và kinh tế tƣ nhân. Trong
những điều kiện nhất định dù có phải chịu chút ít thiệt thòi nào đó cho nhà tƣ bản
thì âu đó cũng là “học phí” cần thiết để giai cấp công nhân không ngừng nâng
cao trình độ năng lực quản lý. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
việc tăng cƣờng vai trò của nhà nƣớc vô sản, khi trình độ văn hoá còn thấp kém,
cán bộ chƣa am hiểu về quản lý, chƣa biết cách tổ chức sản xuất trên quy mô lớn.
Khi nhà nƣớc nắm đƣợc phƣơng pháp quản lý thị trƣờng thì nhà nƣớc mới
đủ sức tổ chức và hƣớng dẫn nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện
đại, mới đủ sức kiểm kê, kiểm soát hoạt động của các thành phần kinh tế, mới
biết cách tạo môi trƣờng, khuôn khổ pháp lý cho tính chủ động sáng tạo của các
doanh nghiệp.
Thứ tư, chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc là phƣơng thức kiểm kê, kiểm soát có
hiệu quả của nhà nƣớc đối với nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ trong quá trình
phát triển.