Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động trong quá trình thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.14 KB, 95 trang )





đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn
= = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = = =

Trần thị chiều


Nâng cao chất l-ợng nguồn lực lao động
trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở thái bình hiện nay


Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vậy biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 5.01.02



Luận văn Thạc sĩ Triết học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
T.S. D-ơng Văn Thịnh


Hà Nội - 2006
MỤC LỤC


trang
MỞ ĐẦU
5
Chương 1: CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG YÊU
CẦU CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐỐI VỚI CHẤT
LƯỢNG NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG


11
1.1. Một số khái niệm cơ bản
11
1.2. Vai trò của chất lượng nguồn lực lao động đối với sự phát triển
kinh tế xã hội

18
1.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và những yêu cầu của
nó đối với việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động


22
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY


37
2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình
37
2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng nguồn lực lao động ởThái Bình
53

2.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực lao động đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình


68
KẾT LUẬN
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88









5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã khẳng định: thời
kỳ mới trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta là thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cũng tại đại hội này Đảng ta đã chỉ
rõ: để đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến thắng lợi, cần phải
phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực và với tư cách là yếu
tố cơ bản, là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển nhanh và bền vững. “ Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam
là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại

hoá”[20, 21].
Với tính cách là nguồn lực quyết định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, con người vừa là chủ thể vừa là phương tiện (công cụ) của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Là chủ thể, con người đóng vai trò quyết định
trong khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên, vốn, khoa học và kỹ thuật…để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; con người là yếu
tố không thể thiếu, quyết định sự thành bại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
đồng thời chính con người là đối tượng được thụ hưởng những thành quả của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và điểm mấu chốt con người, sự phát
triển con người, hạnh phúc của con người là mục tiêu tối cao của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, con người được coi là vị trí trung tâm trong toàn bộ
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá do con
người và vì con người. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đang
diễn ra với tốc độ nhanh chóng, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp; tiềm năng trí tuệ và kỹ năng lao động cao thì vai trò của con
người trong sự phát triển đặc biệt quan trọng.

6
Nước ta có lực lượng lao động dồi dào, trẻ, cần cù thông minh, sáng tạo
và ham học hỏi. Hơn 38 triệu lao động (chiếm 50% dân số). Trong số đó có
70 vạn người có trình độ đại học, trên 8.000 tiến sĩ và phó tiến sĩ, trên 3 triệu
cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật. Đây là một độ ngũ đáng quý, không
ít quốc gia mong muốn có được [7, 545 - 546]. Song đáng tiếc là chúng ta đã
và đang làm lãng phí nguần tài nguyên ấy. Điều đó đã dẫn tới một thực tế là
lực lượng lao động ở nước ta hiện nay bộc lộ không ít những hạn chế chưa thể
đáp ứng được yêu cầu làm việc trong điều kiện áp dụng công nghệ mới,
cường độ lao động cao.
Trong khung cảnh chung đó, Thái Bình là một tỉnh đông dân (1,83 triệu
người), lao động dồi dào (1073 ngàn người chiến khoảng 58,6% dân số của
tỉnh). Đó là nguồn nội lực hết sức quý báu và to lớn. Nhưng thời đại ngày

nay, quy mô lực lượng lao động lớn trong điều kiện chất lượng, năng suất lao
động thấp, lao động phổ thông, chưa qua đào tạo lại là nhân tố hạn chế sự
phát triển. Do đó, nghiên cứu để phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn
lực lao động xã hội nói riêng vẫn là đề tài luôn được sự chú ý, quan tâm của
xã hội và sự đòi hỏi cấp thiết trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Nhận thức rõ vai trò của nguồn lực lao động đối với sự phát trển kinh tế
xã hội, tại Đại hội Đảng bộ Thái Bình lần thứ 16 khẳng định: “Phát triển khoa
học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, coi trọng và phát huy nhân tố con người”.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn lực lao động ở Thái Bình nhằm
đánh giá đúng đắn thực trạng, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao
chất lượng nguồn lực lao động của tỉnh là một đòi hỏi bức xúc có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Hơn nữa, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là một chủ trương lớn của Đảng, để biến chủ trương ấy thành
hiện thực phải có đội ngũ lao động chất lượng cao, với ý tưởng đó, tôi chọn
đề tài: “Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động trong quá trình thực hiện

7
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động là một trong những vấn đề có
tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia nói chung và ở Việt
Nam nói riêng.
Ở nước ta, liên quan đến chủ đề luận văn đã có nhiều công trình khoa
học, nhiều nhà nghiên cứu có bài viết xung quanh vấn đề này tiêu biểu như:
Chương trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước: “Con người Việt
Nam. Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” mã số KX – 07
của tập thể tác giả do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần
300 nhà khoa học có uy tín thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Công trình
này đã nghiên cứu con người Việt Nam truyền thống và hiện đại, thực trạng

và vấn đề đào tạo lại đội ngũ nhân lực,… Đặc biệt là công trình này đã đưa ra
được cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó là cuốn sách “ Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” của tập thể tác
giả do Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ
biên) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập đến nhiều
vấn đề con người, những bất cập, đòi hỏi về nguồn lực con người trước yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; những vấn đề quan tâm, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn lực con người dưới các khía cạnh khác
nhau.
Có nhiều ấn phẩm dưới dạng bài báo như: Nguyễn Trọng Chuẩn
(1994), Nguồn nhân lực trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạp
chí Triết học số 3 - Tác giả đã phân tích vị trí nguồn lực trong quan hệ với
nguồn lực khác khẳng định nguồn lực quan trọng nhất, yếu tố quyết định chỉ
có thể là con người. Phạm Văn Đức (1999), Một số giải pháp nhằm khai thác

8
có hiệu quả nguồn lực con người, Tạp chí Triết học số 6 - Tác giả cho rằng:
có rất nhiều giải pháp để khai thác hiệu quả nguồn lực con người trong đó tạo
ra việc làm là một giải pháp quan trọng và được sử dụng như một công cụ
quản lý hữu hiệu. Phạm Thị Ngọc Trầm (1993), Trí tuệ - nguồn lực vô tận
của sự phát triển xã hội, Tạp chí Triết học số 1 - Tác giả đã nhấn mạnh; trí tuệ
là nguồn lực vô tận và có sức mạnh to lớn đối với sự phát triển xã hội.
Nguyễn Duy Quý (1998), Phát triển con người tạo nguồn nhân lực cho sự
phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Tạp chí Cộng sản số 19 -
Tác giả đã nhấn mạnh phát triển con người về thực chất là sự phát triển và
hoàn thiện nhân cách con người theo yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Phạm Tất Dong (1994), Suy nghĩ về xây dựng đội ngũ tri thức
nước ta, Tạp chí Cộng sản số 4 - tác giả đã cho rằng: phải quan tâm đến việc
xây dựng đội ngũ lao động trí tuệ. Hoàng Chí Bảo (1993), Ảnh hưởng của

văn hoá đối với việc phát huy nguồn lực con người, Tạp chí triết học số 1 -
Tác giả đã khẳng định có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy nguồn
lực con người trong đó văn hoá là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp nhất. Nguyễn
Văn Hiệu (1997), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Cộng sản số 1 - Tác giả đã nhấn
mạnh vai trò, nội dung, cách thức của giáo dục và đào tạo trong việc bồi
dưỡng nhân tài v.v…
Gần đây còn có một số luận án nghiên cứu về nguồn lực con người ở
những khía cạnh khác nhau ví dụ như: “Nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (luận án tiến sĩ triết học của Đoàn
Văn Khái). Công trình này đã phân tích vai trò của nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, lý giải khai thác hợp lý, có
hiệu quả nguồn lực con người là yếu tố tiên quyết đến sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; “Yếu tố con người trong lực lượng sản và việc phát huy yếu
tố đó ở nước ta hiện nay” (luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của Hồ Anh

9
Dũng); “Nhân tố con người và những biện pháp nhằm phát huy nhân tố con
người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay” (luận án tiến sĩ triết học
của Trần Thị Thuỷ); “Nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ” (luận án tiến sĩ triết học của Hoàng Thái Triển); …
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề phát triển
nguồn lực lao động ở một số tỉnh Thanh Hoá, đồng bằng sông Cửu Long… Ở
Thái Bình, Uỷ ban nhân dân tỉnh có: “Chương trình mục tiêu, giải quyết việc
làm từ năm 2000 - 2005”. Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng khoa học công nghệ ở Thái Bình”. Đề án:“Về đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2002 - 2010”.
Nhưng dưới góc độ triết học đến nay ở Thái Bình chưa có công trình nào viết
về vấn đề này.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng nguồn lực lao

động trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Bình
hiện nay ” dưới góc độ triết học là cần thiết có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích:
Luận văn nghiên cứu chất lượng nguồn lực lao động, yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động,
thực trạng chất lượng nguồn lực lao động ở Thái Bình hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực lao động đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm nguồn lực lao động, chất lượng nguồn lực lao động.
- Làm rõ yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với chất lượng
nguồn lực lao động.
- Làm rõ thực trạng nâng cao chất lượng nguồn lực lao động ở Thái
Bình hiện nay.

10
4.Giới hạn
Luận văn nghiên cứu những yếu tố quyết định đến chất lượng nguồn
lực lao động. Đây là một đề tài rộng, trong từng vấn đề cụ thể, luận văn cũng
không thể đề cập tất cả mọi khía cạnh mà chỉ tập trung vào khía cạnh tác giả
cho là quan trọng nhất.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là: quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về con người, về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Trong luận văn còn kế thừa những thành tựu nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học khác về vấn đề này.
- Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng chủ yếu các phương pháp
như kết hợp lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, và một số phương pháp
xã hội học khác như thống kê, so sánh, đối chiếu.

6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Góp phần đánh giá thực trạng chất lượng nguồn lực lao động ở Thái
Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn
lực lao động ở Thái Bình đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.
- Làm tài liệu tham khảo cho cán bộ địa phương, lãnh đạo tỉnh trong
việc xây dựng chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 02 chương 6 tiết.


11
Chương 1

CHẤT LƯỢNG NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG NGUỒN
LỰC LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Nguồn lực lao động
Trước khi bàn về khái niệm “nguồn lực lao động”, cần tìm hiểu khái
niệm “nguồn lực con người”. Khái niệm “nguồn lực con người” được sử dụng
tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 đến nay. Theo ý kiến của một số nhà
khoa học tham gia chương trình KX - 07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do Phạm Minh Hạc làm chủ biên,
nguồn lực con người cần được hiểu là số dân và chất lượng con người bao

gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất
[23,328] Theo Phạm Văn Đức: nguồn lực con người chỉ khả năng và phẩm
chất của lực lượng lao động, đó không chỉ là số lượng và khả năng chuyên
môn mà còn cả trình độ văn hoá, thái độ đối với công việc và mong muốn tự
hoàn thiện của lực lượng lao động xã hội [16, 14]. Trong luận án tiến sĩ triết
học: “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”, tác giả Đoàn Văn Khái xác định “nguồn lực con người là khái niệm
chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả các đặc
điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [27,53].
Từ một số cách tiếp cận với những nội dung trên có thể nói rằng khái
niệm nguồn lực con người có nội dung rộng lớn; nó không chỉ là lực lượng
lao động hay nguồn lao động (cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các
ngành, các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ
tuổi trong lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ mà là một tập
hợp các chỉ số nói đến chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng của lực lượng

12
lao động trong hiện tại và trong tương lai gần, dưới dạng tiềm năng), mà khái
niệm nguồn lực con người còn bao hàm cả sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa
các yếu tố nội tại trong nó; sự ảnh hưởng qua lại giữa nguồn lực con người
với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; giữa nguồn lực con người với
các nguồn lực khác.
Mặt khác “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng con người được xem
xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cũng như các nguồn lực
khác: nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học - công
nghệ…nguồn lực con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc
đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Nhưng nguồn lực con người khác
với các nguồn lực khác. Có nguồn lực con người thì mới phát huy được tác
dụng của các nguồn lực khác đối với sự phát triển xã hội. Vì thế, nguồn lực
con người là nguồn lực quan trọng nhất.

Khái niệm “nguồn lực con người” còn được hiểu theo nghĩa hẹp là lực
lượng lao động xã hội.
* Lực lượng lao động xã hội: Theo tổ chức lao động thế giới (ILO), lực
lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham
gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc
làm.
Theo quan niệm trên, lực lượng lao động là một bộ phận trong nguồn
lực con người, nó chỉ bao gồm những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền
lợi lao động theo quy định đã ghi trong Hiến pháp. Trong từng thời kỳ và mỗi
nước trên thế giới quy định độ tuổi lao động có khác nhau. Điều đó, tuỳ thuộc
vào điều kiện tâm sinh lý, thể chất của con người và điều kiện kinh tế - xã hội
mỗi nước. Ở nước ta theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành độ tuổi lao
động được quy định đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, đối với nữ từ 15 tuổi
đến 55 tuổi.

13
Như vậy, không phải toàn bộ những người trong độ tuổi lao động đều
được tính vào lực lượng lao động. Lực lượng lao động chỉ bao gồm: những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động hiện đang làm việc trong
các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội …(người có việc làm) và những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động hiện chưa có việc làm, nhưng
đang mong muốn và tích cực tìm kiếm việc làm (người thất nghiệp). Những
người còn lại trong độ tuổi lao động được coi là không nằm trong lực lượng
lao động bao gồm: những người có khả năng lao động nhưng đang đi học, làm
nội trợ trong gia đình, những người không có khả năng lao động do ốm đau,
bệnh tật,…và một bộ phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác
nhau…Vậy tiêu chuẩn để xếp dân cư vào lực lượng lao động là độ tuổi, sức
khoẻ, tính chất công việc và có nguyện vọng tìm kiếm việc làm.
Khái niệm “nguồn lực con người” còn được hiểu là nguồn lực lao động.
Nguồn lực lao động hay nguồn lao động chỉ là cách gọi khác nhau. Trong

luận văn khái niệm nguồn lực lao động được sử dụng vứi nghĩa sau: Nguồn
lực lao động là số lượng dân cư của một quốc gia hay của một địa phương có
toàn bộ thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động.
Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lực lao động là: độ
tuổi và tình trạng sức khoẻ. Ở nước ta hiện nay, nguồn lực lao động bao gồm:
Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động (trừ những người
tàn tật không có sức lao động) và những người ngoài độ tuổi lao động (bộ luật
lao động hiện hành ở nước ta quy định ngoài độ tuổi lao động nam trên 60, nữ
trên 55 và dưới độ tuổi lao động, trẻ em từ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi) thực
tế có tham gia lao động.
Như vậy, khái niệm nguồn lực lao động rộng hơn khái niệm lực lượng
lao động. Nguồn lực lao động không chỉ bao gồm cả lực lượng lao động mà
còn bao gồm cả một bộ phận ngoài lực lượng lao động có khả năng lao động
đó là: số người trong độ tuổi đang đi học, nội trợ gia đình… (những người

14
này khi có điều kiện muốn đi làm sẽ bổ sung vào lực lượng lao động) và số
người ngoài độ tuổi lao động, thực tế có tham gia lao động.
Bộ phận chính của nguồn lực lao động là lực lượng lao động, bao gồm
những người trong độ tuổi lao động, có sức khoẻ đang làm việc và những
người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lực lao động là các chỉ tiêu về số
lượng và chất lượng, bao gồm các chỉ tiêu: số lượng người, độ tuổi, giới tính,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, số người đang đi học, số
người đang đi làm việc và sự phân bố lao động theo lãnh thổ, theo ngành, theo
khu vực kinh tế.
* Chất lượng nguồn lực lao động
Ở nước ta, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có thành công hay không là do chất lượng nguồn lực
lao động quyết định. Nói đến chất lượng nguồn lực là nói đến nguồn lực lao
động có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng đi đầu

trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc vì mục tiêu dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Vì vậy phải giáo dục người
lao động Việt Nam nâng cao lòng yêu nước, có phẩm chất chính trị vững
vàng, đạo đức tư cách tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có lối sống lành
mạnh.
Tuy nhiên, nếu chỉ có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức tốt và lối
sống lành mạnh thì chưa đủ. Nếu có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị
vững vàng mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học sẽ không giúp được gì cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu
tố thiết yếu của mỗi con người vì có đức mà không có tài cũng trở thành
người vô dụng và như C.Mác đã nói: “Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành
động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ”, nghĩa là phải thông qua trí tuệ
của con người. Nhờ có trí tuệ hay trí lực của con người mà kỹ năng nghiệp vụ

15
chuyên môn, năng lực sáng tạo không ngừng được nâng cao trong hoạt động
thực tiễn thúc đẩy sự phát kinh tế - xã hội.
Sự tồn tại của con người chính là nhờ khả năng thích nghi nhanh của
con người với môi trường xung quanh. Điểm khác biệt giữa con người với các
loài động vật khác là nhờ con người có lao động và tri thức. Chính quá trình
lao động sáng tạo này mà con người có khả năng cải tạo hoàn cảnh, làm cho
hoàn cảnh phục vụ nhu cầu của con người ngày càng tốt. Qúa trình lao động
của con người ngày càng phức tạp. Vì vậy đòi hỏi khả năng thích nghi với
môi trường lao động của con người ngày càng cao.
Nhưng trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi của người lao
động chỉ có thể sử dụng được khi người lao động có sức khoẻ. Do đó, sức
khoẻ của người lao động là một yếu tố không thể thiếu trong chất lượng
nguồn lực lao động.
Mỗi quốc gia, dân tộc muốn có một nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
cao cần có đội ngũ lao động được đào tạo có chất lượng tốt với số lượng và cơ

cấu hợp lý.
Vì vậy, khi đề cập đến chất lượng nguồn lực lao động, người ta thường
đề cập đến các yếu tố: Trạng thái sức khoẻ, trình độ học vấn, kỹ năng nghiệp
vụ chuyên môn, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, tâm lý, tình cảm đạo
đức, lối sống…trong đó yếu tố trí lực, thể lực, đạo đức là những yếu tố quan
trọng nhất quyết định đến chất lượng và sức mạnh của nguồn lực lao động.
Ngoài ra đánh giá chất lượng nguồn lực lao động cần phải thông qua đánh giá
một số chỉ tiêu khác như: Cơ cấu của lao động bao gồm cơ cấu đào tạo, cơ
cấu ngành, nghề…
Như vậy có thể khái quát: Chất lượng nguồn lực lao động bao gồm thể
lực, trí lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, thái độ, cách làm việc, cơ
cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề hợp lý đảm bảo tính hiệu quả cao trong sử
dụng…

16
Thời đại ngày nay trí lực có vai trò đặc biệt quan trọng là nền tảng sức
mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Do vậy, khi nói tới nâng cao chất lượng
nguồn lực lao động cần phải đặc biệt nhấn mạnh năng lực trí tuệ, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của con người. Nhưng chỉ có thể phát huy được lợi thế
của năng lực trí tuệ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động khi
người lao động có một thể lực tốt với những phẩm chhát đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn lực lao động chính là
nâng cao thể lực, trình độ trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh chính trị của nguồn lực lao động.
Muốn nâng cao chất lượng nguồn lực lao động thì phải nâng cao trình
độ trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực lao động của người lao động vì như
C.Mác đã chỉ ra rằng: “Năng suất lao động phụ thuộc nhiều vào trình độ khéo
léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và trình
độ, tác dụng của khoa học vào quy trình công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá
trình sản xuất, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện thiên

nhiên” [34, 69]. Như vậy, trình độ người lao động càng cao, sự áp dụng tiến
bộ khoa học - công nghệ càng rộng, tổ chức quản lý càng tốt, thì năng suất lao
động sẽ cao.
Do đó, người lao động phải có khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao
động nghề nghiệp. Nghĩa là, kỹ năng lao động của người lao động được thể
hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp.
Người lao động có kỹ năng lao động giỏi, trình độ chuyên môn hoá cao sẽ tạo
ra năng suất lao động xã hội cao.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn
lực lao động, Đảng ta đã nhấn mạnh: “ Người lao động có trí tuệ cao, có tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy
bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện

17
đại” [21, 9]. Để nâng cao chất lượng nguồn lực lao động thì biện pháp giáo
dục và đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng.
Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động cần phải nâng cao thể lực của
người lao động. Dù là người lao động cơ bắp đơn thuần hay lao động trí óc
đều phải có sức khoẻ, yếu tố sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và
phát triển trí tuệ. Sự phát triển về thể lực và sức khoẻ là cơ sở để phát triển
toàn diện con người.
Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động còn phải giáo dục người lao
động Việt Nam nâng cao lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, biết nêu
cao tinh thần độc lập, tự cường của dân tộc. Bởi vì Đảng ta xác định: nước ta
tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế là một xu thế khách quan chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt
tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.Vì vậy, người
lao động phải có bản lĩnh hính trị vững vàng.
Như vậy có thể khẳng định: Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động
chính là nâng cao thể lực, trí lực (trình độ trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp), tâm

lực (phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị) của nguồn lực lao động.
1.1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lực lao động.
* Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn lực lao động
Qua phân tích khái niệm chất lượng nguồn lực lao động, chúng tôi thấy
có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn lực lao động. Nhưng luận văn
không có điều kiện tìm hiểu tất cả các chỉ tiêu mà chỉ nêu một số chỉ tiêu sau:
Trạng thái sức khoẻ: Sức khoẻ là một trạng thái thoải mái về thể chất
tinh thần (không chỉ đơn thuần là không có bệnh).
Trình độ học vấn: là trạng thái hiểu biết, những kiến thức về khoa học
tự nhiên và xã hội của người lao động.

18
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật: Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết
về chuyên môn kỹ thuật nào đó được biểu hiện qua trình độ đào tạo ở các
trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học có khả năng
thực hành, chỉ đạo, quản lý một công việc, nhóm công việc thuộc lĩnh vực
được đào tạo; trình độ kỹ thuật được dùng để chỉ trình độ của người được đào
tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức, kỹ năng thực hành về công
việc, lĩnh vực kỹ thuật nhất định. Chỉ tiêu này thường được phản ánh qua số
lượng lao động được đào tạo và chưa được đào tạo, cơ cấu đào tạo, thời gian,
hình thức đào tạo…
Ngoài ra để đánh giá chất lượng nguồn lao động người ta thường dùng
một số tiêu chí phản ánh gián tiếp như: chỉ số phát triển con người (HDI)
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm (công việc).
* Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao
động: Có nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao
động nhưng chúng tôi có thể nêu một số nhóm yếu tố chủ yếu sau:
Một là: Nhóm yếu tố có tác động, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nguồn
lực lao động

Các yếu tố ảnh hưởng đến thể chất như: Tốc độ phát triển dân số, chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, công tác y tế, các bệnh xã hội, phòng hộ lao động, thu
nhập, thể dục thể thao quần chúng, môi trường sinh thái.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tinh thần của nguồn lực lao động: các hoạt
động văn hoá, bầu không khí, tâm lý trong lao động,…
Hai là: Nhóm các yếu tố có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến sự phát
triển trí lực của nguồn lực lao động. Trong đó quan trọng nhất là công tác giáo
dục - đào tạo. Giáo dục - đào tạo là giải pháp quyết định nâng cao chất lượng
nguồn lực lao động. Cùng với công tác đào tạo là việc sắp xếp, bố trí, quản lý
và sử dụng nguồn lực lao động. Hiệu quả của công tác đào tạo được đo bằng
trình độ chuyên môn vững vàng, khả năng tư duy sáng tạo của người lao

19
động. Việc làm và áp dụng công nghệ mới là điều kiện không thể thiếu để
người lao động thể hiện khả năng hiểu biết, kỹ năng lao động của mình và đó
cũng là điều kiện để người lao động phát huy năng lực sáng tạo của mình.
Ba là: Nhóm có liên quan đến môi trường chính trị - xã hội ổn định hay
không ổn định, quan điểm, chính sách xã hội, vấn đề đảm bảo an ninh, an toàn
thân thể, … cũng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn lực lao động.
1.2. Vai trò của chất lượng nguồn lực lao động đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
Chúng ta có thể thấy chất lượng nguồn lực lao động xuất hiện trong tất
cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Luận văn
không nghiên cứu tất cả các khía cạnh nói trên mà chỉ nghiên cứu vai trò chất
lượng nguồn lực lao động đối với sự phát triển kinh tế. Dưới góc độ kinh tế
chất lượng nguồn lực lao động vận hành trong hai khía cạnh tác động biện
chứng với nhau của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định đến sự phát triển
kinh tế xã hội.
1.2.1.Chất lượng nguồn lực lao động đối với sự phát triển của lực

lượng sản xuất
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng
sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố: người lao động và tư
liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất trước hết là người lao động có những kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo để sản xuất. Thứ hai là tư liệu lao động
bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Thứ ba là trong sự phát
triển của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật đóng vai trò ngày càng to lớn,
nó tác động mạnh mẽ vào quá trình sản xuất làm giảm cường độ lao động và
tăng năng xuất lao động. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật gắn liền với sản

20
xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học
kỹ thuật được coi là một “lực lượng sản xuất trực tiếp” “khoa học là một động
lực lịch sử, là lực lượng cách mạng” [31, 663].
Khi phân tích về vai trò của người lao động đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, C.Mác viết: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực
lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” [33, 257].
Như vậy, C.Mác đã khẳng định người lao động có vai trò to lớn nhất, quyết
định nhất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Còn V.I.Lênin viết về
vấn đề đó như sau: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động” [30, 430]. Như vậy cả Mác và Lênin đều khẳng
định vai trò quyết định của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Trong quá trình lao động, người lao động đã bằng thể lực và trí lực của
mình chê tạo ra công cụ lao động và sử dụng công cụ đó tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của bản thân
mình và xã hội.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản

của lực lượng sản xuất. Trình độ của công cụ lao động thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của người lao động. Với mục đích không ngừng tăng năng suất
lao động và giảm cường độ lao động, người lao động đã luôn chủ động chế
tạo ra những công cụ lao động tinh vi, hiện đại để “ nối dài các khí quan” và
tăng sức mạnh cơ bắp của mình.
Người lao động không những chế tạo ra công cụ lao động mà còn quyết
định cả quá trình sử dụng, vận hành những công cụ lao động đó. Những máy
móc, công cụ lao động dù có tinh vi, hiện đại đến đâu đi chăng nữa nhưng
không có người lao động sử dụng, vận hành cũng trở thành vô ích. Hơn nữa,
công cụ lao động được đưa vào sử dụng với mục đích gì là do người lao động

21
quyết định và vì người lao động. Như vậy tất cả các khâu của quá trình lao
động không thể không có người lao động.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ điện tử đã
tác động đến tất cả các lĩnh vực sản xuất, đời sống xã hội, đưa người lao động
vào kỉ nguyên tự động hoá, tin học hoá. Việc áp dụng rộng rãi công nghệ điện
tử và thông tin đã góp phần giải phóng sức lao động, tạo ra năng suất lao động
cao, chất lượng sản phẩm tốt, và thay đổi đối tượng lao động. Nhưng khoa
học kĩ thuật, công nghệ thông tin không thể đứng độc lập mà nó là sản phẩm
của người lao động, gắn với người lao động, và phục vụ người lao động. Như
vậy, người lao động vừa là điểm xuất phát vừa là lực lượng chủ đạo và là mục
đích của quá trình sản xuất. Người lao động là yếu tố quyết định sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Cũng chính cuộc cách mạng này đã đặt người lao động vào trong quá
trình lao động hết sức phức tạp. Đòi hỏi người lao động phải có thể lực tốt, ý
thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý
trong đó lao động trí tuệ đóng vai trò chính yếu. Có như vậy, nguồn lực lao
động - một lực lượng vật chất to lớn của xã hội mới được khai thác, sử dụng
một cách tốt nhất, đạt hiệu quả cao nhất.

Như vậy, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội là quá trình
sáng tạo của nguồn lực lao động, nguồn lực lao động đóng vai trò quyết định
nhất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với sự phát triển và sáng
tạo của nguồn lực lao động.
1.2.2. Chất lượng nguồn lực lao động đối với quá trình đổi mới, hoàn
thiện quan hệ sản xuất thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định: “Trong sản xuất, người ta
không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu
không biết kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để
trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối

22
liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên,
tức là việc sản xuất ” [32, 552].
Như vậy, chất lượng nguồn lực lao động không chỉ là yếu tố hàng đầu
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn là chủ thể đổi mới,
hoàn thiện quan hệ sản xuất. Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của người
lao động ngày càng cao. Để đáp ứng được nhu cầu ấy thì trong quá trình lao
động sản xuất người lao động phải nghiên cứu tìm tòi, nâng cao trình độ
chuyên môn kỹ thuật, có những sáng kiến, cải tiến trong công việc, những
công trình nghiên cứu khoa học vận dụng vào trong lao động sản xuất. Khi
những sản phẩm trí tuệ mới của người lao động ra đời nó lại tác động trở lại
để đáp ứng, nâng cao nhu cầu của người lao động và ngược lại nó lại tiếp tục
kích thích sự nghiên cứu, sáng tạo mới của người lao động. Kết quả của sự tác
động biện chứng này người lao động đã sáng tạo ra chính bản thân mình,
người lao động là chủ thể lịch sử, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Trong quá trình lao động sản xuất người lao động với thể lực, trí lực,
phẩm chất đạo đức đã luôn chủ động vươn lên làm chủ hành vi, điều chỉnh
mọi mối quan hệ. Nhờ đó mà quan hệ sản xuất ngày một phát triển, hoàn
thiện hơn. Khi xuất hiện sự phân công và hợp tác lao động trong quá trình

hoạt động sản xuất, người lao động đã chủ động tạo ra hoàn cảnh, môi trường
để lao động cá thể liên kết lại với nhau nhằm huy động mọi khả năng sáng tạo
thì hoạt động tổ chức, quản lý đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được
trong sự phát triển kinh tế xã hội của loài người.
Ngày nay, khi nền sản xuất phát triển có kỹ thuật hiện đại, tính chất xã
hội hoá nền sản xuất không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà mang tính
chất quốc tế thì hoạt động tổ chức, quản lý càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đòi hỏi trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức lao động quản lý ngày
một cao hơn, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo điều
kiện cho sản xuất phát triển. Chính vì vậy, người lao động đóng vai trò chủ

23
thể, chủ động đổi mới, phát triển quan hệ sản xuất làm cho quan hệ sản xuất
ngày càng hoàn thiện hơn mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
1.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và những yêu cầu
của nó đối với việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động
1.3.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - một số đặc điểm
cơ bản
Ở Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến
hành thì công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Những khái niệm, định nghĩa công nghiệp
hoá luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Nghĩa
là trong những thời điểm khác nhau, ở các nước khác nhau khi tiến hành công
nghiệp hoá thì nội dung của khái niệm công nghiệp hoá là khác nhau. Trong
số các khái niệm đó có khái niệm phản ánh được bản chất, nội dung và mục
tiêu của công nghiệp hoá trong không gian rộng và thời gian dài; có khái niệm
chỉ phù hợp ở thời điểm nhất định và với những nước xác định. Do đó, việc
nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản
xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.

Ở Việt Nam, ngay từ những năm 60, khi nhận thức rõ tính quy luật và
vai trò của công nghiệp hoá trong tiến trình vận động và phát triển của các
nước, chúng ta đã tiến hành công nghiệp hoá theo đường lối Đại hội lần thứ
III của Đảng. Đó là đường lối với tên gọi “công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”
coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong suất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa: “ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện và ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ” nhằm “xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, chủ trương đề ra công nghiệp hoá trước đây
của Đảng ta là phát triển nông nghiệp toàn diện và phát triển công nghiệp nhẹ

24
phù hợp với lợi thế của nước ta. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại chú trọng
phát triển công nghiệp nặng, trọng tâm là ngành cơ khí chế tạo. Với đường lối
“công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” này, chúng ta đã mắc phải những sai lầm
cả về mục tiêu, nội dung, cách thức tiến hành. Kết quả là hiệu quả của công
nghiệp hoá rất thấp, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng đã không phát
triển, nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân không được đảm bảo,
đời sống người dân quá khó khăn, nền kinh tế thiếu hụt hầu như không có tích
luỹ mất cân đối một cách căn bản, chúng ta đã rơi vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
Thực tế là, chúng ta đã phải trả giá cho kiểu “công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa” cũ. Chính sự trả giá này làm cho nhiều người hoài nghi khi nhắc
tới công nghiệp hoá, thậm chí một số người còn không muốn nói tới công
nghiệp hoá. Ngày nay, chúng ta đã từ bỏ một quan điểm không đúng về công
nghiệp hoá, một cách thức tiến hành công nghiệp hoá theo lối cũ kém hiệu
quả hoàn toàn không phải là phủ nhận tính tất yếu của công nghiệp hoá. Cả lý
luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng: Tất cả các nước từ tình trạng kinh tế lạc hậu
chuyển sang được trạng thái kinh tế hiện đại tất yếu phải thực hiện công
nghiệp hoá.

Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút ra
những kinh nghiệm trong lịch sử khi tiến hành công nghiệp hoá, thực tiễn
công nghiệp hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt nhận thức rõ sự
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến quá trình
công nghiệp hoá hiện nay, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
khoá VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xem xét công nghiệp hoá trong mối
quan hệ với hiện đại hoá và cho rằng: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và

25
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [19, 59].
Khái niệm công nghiệp hoá này được Đảng ta xác định rộng hơn những
quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch
vụ và quản lý kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hoá. Chỉ ra được cái
cốt lõi là cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao; gắn công nghiệp
hoá với hiện đại hoá; xác định được vai trò của công nghiệp và khoa học -
công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá.
Công nghiệp hoá được triển khai đồng thời với hiện đại hoá và luôn
gắn bó với hiện đại hoá để tạo nên một quá trình thống nhất thúc đẩy đất nước
phát triển. Bởi vì, thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đã và đang làm thay đổi về chất công nghệ sản xuất, quản lý… và trên thế
giới đang diễn ra ngày càng sâu rộng quá trình toàn cầu hoá kinh tế, khoa học,
kỹ thuật, văn hoá. Trong điều kiện ngày nay, chúng ta không thể chờ thực
hiện xong công nghiệp hoá, sau đó mới triển khai hiện đại hoá, mà nhất thiết
và cần thiết phải triển khai đồng thời và đồng bộ hai quá trình này.
Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá vừa là qúa trình kinh tế - kỹ

thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học,… nó không những
tác động một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, mọi gia đình
và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà còn góp phần thúc đẩy mở rộng quan
hệ hợp tác khu vực và quốc tế về các mặt kinh tế - xã hội, khoa học, công
nghệ, văn hoá,…
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là mục đích tự thân
mà là phương thức để đưa nền kinh tế tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp
hiện đại. Trên cơ sở thực hiện một cách linh hoạt với bước đi tuần tự từ thấp
đến cao: thủ công - cơ giới - tự động hoá kết hợp với việc tranh thủ những
điều kiện, thời cơ thuận lợi, “đi tắt”, “đón đầu”, đã nhanh chóng tạo ra những

26
ngành kinh tế mũi nhọn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo phương thức ấy
về thực chất là quá trình sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại nhằm
phát triển lực lượng lao động và thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới hợp
lý để đạt được năng suất lao động xã hội cao, công nghiệp hoá gắn liền với
hiện đại hoá dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ.
Cho đến nay, thực tế đã khẳng định rằng công nghiệp hoá hiện đại hoá
là phương thức hữu hiệu làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các nước
đang phát triển. Các nước được gọi là phát triển, tiên tiến, hiện đại khác hẳn
với các nước khác chính là ở chỗ đã công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với
nước ta hiện tại, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu,
công nghiệp nhỏ bé. Vì vậy, để ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát
triển, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, nước ta không có con đường nào khác ngoài
việc phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nghị Đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ VII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-1994) đã xác định
là phải “đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [19, 22]. Tháng 6-1996, Đại hội
lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định “… đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá … Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp” [20, 80].
Do những biến đổi nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất
nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay có những đặc điểm
chủ yếu sau đây.
Thứ nhất: Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá.
Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển nhanh chóng và xu thế quốc tế hoá kinh tế. Hiện nay,
“công nghiệp hoá không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ
trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình

27
chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng
trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công
nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá; kết hợp với bước tiến tuần tự về công
nghệ, phát triển theo chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc làm cho đội ngũ đông
đảo lao động hiện nay, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, phát
triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học-
công nghệ thế giới” [37]. Nói cách khác, ngày nay công nghiệp hoá nhất thiết
phải gắn liền với hiện đại hoá.
Thực chất của quá trình hiện đại hoá nền kinh tế là không ngừng nâng
cao trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo nhịp độ phát triển của khoa
học và công nghệ trên thế giới. Nhưng do điều kiện cụ thể của đất nước, khi
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần áp dụng đồng thời nhiều trình độ
kỹ thuật, công nghệ mà các nước đi trước đã thực hiện ở những thời điểm
khác nhau. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể vừa khai thác được các nguồn
lực và lợi thế của đất nước, vừa từng bước hiện đại hoá nền kinh tế.
Ở nước ta hiện nay, tình trạng thiếu vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh; dư thừa lao động; chất lượng lao động còn thấp thì không thể đi
ngay vào công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trên

quy mô toàn xã hội. Nhưng đối với những ngành, những khâu, những lĩnh vực
quan trọng mà điều kiện cho phép thì cần áp dụng ngay trình độ hiện đại, thực
hiện “đi tắt”, “đón đầu” để tạo ra bước nhảy vọt trong tiến trình phát triển lực
lượng sản xuất. Như vậy, con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh
tế phải kết hợp giữa nhảy vọt từ thủ công lên hiện đại, với tuần tự thủ công-
nửa cơ khí, cơ khí - tự động hoá,…đồng thời phải phát huy đầy đủ tính ưu
việt của công nghệ truyền thống, hiện đại hoá công nghệ truyền thống, giữ
vững bản sắc văn hoá dân tộc. Trong quá trình lựa chọn công nghệ để hiện đại
hoá nền kinh tế, phải xem xét toàn diện các yêu cầu, không chỉ về tính hiện

×