Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nhu cầu thẩm mỹ và vai trò của nó trong hoạt động đánh giá, thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.66 KB, 93 trang )

VIN KHOA HC V X HI
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X
HI V NHN VN


Viện triết học

Lê Thị h-ờng

Nhu cầu thẩm mỹ và Vai trò của Nó trong hoạt
động đánh giá, th-ởng thức, sáng tạo nghệ thuật

Chuyờn nghnh: TRIT HC
Mó s : 60 22 80

LUN VN THC S TRIT HC

Ngi hng dn khoa hc
GS, TS. HUY
VIN TRIT HC






H NI - 2006
MỤC LỤC
TRANG
Mở đầu …………………………………………………………… 2


Chương 1:
NHU CẦU THẨM MỸ VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT
1.1. Nhu cầu và nhu cầu thẩm mỹ …………………………………….8
1.2. Nghệ thuật và các hình thức hoạt động nghệ
thuật………………26
Chương 2:
VAI TRÒ CỦA NHU CẦU THẨM MỸ TRONG HOẠT ĐỘNG
NGHỆ THUẬT
2.1.Vai trò của nhu cầu thẩm mỹ trong hoạt động thưởng thức
nghệ thuật…………………………………………………………… 42
2.2.Vai trò của nhu cầu thẩm mỹ trong hoạt động đánh giá
nghệ thuật …………………………………………………………….56
2.3.Vai trò của nhu cầu thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo
nghệ thuật…………………………………………………………… 68
Kết luận……………………………………………………………….81
Danh mục các công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận văn….83
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………….… ……….83









2


MỞ ĐẦU


1.Tính cấp bách của đề tài
Cuộc sống của con người và xã hội loài người là một quá trình hoạt
động nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của mình đồng thời lại tiếp
tục nảy sinh những nhu cầu mới ở những cấp độ cao hơn. Vì con người cần
được thỏa mãn nhu cầu về vật chất để giúp cho sự tồn tại của thể xác và con
người cũng cần được thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ để tồn tại đời sống tinh thần.
Nếu sự tồn tại của con người chỉ dừng lại ở việc thoả mãn nhu cầu sinh tồn, nhu
cầu vật chất thì cuộc sống sẽ như thế nào. Vì vậy, trong hệ thống nhu cầu giúp
cho sự tồn tại của con người, nhu cầu thẩm mỹ, đặc biệt là nhu cầu về cái đẹp
trong đời sống nghệ thuật, có vai trò quan trọng. Đó là dạng nhu cầu xã hội cao
cấp của con người bởi nó thể hiện đầy đủ nhất tính Người.
Trước đây, khi điều kiện kinh tế xã hội nước ta còn thấp, việc thỏa mãn
nhu cầu thẩm mỹ vẫn còn là mục đích xa xôi. Để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ,
chúng ta phải đi một bước rất dài trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế.
Không thể ảo tưởng rằng, có thể xây dựng một nền văn hóa cao khi chưa có sự
phát triển cao về kinh tế, càng không thể nói tới việc thỏa mãn đầy đủ nhu cầu
tinh thần, nhu cầu thẩm mỹ của quần chúng khi xã hội đang còn những thiếu
thốn, khó khăn về vật chất. Hiện nay, khi nền kinh tế xã hội đã phát triển mạnh
mẽ, đời sống vật chất của người dân được nâng cao, con người có thời gian rỗi
để hoạt động tinh thần và hưởng thụ về mặt tinh thần, thì những đòi hỏi được
thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ lại càng bức xúc và nóng hổi hơn bao giờ hết.
Một dân tộc muốn phát triển tự do về mặt tinh thần, thì phải tạo điều
kiện được phát triển và thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ cho quần chúng nhân dân.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của việc thỏa mãn nhu cầu


3

thẩm mỹ, nhu cầu nghệ thuật của nhân dân, nhiều văn kiện của Đảng đã nêu

lên vấn đề này. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta khẳng định:
“Không có một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được …nghệ thuật
trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới
nếp nghĩ, nếp sống của con người Việt Nam” [10, tr.129]
(*)
. Đặc biệt, trong
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “ Tạo điều
kiện đề nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ
thuật trở thành chủ thể sáng tạo văn hoá, đồng thời hưởng thụ ngày càng
nhiều các thành quả văn hoá” [11, tr.114].
Là một trong những thành tố của ý thức thẩm mỹ, tính chất và trình độ
của nhu cầu thẩm mỹ quy định tính chất của các hình thức hoạt động nghệ
thuật, đồng thời, tác động trực tiếp đến việc hình thành nhân cách của cá
nhân. Vậy, lý giải như thế nào trong lối sống hiện nay của một số bộ phận
thanh niên có sự xa rời lý tưởng thẩm mỹ, có sự chệch hướng trong thưởng
thức, đánh giá nghệ thuật? Nếu không có nhu cầu thì tại sao lại xuất hiện ngày
càng nhiều những sản phẩm phi nghệ thuật, phi thẩm mỹ trong đời sống nghệ
thuật hiện nay? Vấn đề đặt ra là, chúng ta cần phải nhận thức lại bản chất của
nhu cầu thẩm mỹ và vai trò của nó trong các hoạt động thưởng thức, đánh giá
và sáng tạo nghệ thuật. Từ đó đưa ra những định hướng thẩm mỹ phù hợp cho
các hoạt động nghệ thuật, nhằm phản ánh kịp thời, sâu sắc đời sống hiện thực
sinh động, thoả mãn nhu cầu thưởng thức văn hoá nghệ thuật của quần chúng.
Vì những lý do trên, việc tiếp tục nghiên cứu nhu cầu thẩm mỹ và vai
trò của nhu cầu thẩm mỹ trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ ra những đặc thù


(*)
Từ đây trở đi:
- Số thứ nhất chỉ số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo
- Số thứ hai chỉ số trang trong tài liệu tham khảo





4

và khả năng tác động của nhu cầu thẩm mỹ trong hoạt động đánh giá, thưởng
thức, sáng tạo nghệ thuật là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nhu cầu đã được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều góc độ: kinh tế
học, tâm lý học, triết học… Đáng chú ý là vấn đề nhu cầu thẩm mỹ và vai trò
của nó trong hoạt động nghệ thuật đã được đặt ra nghiên cứu trong lịch sử mỹ
học. Trong lịch sử mỹ học, Hêghen có bàn đến vấn đề nhu cầu thẩm mỹ với
tính cách là nhu cầu về nghệ thuật. Ông khẳng định nhu cầu về nghệ thuật là
nhu cầu hợp lý của con người và việc thoả mãn nhu cầu về nghệ thuật là nền
tảng tự do hợp lý của con người. Tuy nhiên, do xuất phát từ thế giới quan duy
tâm nên Hêghen cho rằng, việc thỏa mãn nhu cầu về nghệ thuật sẽ đem lại sự
hài lòng cao nhất, thậm chí là sự hài lòng tuyệt đối khi nó gắn với thế giới
quan và ý niệm tôn giáo. Đứng trên lập trường duy vật, Mác và Ănghen đã
xem xét vấn đề nhu cầu trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng chủ yếu
thông qua các tác phẩm: “Lời nói đầu” (trích các bản thảo kinh tế năm 1857
–1858), “Bản thảo kinh tế triết học 1844”. Cũng trong các tác phẩm này, Mác
và Ănghen đã bàn đến nhu cầu thẩm mỹ với tư cách là nhu cầu về cái đẹp,
đồng thời chỉ ra cách thức tiêu dùng nhu cầu vật chất khác với cách thức tiêu
dùng nhu cầu về tinh thần, điều này do phương thức sản xuất quy định. Hai
ông đã chỉ ra, họat động sản xuất của con người bị quy định bởi nhu cầu thể
xác trực tiếp nhưng khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc con người có khả
năng sản xuất ra đời sống theo quy luật cái đẹp. Mặc dù trong các tác phẩm

của mình, Mác và Ănghen chưa hề dùng đến khái niệm nhu cầu thẩm mỹ,
nhưng thực chất các ông đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của nhu cầu thẩm


5

mỹ về mặt bản chất, đối tượng, phương thức tiêu dùng. Đây chính là cơ sở
cho những nghiên cứu sau này về nhu cầu thẩm mỹ và đời sống nghệ thuật.
Liên quan đến vấn đề nhu cầu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống
nghệ thuật, phải kể đến một công trình nghiên cứu quan trọng của các học giả
Liên Xô : “Nhu cầu thẩm mỹ” của I.A. Giđarian Matxcơva, 1976 , bản dịch
tiếng Việt: do Hồ Quý Truyện dịch 3 chương và bản dịch của Văn Bích 5
chương. Trong công trình này, tác giả Giđarian đã nghiên cứu nhu cầu thẩm
mỹ dưới góc độ tâm lý học chỉ ra nguồn gốc phát sinh của nhu cầu thẩm mỹ,
các quan điểm khác nhau về bản chất nhu cầu thẩm mỹ, các đặc trưng của nó,
nhu cầu thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Đây là một công trình
nghiên cứu có giá trị, là tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu vấn đề nhu cầu
thẩm mỹ và vai trò của nó trong hoạt động nghệ thuật.
Ở trong nước, liên quan đến vấn đề nhu cầu thẩm mỹ, phải kể đến công
trình: “Về động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội”, của tập thể các tác giả
của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do GS. PTS Lê Hữu
Tầng chủ biên. Ở đây, vấn đề nhu cầu được nghiên cứu dưới góc độ triết học,
Nó được xem là một trong những động lực quan trọng trong hệ thống các
động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Việc xem xét nhu cầu của con
người nói chung dưới góc độ triết học là cơ cở cho việc đi sâu vào nghiên cứu
những dạng cụ thể của nhu cầu. Liên quan gần hơn với vấn đề nhu cầu thẩm
mỹ và vai trò của nó trong các hoạt động nghệ thuật, phải kể đến công trình
nghiên cứu về nhu cầu văn hoá và thị hiếu nghệ thuật của tập thể các tác giả
của Viện Văn Hoá (Bộ Văn Hoá): “Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao
thị hiếu nghệ thuật”, Nxb Văn hoá - Hà nội, 1987. Công trình đã đi vào

nghiên cứu một vấn đề quan trọng trong đời sống tinh thần của con người đó
là nhu cầu văn hóa. Ở đây, nhu cầu thẩm mỹ được bàn đến như là một khía


6

cạnh của nhu cầu văn hóa, trong một phạm vi hạn hẹp và dừng lại ở một số
tiêu chí nhất định.
Ngoài ra, vấn đề nhu cầu thẩm mỹ, vấn đề nghệ thuật và các hình thức
hoạt động nghệ thuật, đã được đặt ra và nghiên cứu trong một số công trình
mỹ học của tác giả Đỗ Huy: “Mỹ học với tính cách là một khoa học”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1996 và “Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm
mỹ”, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. Những năm gần đây một số luận
án tiến sĩ về mỹ học cũng đề cập tới vấn đề nhu cầu thẩm mỹ và vai trò của nó
trong đời sống thẩm mỹ. Luận án của tác giả Đào Duy Thanh: “Vai trò của
nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người”. Luận án của Nguyễn
Chương Nhiếp: “Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ”.
Trong các công trình này, nhu cầu thẩm mỹ được xem xét trong mối quan hệ
với các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ là tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ. Nhu
cầu thẩm mỹ được xem như là thành tố có tác dụng bổ trợ cho các hoạt động
này. Tuy nhiên những đặc trưng bản chất, phương thức tiêu dùng của nhu cầu
thẩm mỹ chỉ đưa ra có tính chất phác họa, nhiều khi không được làm rõ và bị
đánh đồng với những phạm trù gần gũi với nó như tình cảm, thị hiếu thẩm
mỹ.
Như vậy, vấn đề nhu cầu thẩm mỹ, nghệ thuật và các hình thức hoạt
động nghệ thuật đã được đặt ra nghiên cứu trong lịch sử triết học, trong tâm lý
học, trong các công trình nghiên cứu về văn hóa thẩm mỹ của các học giả
trong và ngoài nước. Một số công trình đã lý giải khá sâu sắc vấn đề bản chất
nhu cầu thẩm mỹ, hoặc lý giải sâu sắc về bản chất của nghệ thuật và các hình
thức hoạt động nghệ thuật nhưng rất ít tác giả gắn việc nghiên cứu nhu cầu

thẩm mỹ với các hình thức hoạt động đánh giá, thưởng thức và sáng tạo nghệ
thuật. Do đó, vấn đề nhu cầu thẩm mỹ với tính cách là một phạm trù độc lập
của ý thức thẩm mỹ, cũng như vai trò của nó trong các hoạt động nghệ thuật


7

chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
vấn đề này trong giai đoạn hiện nay là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn. Đây chính là sự khác nhau cơ bản giữa nội dung luận văn này với các
công trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn làm rõ bản chất của nhu cầu thẩm mỹ, chỉ ra và
luận giải vai trò của nhu cầu thẩm mỹ trong các hoạt động đánh giá, thưởng
thức và sáng tạo nghệ thuật. Để thực hiện mục đích này, luận văn giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích bản chất của nhu cầu thẩm mỹ và làm rõ vị trí của nó trong
đời sống tinh thần.
- Phân tích đặc trưng của các hình thức hoạt động nghệ thuật.
- Phân tích vai trò của nhu cầu thẩm mỹ trong các họat động đánh giá,
thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý mỹ học Mác – Lênin, các quan
điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về mỹ học và văn hóa nghệ thuật.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, so
sánh, lô gích, lịch sử…
5. Cái mới của luận văn
Góp phần làm rõ bản chất của nhu cầu thẩm mỹ, dưới góc độ tâm lý
học và triết học.

Trình bày và luận giải vai trò của nhu cầu thẩm mỹ đối với các hình
thức hoạt động nghệ thuật.
6. Ý nghĩa của luận văn


8

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy mỹ học về vấn đề nhu cầu thẩm mỹ, vai trò của nó trong các hoạt
động nghệ thuật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chương 5 tiết.






















9

Chương 1
NHU CẦU THẨM MỸ VÀ CÁC HÌNH THỨC
HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT

1.1. Nhu cầu và nhu cầu thẩm mỹ
1.1.1 Bản chất của nhu cầu
Nhu cầu là một từ Hán Việt. Theo từ điển Hán việt Hiện đại, Nhu có
nghĩa là cần, sự cần thiết, cầu có nghĩa là tìm, đòi hỏi [57, tr.785-1075] . Nhu
cầu có nghĩa là cần thiết, bắt buộc. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhu cầu là
cần dùng, là điều đòi hỏi của đời sống tự nhiên và xã hội [60, tr. 1259].
Theo từ điển triết học giản yếu, có thể hiểu khái niệm nhu cầu là:
“Need- chỉ sự cần đến thứ gì đó tất yếu một cách khách quan nhằm duy trì
hoạt động sống và sự phát triển của cơ thể, của cá nhân con người, nhóm xã
hội, toàn bộ xã hội… động lực bên trong của tính tích cực"[43, tr.340]
Theo cách hiểu thông thường, nhu cầu là sự đòi hỏi, mong muốn những
cái cần thiết cho cuộc sống con người bao gồm cả tính sinh vật và tính xã hội.
Theo đó, hệ thống nhu cầu của con người được chia thành nhu cầu sinh
vật, nhu cầu xã hội. Hoạt động của con người chỉ tồn tại và phát triển khi
được đáp ứng các loại nhu cầu này. Con người cũng giống như mọi sinh vật
khác cần được thoả mãn về nhu cầu sinh học: như nhu cầu thức ăn, thức uống,
nhà ở, quần áo, nhu cầu tự vệ, nhu cầu sinh lý, để tồn tại. Bởi vì, con người
cần phải tồn tại, phải có khả năng sống đẫ rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.
Đây chính là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, tiền đề xuất
phát mà lịch sử phát triển của loài người không thể bỏ qua. Và mục đích phát
triển của lịch sử xã hội loài người là hàng ngày, hàng giờ, thực hiện hành vi

sản xuất nhằm duy trì đời sống con người, duy trì và phát triển cái tiền đề đó
[35, tr. 39- 40].


10

Nhưng nếu ở động vật, nhu cầu sinh học được giải phóng bằng bản
năng thì ở con người, những nhu cầu sinh học này, được giải phóng bằng văn
hóa. Con người văn hóa, hóa những nhu cầu bản năng bằng những nghi thức
xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán…theo yêu cầu cái đẹp, tức là
làm đẹp các bản năng đó lên. Bằng cách đó, con người giải quyết được mối
quan hệ giữa cái trần tục và cái thánh thiện, giữa cái Con (sinh vật) với cái
Người (xã hội) trong con người [30]. Với con người mọi nhu cầu tự bản thân
chúng đã bao hàm ý nghĩa văn hóa. Vì vậy, nhu cầu của con người đó chính là
những đòi hỏi không ngừng về mặt vật chất và tinh thần trong quá trình tồn
tại, lao động, sản xuất. Những đòi hỏi khi được thỏa mãn lại nảy sinh những
đòi hỏi khác. Do đó, nhu cầu không mất đi mà chỉ là sự thay thế nhu cầu này
bằng nhu cầu khác.
Song cái gì quy định bản chất nhu cầu của con người, quy định tính
nhiều loại nhu cầu của con người ? Đó chính là quá trình sản xuất và tiêu
dùng quyết định. Theo Mác sản xuất tạo ra tiêu dùng với ba nghĩa: một là tạo
ra vật liệu cho tiêu dùng, hai là, xác định phương thức tiêu dùng, ba là, làm
nảy sinh ra ở người tiêu dùng cái đối tượng là sản phẩm do sản xuất tạo ra.
Cũng vậy tiêu dùng đẻ ra khả năng của người sản xuất do nó kích thích nhu
cầu trong anh ta, một nhu cầu hướng vào một mục tiêu nhất định [36, tr.867].
Từ quan điểm của Mác, cho thấy sự tác động hai chiều giữa sản xuất và tiêu
dùng. Một mặt, sản xuất quyết định quá trình tiêu dùng, cách thức tiêu dùng
sản phẩm. Mặt khác, quá trình tiêu dùng lại tác động trở lại quá trình sản xuất
bằng cách, người tiêu dùng nảy sinh những nhu cầu mới và nhà sản xuất sản
xuất ra những đối tượng mới theo nhu cầu.

Như vậy, cái thúc đẩy quá trình sản xuất là do nhu cầu tiêu dùng. Trong
mối quan hệ giữa nhu cầu với sản xuất, không thể cho rằng nhu cầu là cái thứ
hai, cái có sau sản xuất. Nhu cầu là tiền đề của sản xuất. “Không có nhu cầu


11

thì không có sản xuất. Nhưng chính tiêu dùng lại tái sản xuất ra nhu cầu” [36,
tr. 865]. Luận điểm này của Mác hoàn toàn đúng khi nói về mối quan hệ giữa
nhu cầu và sản xuất. Quá trình sản xuất xuất phát từ nhu cầu và không có
điểm kết thúc. Bởi vì nhu cầu không khép kín, có tính mở liên tục do đó, thỏa
mãn xong nhu cầu này đồng thời lại nảy sinh những nhu cầu mới ở cấp độ cao
hơn. Sản xuất kích thích nhu cầu, kích thích sự thèm muốn, lòng khát khao
tiêu dùng của con người, đồng thời cũng kích thích năng lực sáng tạo trong
hoạt động để có phương tiện đáp ứng tiêu dùng. Khi đó, nhu cầu là động cơ
bên trong của quá trình sản xuất. Sản xuất không chỉ cung cấp vật liệu cho
nhu cầu mà còn xác định phương thức tiêu dùng sản phẩm, cũng có nghĩa là
quy định cách thức tiêu dùng của nhu cầu. Cách thức tiêu dùng, thỏa mãn nhu
cầu thể hiện trình độ cao hay thấp, phụ thuộc vào chất lượng của sản phẩm
tiêu dùng, cũng có nghĩa là phụ thuộc vào trình độ sản xuất. Theo đó, nếu sản
xuất tốt thì việc đáp ứng nhu cầu, thỏa mãn tiêu dùng cũng tốt. Ngược lại, sản
xuất tồi thì việc tiêu dùng nhu cầu cũng tồi. Như vậy, trong mối quan hệ giữa
sản xuất và nhu cầu, phản ánh sâu sắc trình độ sản xuất và trình độ tiêu dùng
sản phẩm. Mối quan hệ này vận động theo xu hướng: sản xuất càng phát triển
thì nhu cầu tiêu dùng của con người càng ở trình độ cao, càng có chất lượng
và có văn hóa hơn.
Dưới góc độ triết học, cái quy định bản chất của nhu cầu là mối quan hệ
giữa sản xuất và tiêu dùng. Dưới góc độ tâm lý học, nhu cầu là một thuộc tính
tâm lý của con người, do đó, nó có những đặc tính: tính có đối tượng, tính năng
động, tính kích thích. Những đặc tính này là cơ sở quy định hoạt động của nhu

cầu đồng thời, chúng là những dấu hiệu riêng biệt để phân biệt nhu cầu với các
thuộc tính khác của tâm lý con người.
Nếu nhu cầu là những đòi hỏi loại trừ những thiếu hụt trong hoạt động
sống bình thường của con người cả về mặt xã hội và về mặt sinh vật thì nó phải


12

nhằm vào một hiện tượng, một đối tượng cụ thể trong thế giới bên ngoài, đòi hỏi
phải chiếm lĩnh, phải đạt cho được, để đưa cái bên ngoài ấy theo những tỷ lệ
nhất định vào hệ thống hoạt động sống bên trong của con người. Khi đó, nhu cầu
có tính đối tượng. Việc hướng tới một đối tượng nhất định để tiêu dùng, xác định
tính cụ thể của nhu cầu. Do đối tượng của con người là phong phú nên nhu cầu
của con người cũng vô cùng phong phú. Vì vậy, sẽ có nhiều chủng loại, nhiều
cấp bậc nhu cầu khác nhau tồn tại trong đời sống con người như : nhu cầu sinh
lý, nhu cầu xã hội, nhu cầu vật chất, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu văn hóa, nhu cầu
an ninh, nhu cầu y tế, nhu cầu giáo dục Khi đối tượng càng chia nhỏ thì xuất
hiện càng nhiều dạng nhu cầu cụ thể. Tính phong phú và đa dạng của nhu cầu,
do quá trình sản xuất và tiêu dùng quy định. Quá trình sản xuất xã hội không
những đáp ứng, làm thỏa mãn những nhu cầu trực tiếp của con người, những nhu
cầu ăn, mặc, ở mà còn thúc đẩy sự xuất hiện hàng loạt các nhu cầu gián tiếp
khác, đáp ứng tính nhiều mặt của nhu cầu con người.
Là một thuộc tính của tâm lý con người, nhu cầu có tính kích thích và tính
năng động. Tính kích thích của nhu cầu biểu hiện thông qua hai trạng thái. Khi
nhu cầu chưa được thỏa mãn tạo nên sự căng thẳng và tính kích thích cao độ. Sự
căng thẳng này thường kích thích những động cơ bên trong cá nhân tạo nên một
cuộc tìm kiếm nhằm có được một mục tiêu cụ thể. Khi nhu cầu được đáp ứng
gần mức mãn nguyện thì tính kích thích yếu dần, sự căng thẳng giảm đi. Hiểu rõ
quy luật này và vận dụng chúng một cách linh hoạt vào lĩnh vực sản xuất, sẽ có ý
nghĩa quan trọng. Một mặt, phát huy được vai trò động lực của nhu cầu trong sản

xuất, mặt khác, nhà sản xuất có được nghệ thuật làm thỏa mãn nhu cầu của
người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, người ta đã nghiên cứu nhu cầu dưới góc độ
kinh tế học và chỉ ra vai trò của nó với tư cách là động lực cho người lao động.
Có thể xem học thuyết học thuyết thứ bậc nhu cầu của Maslow là một ví
dụ. Đây là học thuyết tạo động lực được biết đến nhiều nhất trong quản lý điều


13

hành người lao động. Ông đặt ra giả thuyết rằng trong mọi con người đều tồn tại
một hệ thống nhu cầu 5 thứ bậc theo thứ tự từ thấp đến cao như sau: nhu cầu
sinh lý, nhu cầu về an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu về danh dự, nhu cầu tự hoàn
thiện. Khi một trong số các nhu cầu này được thỏa mãn một cách căn bản thì nhu
cầu tiếp theo sẽ chế ngự. Việc xuất hiện những nhu cầu chế ngự tiếp theo đã tạo
nên động lực kích thích người lao động làm việc. Theo Maslow, mặc dù không
có một nhu cầu nào được thỏa mãn triệt để nhưng khi nhu cầu được thỏa mãn
một cách căn bản sẽ không còn tạo ra động lực nữa. Hệ thống thứ bậc nhu cầu
này đã được nhiều nhà quản lý sử dụng làm công cụ hướng dẫn việc tạo động
lực cho người lao động [54, tr. 98, 99].
Chính sự căng thẳng của nhu cầu khi chưa tìm kiếm được mục tiêu cụ thể
để thỏa mãn, tạo nên tính năng động của nhu cầu. Tính năng động của nhu cầu
phụ thuộc vào tính năng động của cá nhân. Nếu như cá nhân tiết chế nhu cầu,
nếu nhu cầu của cá nhân bị khép kín thì sẽ kìm hãm sự phát triển của bản thân cá
nhân, kìm hãm sự phát triển của xã hội, đồng thời không thể khai thác được
tiềm năng sáng tạo trong mỗi con người. Do đó, khi tính năng động của cá nhân
được phát huy thì tính năng động của nhu cầu được đánh thức và phạm vi tính
năng động được mở rộng ra toàn xã hội. Điều này, một mặt, thúc đẩy sự phát
triển của toàn xã hội, mặt khác, phạm vi hoạt động và chất lượng thỏa mãn nhu
cầu cũng được tăng lên.
Do tính chất nhu cầu của con người có nhiều loại: nhu cầu thật, nhu cầu

giả. Nhu cầu lại phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh tế ở mỗi một giai đoạn
lịch sử nhất định. Nhu cầu còn phụ thuộc vào giới, vào độ tuổi, vào địa vị xã
hội, nhu cầu của người dân ở thành thị khác với nhu cầu của người dân nông
thôn…. Vì vậy, sự vận động của nhu cầu ở nước ta hiện nay rất phức tạp. Tuy
nhiên, cần phải nắm được xu hướng vận động chung của nhu cầu hiện nay là
gì, đó là điều cần thiết khi nghiên cứu vấn đề nhu cầu.


14

Một trong những biểu hiện về xu hướng vận động của nhu cầu hiện nay
là người dân có xu hướng thỏa mãn ngay, một cách trực tiếp những nhu cầu
vật chất và tinh thần hiện có mà chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo tiền đề
cơ bản, vững chắc để sau này thỏa mãn chúng ở mức độ cao hơn [31, tr. 29].
Nguyên nhân làm xuất hiện xu hướng này, là do sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta đã tạo nên những biến đổi trong nhu cầu và
khả năng tiêu dùng của người dân. Một mặt, mức độ nhu cầu tiêu dùng của
người dân cao hơn, phong phú hơn, mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa đã đem lại nhiều khả năng cho người dân lựa chọn phù hợp với nhu
cầu, thị hiếu, tiềm lực kinh tế. Hơn nữa, quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế,
cùng với sự thay đổi trong phương thức quản lý kinh tế, văn hóa cũng là
những nguyên nhân, làm thay đổi nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên cần phải thấy một nguyên nhân tâm lý không kém phần
quan trọng tác động đến sự thay đổi xu hướng tiêu dùng hiện nay. Đó là một
thời gian dài người dân phải chịu đựng, chắt chiu, dè sẻn trong việc thỏa mãn
những nhu cầu bình thường và thiết thực nhất trong cuộc sống thường nhật do
nền kinh tế quan liêu bao cấp trì trệ, đồng lương quá thấp. Thực trạng đó, dẫn
tới sự dồn nén, ức chế hệ thống nhu cầu của con người bao gồm cả nhu cầu
vật chất và nhu cầu tinh thần. Chỉ đến khi nền kinh tế hàng hóa thị trường
phát triển, đời sống vật chất được tăng lên mới xuất hiện xu hướng nhanh

chóng giải tỏa những dồn nén trước kia bằng cách thỏa mãn ngay và trực triếp
những đòi hỏi của hệ thống nhu cầu.
Nét thay đổi thứ hai trong xu hướng tiêu dùng của người dân hiện nay
đó là sự đa dạng hóa nhu cầu cùng với sự phát triển nhu cầu theo chiều sâu.
Đây là một đặc điểm mới đang tác động tích cực tới nền sản xuất xã hội. Nếu
như trước kia người ta chỉ quan tâm đến những nhu cầu tối thiểu, thường trực
trong cuộc sống hàng ngày như ăn, mặc và giành chủ yếu thu nhập để đáp ứng


15

nhu cầu này cho mọi thành viên trong gia đình thì giờ đây nội dung của nhu
cầu đã mở rộng vô cùng phong phú. Người ta không chỉ có nhu cầu được ăn
ngon, mặc đẹp, ở đẹp mà còn có nhu cầu được đi du lịch, nghỉ ngơi trong và
ngoài nước. Chẳng hạn nhu cầu về nhà ở hiện nay không chỉ đáp ứng những
chức năng tiện ích mà còn phải đảm bảo những chức năng thẩm mỹ. Từ đó
xuất hiện nhu cầu về nội thất như một nhu cầu tất yếu trong đời sống con
người. Tuy nhiên, đối tượng hướng tới thỏa mãn những nhu cầu này, chủ yếu
là người dân đô thị. Sự phát triển những nhu cầu mới còn trong phạm vi nhỏ
hẹp, do điều kiện kinh tế của đất nước và những điều kiện khách quan khác
chưa cho phép để thỏa mãn một cách phổ biến những nhu cầu này trong toàn
xã hội. Nhưng một khi nhu cầu vật chất của người dân được thỏa mãn tương
đối thì nhu cầu tinh thần sẽ phát triển nhanh, mạnh và bao trùm, quy định
toàn bộ phương thức thỏa mãn cả những nhu cầu vật chất. Sự phát triển của
những nhu cầu này là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Như vậy, cái quy định chủ yếu bản chất của nhu cầu đó là mối quan hệ
giữa sản xuất và tiêu dùng. Là một hiện tượng tâm lý của con người, nhu cầu
có các thuộc tính cơ bản: tính có đối tượng, tính năng động, tính kích thích.
Các thuộc tính này là cơ sở, quy định hoạt động của nhu cầu với tư cách là
một cấu trúc tâm lý độc lập.

Vậy nhu cầu thẩm mỹ có sự khác biệt như thế nào về bản chất so với
nhu cầu nói chung?
1.1.2 Bản chất của nhu cầu thẩm mỹ
Về định nghĩa nhu cầu thẩm mỹ lâu nay còn nhiều tranh cãi do vấn đề
này còn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Định nghĩa về nhu cầu
thẩm mỹ chủ yếu xuất hiện ở Liên Xô, ở Việt Nam chỉ có một vài học giả đưa
ra vấn đề này.


16

Theo P.V Ximônốp, có thể định nghĩa "nhu cầu thẩm mỹ là xu hướng
vốn có của con người muốn vươn tới chỗ làm cho tổ chức (hình thức, kết cấu)
của hình tượng phù hợp tới mức cao nhất với mục đích nhiệm vụ của nó trong
đời sống con người"[14, tr.5]. Đây là một trong số những định nghĩa, thể hiện
sự tương đối chính xác và cụ thể về các đặc trưng chức năng của nhu cầu
thẩm mỹ.
Theo P.L Ivanốp: "Nhu cầu thẩm mỹ là ý muốn của con người muốn
nhìn thấy, cảm thấy bằng các giác quan của mình một cái gì đó gây cho mình
những cảm xúc tốt". Ông viết tiếp:" Nhu cầu thẩm mỹ trước hết là nhu cầu
ngắm nhìn cái đẹp, thưởng thức cái đẹp." Cách định nghĩa này xem xét nhu
cầu thẩm mỹ chủ yếu ở các giác quan thẩm mỹ. Từ những hoạt động của các
giác quan bề ngoài của chủ thể, mang lại những khoái cảm thẩm mỹ, những
niềm vui do được thoả mãn về cái đẹp [14, tr.17].
Theo tác giả Đỗ Huy: "Nhu cầu thẩm mỹ là trạng thái cần thiết đòi hỏi
thoả mãn các thiếu hụt về mặt thẩm mỹ mà trung tâm là thoả mãn về cái
đẹp"[19, tr. 245]. Với định nghĩa này tác giả đã làm rõ nội dung của khái niệm
nhu cầu thẩm mỹ đó là trạng thái thiếu hụt về mặt thẩm mỹ, đặc biệt là sự thiếu
hụt về cái đẹp và những đòi hỏi được thoả mãn. Từ định nghĩa này có thể khai
thác nhu cầu thẩm mỹ ở góc độ xã hội, với tư cách là nhu cầu văn hóa cao cấp

trong đời sống con người.
Như vậy, có thể hiểu, nhu cầu thẩm mỹ là những đòi hỏi được thỏa mãn
những thiếu hụt về mặt thẩm mỹ, đặc biệt là sự thiếu hụt về cái đẹp trong đời
sống tinh thần của con người.
Trong luận văn này, chúng tôi không đặt cho mình nhiệm vụ đưa ra một
định nghĩa hoàn chỉnh về nhu cầu thẩm mỹ, mà chủ yếu đưa ra những luận điểm
xuất phát để hiểu được bản chất của nhu cầu thẩm mỹ với tư cách là một nhu cầu
cao cấp trong đời sống của con người. Như vậy, phải làm rõ được đặc thù của


17

nhu cầu thẩm mỹ trong hệ thống các nhu cầu của con người, cũng như với các
mặt khác của ý thức thẩm mỹ là cảm xúc, thị hiếu. Đồng thời, khi xem xét bản
chất của nhu cầu thẩm mỹ, phải hiểu nhu cầu thẩm mỹ là một hoạt động tinh
thần đặc biệt của con người góp phần tạo ra các giá trị thẩm mỹ. Từ đó cho thấy,
các xu hướng năng động sáng tạo không chỉ là biểu hiện của nhu cầu thẩm mỹ
trong hành vi sáng tạo các giá trị thẩm mỹ mà còn biểu hiện trong sự tiêu dùng
các giá trị thẩm mỹ.
Nhu cầu thẩm mỹ là sự đòi hỏi thoả mãn về cái đẹp. Vậy, tại sao con
người lại có nhu cầu đó, nhu cầu được thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái
đẹp? Đó là do yêu cầu của đời sống thực tiễn, đời sống tình cảm của con người.
Con người có khát vọng gắn hoạt động lao động thực tiễn với cái tốt, cái đẹp để
hoàn thiện bản thân mình, hoàn thiện cuộc sống xã hội loài người. Tuy nhiên,
không phải khi nào nhu cầu thẩm mỹ cũng xuất hiện và thường trực trong đời
sống con người. Nó chỉ xuất hiện dựa trên những điều kiện vật chất nhất định.
Khi những nhu cầu vật chất của con người được đáp ứng một cách tương đối
mới tạo điều kiện cho sự xuất hiện và tồn tại lâu dài của nhu cầu thẩm mỹ. Vậy,
nếu đối tượng của nhu cầu vật chất là đồ ăn, thức uống, quần áo, vật dụng, nhà
cửa… nhằm đáp ứng những đòi hỏi, những thiếu hụt về mặt sinh tồn thì đối

tượng của nhu cầu thẩm mỹ là gì ? Đối tượng của nhu cầu thẩm mỹ thuộc về đời
sống tinh thần hay trong đời sống vật chất?
Có thể hiểu, đời sống con người gồm hai phần cơ bản đó là đời sống vật
chất và đời sống tinh thần. Hoạt động của con người là hoạt động sản xuất theo
quy luật cái đẹp. Do đó, cái đẹp thẩm thấu và bao trùm trong mọi lĩnh vực của
đời sống con người, cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Khi cái đẹp
bao trùm và thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống đó là lúc xuất hiện đời
sống thẩm mỹ [27, tr. 12]. Như vậy, đối tượng thẩm mỹ, đó là những cái đẹp,
cái cao cả, cái hài, cái bi…xuất hiện và tồn tại trong đời sống thẩm mỹ. Đối


18

tượng thẩm mỹ không thuộc hoàn toàn về đời sống vật chất hay đời sống tinh
thần mà nó tồn tại khắp nơi trong đời sống xã hội của con người, trong nghệ
thuật, trong thiên nhiên, trong các quan hệ thẩm mỹ của con người. Ở đâu có
hoạt động của con người, ở đó xuất hiện quan hệ thẩm mỹ của con người với
thế giới hiện thực, xuất hiện đối tượng thẩm mỹ và nhu cầu thẩm mỹ.
Song cái gì quy định nhu cầu về đối tượng thẩm mỹ ? Đó là việc sản xuất
và tiêu dùng thẩm mỹ. Chính mối quan hệ này quy định tính xã hội của nhu cầu
thẩm mỹ. Đối tượng tiêu dùng nhu cầu thẩm mỹ, phương thức tiêu dùng của
loại nhu cầu này phụ thuộc vào quá trình sản xuất các giá trị thẩm mỹ.Thông
qua quá trình sản xuất và tiêu dùng các giá trị thẩm mỹ, tính xã hội của nhu
cầu thẩm mỹ được khẳng định. Vì chỉ con người mới tham gia vào quá trình
sản xuất và tiêu dùng các giá trị thẩm mỹ một cách toàn diện. Con vật cũng
tham gia vào sản xuất nhưng đó là hoạt động sản xuất phiến diện, nó chỉ sản
xuất cái mà bản thân nó trực tiếp cần đến do sự chi phối của nhu cầu thể xác
trực tiếp. Còn con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Con người đối
diện một cách tự do với sản phẩm của mình. Nếu con vật chỉ xây dựng theo
kích thước và nhu cầu của loài nó, thì con người có thể sản xuất theo kích

thước của bất kỳ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của
mình vào đối tượng. Do đó, con người có thể xây dựng cuộc sống của mình
theo quy luật cái đẹp [39, tr.137]. Chính vì con người có nhu cầu xây dựng
cuộc sống của mình theo quy luật cái đẹp nên hoạt động lao động của con
người mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thước đo các giá trị thẩm mỹ của con
người cũng được hình thành gắn liền với lịch sử lao động. Nhu cầu thẩm mỹ
của con người, nhu cầu lành mạnh, nhu cầu không lành mạnh, cũng được đo
bằng thước đo xã hội.
Như vậy, cái quy định trực tiếp nhu cầu thẩm mỹ của con người đó là
sự sản xuất và tiêu dùng thẩm mỹ, nhưng quá trình sản xuất và tiêu dùng thẩm


19

mỹ lại bị quy định bởi yếu tố nào? Đó là tác động của hoàn cảnh bên ngoài,
trong đó quan trọng nhất là tác động của sản xuất vật chất. Khi sản xuất đạt
tới một trình độ phát triển nhất định nào đó sẽ tạo ra ở người tiêu dùng những
nhu cầu nhất định. Hoàn cảnh sản xuất bên ngoài nói chung và sản xuất vật
chất nói riêng không những làm nảy sinh nhu cầu của con người mà còn cung
cấp đối tượng để thỏa mãn nhu cầu đó [53, tr 31]. Quá trình sản xuất và tiêu
dùng thẩm mỹ được nảy sinh và phát triển chỉ khi nền nền sản xuất xã hội đạt
tới một trình độ phát triển nhất định. Và chỉ dựa trên những điều kiện sản xuất
vật chất phát triển, nhu cầu thẩm mỹ mới trở thành nhu cầu được đáp ứng một
cách tất yếu của con người.
Mặc dù, nhu cầu thẩm mỹ phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, phụ
thuộc vào quá trình sản xuất và tiêu dùng thẩm mỹ nhưng nó còn phụ thuộc
vào trạng thái riêng của từng chủ thể. Đó là cảm giác, các giác quan của chủ
thể. Bởi vì, con người khẳng định mình trong thế giới đối tượng “không phải
chỉ trong tư duy mà cả bằng tất cả các cảm giác…”; “không những năm giác
quan bên ngoài mà cả những cái gọi là cảm giác tinh thần, những cảm giác

thực tiễn( ý chí, tình yêu v.v.)- nói tóm lại cảm giác của con người, tính người
của cảm giác chỉ được nảy sinh nhờ có đối tượng tương ứng, nhờ bản tính đã
nhân hóa” [39, tr.1 75 - 176]. Con người chiếm lĩnh thế giới đối tượng thẩm
mỹ bằng các giác quan nhưng nếu không có đối tượng tương ứng thì các giác
quan của con người không được đánh thức. Thế cho nên: “…chỉ có âm nhạc
thức tỉnh cảm giác âm nhạc của con người, đối với lỗ tai không thính âm nhạc
thì âm nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa gì cả, đối với nó, âm nhạc không
phải là đối tượng,…"[39, tr.175].
Như vậy, một đối tượng thẩm mỹ xuất hiện phải phụ thuộc vào nhu cầu
và cảm giác của chủ thể. Nếu anh ta không có nhu cầu về đối tượng thẩm mỹ
đó, sẽ không xuất hiện những cảm giác của anh ta về đối tượng và do vậy đối


20

tượng nằm ngoài phạm vi của nhu cầu, đối tượng nằm ngoài lĩnh vực sản
xuất.Ví dụ, chỉ có nhạc sĩ, nhạc công mới có nhu cầu về nhạc cụ. Còn ở người
không biết, không thích thú âm nhạc thì họ sẽ không có nhu cầu về điều đó.
Sản xuất phải dựa trên cơ sở những đối tượng thẩm mỹ mà nhu cầu hướng tới,
đồng thời sản xuất lại mở ra những đối tượng thẩm mỹ mới kích thích nhu cầu
thẩm mỹ. Do đó, quá trình sản xuất các đối tượng thẩm mỹ là một quá trình
thúc đẩy việc tiêu dùng các giá trị thẩm mỹ.
Tuy nhiên, sản xuất không chỉ tạo ra đối tượng cho tiêu dùng mà còn
xác định phương thức tiêu dùng đối tượng. Mác viết : “Cái đói cũng là cái
đói, nhưng cái đói được thỏa mãn bằng thịt nấu, và ăn bằng dao, nĩa thì khác
với cái đói dùng tay, móng và răng nuốt chửng thịt sống” [36, tr.866]. Đúng
là với mọi hình thức tiêu dùng, mỗi hình thức một kiểu, đều góp phần sản xuất ra
con người. Mác đã chỉ ra sự khác biệt trong cách thức tiêu dùng nhu cầu sinh
tồn giữa con người văn minh và con người ăn lông, ở lỗ. Ngay trong cách
thức tiêu dùng nhu cầu sinh tồn của con người đã thể hiện sự khác biệt rất lớn

về trình độ phát triển sản xuất vật chất, trình độ văn hoá và ý thức thẩm mỹ.
Vượt lên trên những nhu cầu đó, nhu cầu thẩm mỹ có một phương thức tiêu
dùng đặc biệt, khác với việc tiêu dùng đối tượng vật chất thông thường. Việc
tiêu dùng các giá trị thẩm mỹ phải sử dụng những giác quan đặc biệt tinh tế
của con người là tai và mắt. Nếu như việc tiến hành hoạt động ăn, uống ở con
người phải cần đến vị giác, khứu giác, phải cần đến hoạt động nhai của răng,
hàm, hoạt động tiêu hóa của dạ dày thì việc tiêu dùng các giá trị thẩm mỹ lại
đặc biệt cần đến sự nhạy cảm, tinh tế của đôi tai, đôi mắt, và đời sống tâm
hồn. Nếu trong quá trình ăn uống, một trong những hình thức tiêu dùng, con
người sản xuất ra thân thể của bản thân mình thì quá trình tiêu dùng các giá trị
thẩm mỹ, quá trình lĩnh hội cái đẹp và nắm được nội dung của chúng, góp phần
sản xuất ra con người có tâm hồn nhạy cảm, có đời sống tinh thần phong phú.


21

Quá trình chủ thể thẩm mỹ chiếm lĩnh thế giới đối tượng và tiêu dùng
các giá trị thẩm mỹ bằng các giác quan khẳng định tính riêng biệt, độc đáo
của nhu cầu thẩm mỹ so với các nhu cầu trong đời sống con người. Các giác
quan đóng vai trò vừa là công cụ trong quá trình chiếm lĩnh đối tượng thẩm
mỹ vừa là yếu tố tiêu dùng các đối tượng thẩm mỹ. Nếu không có sự phát
triển của những giác quan này( những giác quan bên ngoài, những cảm giác
tinh thần, những cảm giác thực tiễn) thì không thể xuất hiện nhu cầu thẩm mỹ
ở con người. Khi những giác quan đặc biệt (tai và mắt) được huy động một
cách hợp lý trong quá trình chiếm lĩnh và tiêu dùng đối tượng thẩm mỹ thì sẽ
xuất hiện hàng loạt nhu cầu về đối tượng thẩm mỹ tương ứng với các giác
quan:

Nhu cầu được thưởng thức âm nhạc = tai
Nhu cầu được ngắm nhìn thiên nhiên tươi đẹp = mắt

Nhu cầu được sáng tạo ra những sản phẩm nghệ thuật = mắt, tai
v.v.
Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà các giác quan của con người
được điêu luyện và trở nên tinh nhạy như hiện nay. Mác cho rằng, sự hình
thành năm giác quan, là công việc của toàn bộ lịch sử đã diễn ra từ trước tới
nay. Đặc biệt, “ chỉ nhờ sự phong phú đã được phát triển về mặt vật chất, của
bản chất con người, thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan của con
người mới phát triển…”[39, tr.175 -176].
Là một trong những thuộc tính tâm lý của con người, nhu cầu thẩm mỹ
có mối quan hệ gần gũi với tình cảm thẩm mỹ. Đây là hai phạm trù thuộc ý
thức thẩm mỹ có phạm vi gần nhau trong cách thức thỏa mãn, nhưng trên thực
tế, người ta hay đánh đồng hay cặp phạm trù này do chưa làm rõ được đặc


22

trưng của nó. Tính xác định đối tượng là một dấu hiệu quan trọng để phân biệt
hai thuộc tính tâm lý này.
Mặc dù, tình cảm thẩm mỹ và nhu cầu thẩm mỹ đều mang tính xác định
về đối tượng song mức độ xác định đối tượng của chúng là rất khác nhau.
Nhu cầu thẩm mỹ được phân chia rõ hơn phụ thuộc vào đối tượng cụ thể của
nó là các loại hình và các thể loại nghệ thuật, vào những hình thức biểu hiện
cơ bản của cái đẹp trong thực tại khách quan. Người ta hay nói nhu cầu thơ
ca, âm nhạc hợp lý hơn so với việc nói tình cảm âm nhạc, tình cảm điện ảnh,
thơ ca. Sự phân chia tình cảm thẩm mỹ có có phạm vi rộng lớn hơn so với
nhu cầu thẩm mỹ. Khái niệm tình cảm thẩm mỹ bao gồm xúc động về mặt
cảm xúc, niềm vui, sự khâm phục, nỗi kinh ngạc, niềm tự hào, xốn xang, niềm
cay đắng…nảy sinh khi cảm thụ tác phẩm nghệ thuật và vẻ đẹp của thế giới
thực tại. Người ta cũng xếp tất cả những tình cảm về sự đối xứng, màu sắc
hình thức, tính uyển chuyển, tỷ lệ cân đối hài hòa là những tình cảm mang

tính xác định về mặt thẩm mỹ. Ngoài ra, còn có nhóm tình cảm tương ứng với
các phạm trù mỹ học, đó là cái đẹp, cái bi, cái hài….Nhóm tình cảm này, có
đặc điểm mang bản chất khái quát về cảm xúc, vì cơ sở của chúng là một tư
tưởng, một nền tảng thế giới quan nhất định. Nó thể hiện những hình thức
tương đối rộng của các quan hệ thẩm mỹ không chỉ trong nghệ thuật mà còn
trong đời sống xã hội, tự nhiên [15, tr.182].
Trong mối quan hệ giữa nhu cầu thẩm mỹ với các thành tố khác của ý
thức thẩm mỹ trong đó có tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ được xem là
cốt lõi của ý thức thẩm mỹ của cá nhân con người, là cơ sở tâm lý của các
hình thức ý thức thẩm mỹ khác. Tuy nhiên, nếu không có tình cảm thẩm mỹ
thì cũng không có nhu cầu thẩm mỹ, việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ lại nảy
sinh những tình cảm thẩm mỹ tác động đến chủ thể. Chính vì vậy, trong sự
hình thành và hoạt động của mình, nhu cầu thẩm mỹ không những phải gắn


23

bó với các hình thức gần gũi với nó như tình cảm, thị hiếu… mà còn tìm đến
sự giúp đỡ của các hình thức này để bổ sung cho sự phát triển của mình.
Nhu cầu thẩm mỹ với tính cách là một thuộc tính tâm lý đặc biệt của
con người còn có tính chất ổn định. Tính ổn định của nhu cầu thẩm mỹ thể
hiện thông qua việc, chủ thể thường xuyên hướng tới tiêu dùng những đối
tượng thẩm mỹ nhất định. Tính ổn định của nhu cầu thẩm mỹ tạo thành cái
nền vững chắc nhất và sâu sắc nhất trong con người.
Do nhu cầu thẩm mỹ có tính ổn định nên nó có mối quan hệ mật thiết
với thị hiếu thẩm mỹ. Thị hiếu được bộc lộ qua nhu cầu. Nhu cầu phản ánh thị
hiếu. Chính những tình cảm của thị hiếu mang tính bền vững và sâu sắc tạo
nên nhu cầu thẩm mỹ mạnh mẽ và ổn định. Thị hiếu còn có tính khuynh
hướng.Tính khuynh hướng của thị hiếu lại là cơ sở cho việc tạo ra những nhu
cầu chuyên biệt trong nghệ thuật. Do thị hiếu thẩm mỹ làm nảy sinh những

nhu cầu có tính ổn định và chuyên biệt, nên trong quá trình hoạt động của
mình, nhu cầu thẩm mỹ thường đi tìm những khách thể quen thuộc, mang tính
ổn định. Tuy nhiên, quá trình sản xuất xã hội bao giờ cũng một mặt, đáp ứng
những nhu cầu có tính ổn định của con người mặt khác, lại mở rộng nhu cầu,
thúc đẩy sự phát triển nhu cầu. Theo đó, tâm lý của người tiêu dùng sẽ vừa
hướng tới những đối tượng thẩm mỹ quen thuộc vừa mở rộng phạm vi nhu
cầu thẩm mỹ của mình, bằng cách tích cực tiêu dùng những giá trị thẩm mỹ
mới. Vì vậy, nhu cầu thẩm mỹ, mặc dù là một cấu trúc tâm lý ổn định của cá
nhân, nhưng lại có tính năng động đặc biệt.
Tính năng động của nhu cầu thẩm mỹ thể hiện ở những giai đoạn phát
triển của nó. Thông thường người ta chia ra hai giai đoạn: thứ nhất con người
bắt đầu cảm thấy thiếu một cái gì đó và cảm giác ấy dần dần tăng lên; thứ hai,
sự căng thẳng đã nảy sinh giảm xuống và tắt dần theo qua trình những thiếu
hụt được loại trừ do chỗ con người tích cực khai thác đối tượng của nhu cầu


24

[14, tr.18]. Hai giai đoạn này xảy ra nối tiếp nhau theo quy luật chứ không
phải ngẫu nhiên. Nếu như ở nhu cầu sinh tồn của con người, chẳng hạn nhu
cầu ăn, nhu cầu uống …, tính chất định kỳ và tính quy luật theo thời gian
được thể hiện một cách đơn giản và rất rõ rệt thì với nhu cầu tinh thần, nhu
cầu cao cấp của con người, ranh giới giữa các giai đoạn phát triển của nó có
tính chất ước lệ. Việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ gắn với việc cảm thụ những
giá trị tinh thần của con người, gắn với việc phi đối tượng hóa thực tại bên
ngoài một cách độc đáo chứ không phải gắn với việc tiêu dùng trực tiếp các
giá trị vật chất.
Tính năng động của nhu cầu thẩm mỹ còn thể hiện thông qua động cơ
hành động của nhu cầu. Động cơ được hiểu là những trạng thái tâm lý năng
động của tâm lý con người, là trạng thái kích thích của cá nhân, trên phương

diện tâm lý, chúng quyết định hành vi hoạt động của cá nhân [15, tr.24]. Nhu
cầu xuất phát từ một động cơ nhất định. Khi đó, động cơ trở thành sức mạnh
kích thích hoạt động của con người. Nhờ sức mạnh kích thích của nhu cầu,
mà ở con người hình thành những chuỗi hành động tích cực, nhằm tìm tòi đối
tượng, khám phá những điều kiện cần thiết trong hoạt động sống để thỏa mãn
những thiếu hụt của nhu cầu. Đối với nhu cầu thẩm mỹ, động cơ tích cực của
nó thể hiện ở sức mạnh kích thích, thúc đẩy toàn bộ hoạt động thẩm mỹ của con
người.
Về cơ bản, động cơ hành động thẩm mỹ của cá nhân phản ánh nhu cầu
thẩm mỹ của cá nhân đó. Chỉ khi trở thành động cơ thì nhu cầu mới có được
tính xác định về mặt tâm lý học. Tuy nhiên, cùng một hành động biểu hiện ra
bên ngoài, có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau. Trong hoạt động
thưởng thức âm nhạc chẳng hạn, khán giả vào rạp hát với những động cơ khác
nhau. Người thì đến để xem các “sao” của mình biểu diễn như thế nào, người
thì tự mình đến nhưng không hiểu rõ mình đến để làm gì, người thì đến để

×