Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quan niệm của Lép Tônxtôi về đạo đức trong tác phẩm Đường sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.02 KB, 86 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ THẢO



QUAN NIỆM CỦA LÉP TÔNXTÔI VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG TÁC PHẨM “ĐƢỜNG SỐNG”


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học






HÀ NỘI - 2014

2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1


1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn 10
7. Kết cấu của luận văn 10
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI NƢỚC NGA THẾ KỶ XIX VÀ LÉP
TÔNXTÔI VỚI TÁC PHẨM ĐƯỜNG SỐNG 11
1.1. Bối cảnh xã hội nƣớc Nga thế kỷ XIX 11
1.2. Con ngƣời, sự nghiệp văn chƣơng Lép Tônxtôi và cơ sở tƣ tƣởng
của quan niệm của ông về đạo đức 17
1.2.1. Con ngƣời Lép Tônxtôi 17
1.2.2. Sự nghiệp văn chƣơng 21
1.2.3. Cơ sở tƣ tƣởng của quan niệm của Lép Tônxtôi về đạo đức 25
1.3. Nội dung, đặc điểm cơ bản của tác phẩm Đƣờng sống 29
Tiểu kết chƣơng 1 33
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM LÉPTÔNXTÔI VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG TÁC PHẨM ĐƯỜNG SỐNG 34
2.1. Cái thiện là sống cho phần hồn 34
2.2. Yêu thƣơng không ngừng và vô bờ 42
2.3. Nghĩa vụ là sự thực hành ý nguyện của Thƣợng Đế 47
2.4. Hạnh phúc ở cuộc sống thiện lƣơng 53
Tiểu kết chƣơng 2 63
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI
CỦA QUAN NIỆM LÉP TÔNXTÔI VỀ ĐẠO ĐỨC 64
3.1. Những giá trị và hạn chế của quan niệm Lép Tônxtôi về đạo đức 64
3.2. Ý nghĩa hiện thời 69
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến nay ít có nền văn học nào trên thế giới có sức hấp dẫn và ảnh
hƣởng lớn đến đời sống tâm hồn ngƣời Việt Nam nhƣ văn học Nga. Điều
này có thể là do mối quan hệ giữa hai nƣớc, nhƣng trƣớc hết, tự thân những
tác phẩm văn học Nga đã chứa đựng những tƣ tƣởng tiên tiến, những giá trị
thẩm mỹ lớn lao, tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tâm tƣ tình cảm của
ngƣời Việt trong một giai đoạn lịch sử của đất nƣớc, nhất là trong thời kỳ
chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những tên tuổi ảnh hƣởng lớn đến văn học Việt Nam, Lép
Tônxtôi chiếm một vị trí nổi bật. Với sự ra đời của tác phẩm Đường sống,
Lép Tônxtôi sẽ còn ảnh hƣởng sâu rộng không chỉ đến văn học mà còn đến
đời sống tinh thần, văn hóa xã hội nƣớc ta, trong đó có lĩnh vực đạo đức.
Văn học Nga sở hữu những tên tuổi chói lọi nhƣ Puskin, Sêkhôp,
Lécmantốp, Đôstôiepski, Tuôcghênhep, Lép Tônxtôi, v.v. trong đó nổi bật
là Lép Tônxtôi mà các tác phẩm của ông đã trở thành mẫu mực, tinh hoa của
nền nghệ thuật đƣơng đại và có ảnh hƣởng lâu dài, sâu rộng đến không chỉ
nền văn học Nga mà cả các nền văn học khác trên thế giới. Lép Tônxtôi là
một nhà văn vĩ đại của nƣớc Nga, đồng thời là nhà triết học, nhà tƣ tƣởng
đạo đức. Trong các tác phẩm bất hủ của mình, ông luôn day dứt, trăn trở về
các vấn đề đạo đức và coi đó là vấn đề hết sức quan trọng. Là một nhà luân
lý, ông nổi tiếng với tƣ tƣởng chống lại cái ác và bảo vệ những giá trị tốt
đẹp, ƣơm mầm hạnh phúc cho cuộc sống vốn nhiều bất công, dù phải đơn
thƣơng độc mã. Tác phẩm Đường sống - cuốn văn thƣ nghị luận chọn lọc các
thƣ từ và bài viết chính luận của Lép Tônxtôi đã cho chúng ta cái nhìn toàn
diện hơn về ông với tƣ cách một nhà tƣ tƣởng, một triết gia lớn. Trong
Đường sống, Lép Tônxtôi trình bày rất nhiều vấn đề nhƣ giáo dục, đạo đức,


2
tôn giáo, khoa học, chính trị, triết học, nhƣng nổi bật nhất là về đạo đức mà
trong đó quan niệm về cái thiện, tình yêu thƣơng, nghĩa vụ, hạnh phúc đƣợc
trình bày cô đọng và rõ nét hơn cả với những giá trị nhân văn sâu sắc.
Nghiên cứu Lép Tônxtôi với những nội dung trên có ý nghĩa quan trọng đối
với ý thức cũng nhƣ thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển hội nhập, cùng với sự phát
triển của kinh tế, đạo đức xã hội của nƣớc ta đã có nhiều tiến bộ, tính năng
động của con ngƣời cũng tăng lên, quan hệ giữa con ngƣời trong xã hội bình
đẳng hơn, ý thức trách nhiệm của mỗi ngƣời trong xã hội cũng cao hơn,
nhƣng bên cạnh đó mặt trái của kinh tế thị trƣờng và sự hội nhập quốc tế đã
và đang có những tác động xấu đến đời sống đạo đức xã hội. Không phải
ngẫu nhiên mà một số ngƣời cho rằng nền đạo đức ở nƣớc ta hiện nay đang
có nguy cơ ―trƣợt dốc‖. Triết lý ―sống chết mặc bay‖ đang ―gặm nhấm‖ các
giá trị đạo đức truyền thống. Lối sống thực dụng, tâm lý sùng bái đồng tiền,
lấy tiền làm thƣớc đo giá trị con ngƣời đã chi phối nhiều quan hệ đạo đức,
trở thành nguyên tắc xử thế của không ít ngƣời. Không ít trƣờng hợp vì đồng
tiền và địa vị mà ngƣời ta sẵn sàng chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ
thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng cũng từ đó mà phát
triển, ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng, đáng báo động ở
cấp cao nhất. Không những quan hệ giữa con ngƣời với nhau trên thị trƣờng
mà cả những quan hệ trong gia đình cũng bị sức mạnh của đồng tiền chi phối
và làm băng hoại. Vì sự cám dỗ của đồng tiền mà ngƣời ta sẵn sàng bán rẻ
nhân phẩm, tiếp tay cho các tệ nạn xã hội, vì đồng tiền con cái hành hung
cha mẹ, anh em từ bỏ nhau, vợ chồng ly tán, các quan hệ trong gia đình bị
đảo lộn.
Đáng lo ngại nhất là sự xuống cấp đạo đức lại diễn ra phức tạp nhất ở
lứa tuổi thanh thiếu niên - thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc. Tuổi trẻ vốn là mùa

3

xuân của đất nƣớc, nếu những ―mùa xuân‖ này sớm tàn úa thì xã hội sẽ tiềm
ẩn nguy cơ bất ổn. Đặc điểm của tuổi trẻ là giàu nhiệt tình, năng động, ham
khám phá cái mới, say sƣa trong hành động nhƣng lại thiếu kinh nghiệm và
tri thức về cuộc sống. Mặt khác, sự bồng bột, xốc nổi làm cho họ dễ dao
động trong sự lựa chọn những giá trị, chuẩn mực. Trƣớc những tác động tiêu
cực, họ thƣờng dễ bị tập nhiễm cái xấu, cái xa lạ với bản chất văn hóa đạo
đức của con ngƣời. Thực tế đã cho thấy một bộ phận đáng kể thanh thiếu
niên bị cuốn theo lối sống thực dụng, tiêu dùng, chỉ coi trọng sự giàu có vật
chất mà xem thƣờng các giá trị đạo đức, văn hóa tinh thần. Điều đó dẫn đến
sự sa đọa trong tinh thần và lối sống, những tệ nạn xã hội và nhiều trƣờng
hợp đã dẫn tới hành vi phạm tội. Đây là một nguy cơ, hậu quả cần phải ngăn
chặn và tìm cách xóa bỏ. Bởi vậy, quan niệm đạo đức của Lép Tônxtôi về cái
thiện, tình yêu thƣơng, nghĩa vụ và hạnh phúc chính là một trong những
hành trang quan trọng để thế hệ trẻ mang theo khi bƣớc chân vào cuộc sống,
giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam có cái nhìn biết yêu thƣơng và chia sẻ, vƣợt
qua đƣợc những cám dỗ vật chất tầm thƣờng do tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trƣờng và những giá trị ngoại lai phản văn hóa trong quá trình mở
cửa, hội nhập.
Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới cũng nhƣ của Việt Nam chỉ
ra rằng chúng ta không thể chấp nhận sự tăng trƣởng đơn thuần về kinh tế
với cái giá phải trả là sự mai một bản sắc văn hóa dân tộc, sự hủy họai các
giá trị đạo đức truyền thống. Chính đạo đức với những giá trị tốt đẹp nhƣ
lòng yêu nƣớc, tình yêu thƣơng con ngƣời, yêu thƣơng đồng loại, cái thiện,
hạnh phúc, nghĩa vụ, tinh thần chịu đựng gian khổ có tác dụng củng cố, phát
triển mối quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con ngƣời Việt Nam vƣợt qua
muôn vàn khó khăn trong lịch sử để tồn tại, phát triển. Cho nên việc bảo vệ
các giá trị đạo đức truyền thống là vấn đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc và

4
có sự quan tâm đặc biệt cùng với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị

trƣờng ở nƣớc ta hiện nay. Nhƣng để gìn giữ, phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì cần phải nghiên cứu, hiểu biết
sâu rộng lịch sử đạo đức, trong đó có quan niệm đạo đức của Lép Tônxtôi.
Bản thân tác giả là ngƣời dành nhiều tình cảm, sự quan tâm đặc biệt
đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật gắn liền với vấn đề đạo đức, nhất là
tác phẩm Đường sống - tác phẩm chính luận đặc sắc của Lép Tônxtôi.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài ―Quan niệm của Lép Tônxtôi
về đạo đức trong tác phẩm Đường sống‖ để thực hiện luận văn thạc sỹ triết
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trƣớc đến nay ở Việt Nam hầu nhƣ chỉ nghiên cứu Lép Tônxtôi với
tƣ cách một nhà văn thông qua các tác phẩm văn học của ông, từ đó chỉ ra
những giá trị tƣ tƣởng đƣợc thể hiện trong đó. Cho nên việc hiểu Lép
Tônxtôi nhƣ một nhà triết học, nhà tƣ tƣởng đạo đức là vấn đề còn mới mẻ
đối với chúng ta.
Trƣớc năm 1954, nhiều tác phẩm của Lép Tônxtôi đƣợc dịch và xuất
bản ở Việt Nam, tên tuổi của ông đã xuất hiện trên một số bài phê bình, khảo
cứu của một số nhà văn nhƣ Hải Triều, Nhất Linh, Thạch Lam…Họ đều
khẳng định Lép Tônxtôi là chỗ dựa tin cậy về quan điểm nghệ thuật, cách
viết tiểu thuyết cũng nhƣ nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Bao trùm lên
hầu hết các bài viết của các nhà văn Việt Nam về Lép Tônxtôi là sự thán
phục, là tinh thần hiện đại, muốn gia nhập vào dòng chảy chung của văn hóa
nhân loại, là cố gắng tiếp thu tinh hoa của văn học Nga để tìm ra hƣớng đi
mới cho văn học nƣớc nhà trong giai đoạn chuyển mình nửa đầu thế kỷ XX.
Việc nghiên cứu Lép Tônxtôi với tƣ cách một nhà văn thể hiện rõ
trong công trình nhiều tập của Hoàng Xuân Nhị: ―Lịch sử văn học Nga‖.

5
Tiếp đó là bộ giáo trình ―Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX‖. Qua các bộ giáo
trình này, ngƣời đọc thấy rõ hơn, cụ thể hơn tƣ tƣởng nghệ thuật của Lép

Tônxtôi nhƣ yêu thích tƣ tƣởng nhân dân, cố gắng viết lịch sử dân tộc trong
hình thức tiểu thuyết.
Năm 1960, đúng vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất của Lép Tônxtôi
(1910 – 1960), Tạp chí Nghiên cứu văn học có đăng bài ―Đại văn hào Nga
L.N. Tônxtôi‖ của Nguyễn Hải Hà. Tác giả xem cuộc đời Lép Tônxtôi là
hành trình khát khao vƣơn tới sự hoàn thiện đồng thời phân tích những vấn
đề cơ bản đặt ra trong tác phẩm của Lép Tônxtôi, khẳng định đóng góp của
ông đối với văn học Nga và văn học thế giới.
Việc nghiên cứu Lép Tônxtôi đƣợc tiến hành trên quy mô ngày càng
phong phú cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Năm 1986, sau nhiều năm nghiên
cứu, giảng dạy, Nguyễn Trƣờng Lịch cho ra mắt công trình ―L.N. Tônxtôi‖.
Chuyên luận phản ánh cái nhìn bao quát về đại văn hào, từ tiểu sử, sự nghiệp
sáng tác đến tầm ảnh hƣởng thế giới lớn lao của Lép Tônxtôi trong thế kỷ
XX. Phần trọng tâm chuyên luận, tác giả đi sâu tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực
của Lép Tônxtôi. Theo Nguyễn Trƣờng Lịch, đặc trƣng cơ bản nhất trong
các sáng tác của Lép Tônxtôi chính là tính chất sử thi - tâm lý. Tác giả khẳng
định Lép Tônxtôi là nhà văn Nga mô tả đƣợc đời sống bên trong nhân vật
nhƣ một quá trình tâm lý nội tại, tự vận động, đồng thời sự trần thuật của ông
đạt tới chiều rộng và tính bao quát sử thi. Điều này mở ra trƣớc văn học khả
năng rộng lớn của sự chiếm lĩnh thẩm mĩ đối với hiện thực.
Từ đầu thế kỷ XXI, bên cạnh những chuyên gia văn học Nga đang
phát huy ảnh hƣởng rất tích cực nhƣ PGS.Phạm Vĩnh Cƣ, Đào Tuấn Ảnh,
Phạm Gia Lâm, ở Việt Nam xuất hiện một thế hệ nghiên cứu mới. Đó chủ
yếu là giảng viên các trƣờng đại học đƣợc đào tạo ở Nga và ở Việt Nam. Họ
đã có những giáo trình, chuyên luận về văn học Nga và về Lép Tônxtôi. Có

6
thể kể đến những giáo trình, chuyên luận của Hà Thị Hòa, Đỗ Hải Phong,
Phạm Thị Phƣơng, Trần Thị Quỳnh Nga,v.v. Các công trình của họ nghiên
cứu Lép Tônxtôi nhƣ là cá tính tƣ tƣởng, cá tính sáng tạo trong quan hệ với

chủ nghĩa hiện thực, với cơ đốc giáo đặc trƣng của Nga và với dòng chảy của
văn hóa Nga, văn hóa nhân loại.
Có thể nói, trong hành trình gia nhập vào quỹ đạo văn học thế giới,
văn học Việt Nam mang theo bên mình một hành trang quý giá - những tác
phẩm của đại văn hào Nga - Lép Tônxtôi. Sáng tác của ông đã có nhiều đóng
góp cho sự hình thành và phát triển nền văn học hiện đại Việt Nam qua mọi
chặng đƣờng. Nhƣng, những đóng góp của Lép Tônxtôi cho nhân loại không
chỉ dừng lại ở lĩnh vực văn học, sẽ thật thiếu sót khi chúng ta lãng quên
những cống hiến của ông về mặt triết học với những quan niệm đạo đức sâu
sắc và đầy tính nhân văn. Việc nghiên cứu Lép Tônxtôi với tƣ cách nhà văn
đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu kỹ lƣỡng, nhƣng việc nghiên cứu Lép
Tônxtôi nhƣ một nhà triết học, nhà tƣ tƣởng đạo đức vẫn là vấn đề còn mới
mẻ đối với chúng ta.
Mới đây, nhà xuất bản Tri thức đã xuất bản cuốn Đường sống do PGS.
Phạm Vĩnh Cƣ và một số học giả tuyển chọn, dịch và giới thiệu. Tác phẩm
dầy gần 1.300 trang với 90 bài viết chính luận và nhiều thƣ từ do chính Lép
Tônxtôi viết gửi cho ngƣời thân, bạn bè và độc giả. Qua nghiên cứu, tác giả
nhận thấy Đường sống chứa đựng nhiều tƣ tƣởng triết học, giáo dục, đạo
đức, chính trị rất quan trọng và có giá trị của Lép Tônxtôi.
Vì tác phẩm này mới xuất hiện ở Việt Nam nên những nghiên cứu về
tác phẩm này chƣa nhiều. Đến nay chúng ta có thể chỉ ra những tài liệu tiêu
biểu nhƣ bài viết của TS.Phạm Văn Chung trên Tạp chí Khoa học Xã hội
Việt Nam: ―Tƣ tƣởng của Lép Tônxtôi về lẽ sống‖, tháng 4 năm 2012; Bài
―Lẽ sống‖ của TS.Phạm Văn Chung trong tập bài giảng Đạo đức học, Nhà

7
xuất bản Chính trị Quốc gia, tháng 9 năm 2012 và đặc biệt là bài ―Giới thiệu
tác phẩm Đƣờng sống‖ nhân dịp ra mắt cuốn sách này ở Việt Nam của PGS
Phạm Vĩnh Cƣ.
Những bài viết của TS.Phạm Văn Chung đề cập đến một khía cạnh tƣ

tƣởng đạo đức của Lép Tônxtôi là lẽ sống, tác giả bàn rất kỹ về vấn đề này
khi đƣa ra những đặc trƣng và những yếu tố cơ bản của lẽ sống. Thứ nhất,
tác giả nói về lẽ sống chung, về mối liên hệ giữa thế giới quan và ý nghĩa
cuộc sống. Thứ hai, tác giả bàn về mục đích cuộc sống trong mối liên hệ mật
thiết giữa thế giới quan và lẽ sống. Thứ ba, tác giả phân tích nghĩa vụ trong
mối liên hệ mật thiết với hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống. Thứ tư, tác giả làm
rõ quan niệm về hạnh phúc vốn gắn liền với ý nghĩa cuộc sống. Thứ năm, tác
giả làm sáng tỏ mối liên hệ giữa nghĩa vụ, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống và
thế giới quan. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng trong chiều sâu tƣ tƣởng của
Lép Tônxtôi, lẽ sống chân chính của con ngƣời là sự sáng tạo không ngừng
ra thế giới của tình yêu, hòa bình vĩnh viễn giữa con ngƣời với con ngƣời.
Chính điều này làm cho Lép Tônxtôi trở nên vĩ đại và sống mãi với thời
gian. Tƣ tƣởng của Lép Tônxtôi về lẽ sống chân chính rất có ý nghĩa đối với
hiện nay khi vấn đề đặt ra không chỉ là xây dựng lẽ sống chân chính, cao đẹp
của mỗi cá nhân, mà đặc biệt còn là cho cả một dân tộc, cộng đồng, thậm chí
của loài ngƣời trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng rộng
lớn và sâu sắc. Mặc dù bài viết của TS.Phạm Văn Chung có sự xem xét vấn
đề lẽ sống nhƣ là một sự kết hợp của nhiều yếu tố đạo đức khác trong tƣ
tƣởng đạo đức của Lép Tônxtôi, nhƣng đây vẫn chỉ là sự đề cập đến một
khía cạnh riêng mà chƣa đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ nội dung quan niệm
đạo đức của Lép Tônxtôi.
Trong bài ―Giới thiệu tác phẩm Đƣờng sống‖, PGS.Phạm Vĩnh Cƣ đã
bàn đến nhiều nội dung của tác phẩm Đường sống, những tƣ tƣởng của Lép

8
Tônxtôi thuộc nhiều lĩnh vực nhƣ chính trị, khoa học, văn hóa, giáo dục, triết
học, đạo đức. Tác giả đã chỉ ra sự thiếu sót khi chỉ biết đến sự vĩ đại của Lép
Tônxtôi với tƣ cách một đại văn hào Nga và thế giới, khi đề cao đến mức
tuyệt đối hóa sáng tác văn học của ông, biến nó gần nhƣ thành một thứ
khuôn vàng thƣớc ngọc cho ngƣời cầm bút trong hiện tại và tƣơng lai nhƣng

lại hạ thấp cũng hết mức Tônxtôi - nhà tƣ tƣởng, xem cái phần ấy trong di
sản của ông là vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không cần thiết cho công cuộc
xây dựng xã hội mới, con ngƣời mới. Tác giả khẳng định sự vĩ đại của Lép
Tônxtôi còn ở chỗ ông là một nhà tƣ tƣởng, một triết gia theo đúng nghĩa của
nó. Trong bài viết của mình, PGS.Phạm Vĩnh Cƣ còn quan tâm hơn đến tƣ
tƣởng đạo đức của Lép Tônxtôi, trong đó ông tập trung vào tƣ tƣởng của Lép
Tônxtôi về ý nghĩa cuộc sống và vạch ra nội dung, ý nghĩa lớn lao của tƣ
tƣởng Lép Tônxtôi. Tuy vậy, ông cũng chƣa đề cập đến toàn bộ quan niệm
của Lép Tônxtôi về đạo đức.
Nhƣ vậy, những bài nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến một số
khía cạnh tƣ tƣởng đạo đức của Lép Tônxtôi, cụ thể là về lẽ sống, ý nghĩa
cuộc sống hoặc chủ yếu giới thiệu chung về tác phẩm Đường sống, chƣa có
sự nghiên cứu sâu sắc, hệ thống nội dung quan niệm của Lép Tônxtôi về đạo
đức trong tác phẩm này. Với lƣợng bài nghiên cứu còn ít nhƣ vậy, chúng tôi
nhận thấy đây là điều thuận lợi trong nghiên cứu đề tài, nhƣng cũng đồng
thời là khó khăn lớn vì thiếu các tiền đề, yếu tố để kế thừa.
Với tình hình nghiên cứu nhƣ vậy, theo chúng tôi cần có một cái
nhìn hệ thống hơn, toàn diện hơn về quan niệm đạo đức của Lép
Tônxtôi, đồng thời từ đó áp dụng vào nhận thức và thực tiễn xã hội
nƣớc ta hiện nay.



9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm của Lép Tônxtôi về
đạo đức trong tác phẩm Đường sống. Đây là tác phẩm tập hợp có lựa chọn
các bài nghị luận, văn thƣ đặc sắc của Lép Tônxtôi do Nhà xuất bản Tri thức
ấn hành.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung vào nội dung cơ bản của quan

niệm Lép Tônxtôi về đạo đức, cụ thể là các quan niệm về cái thiện, hạnh
phúc, tình yêu thƣơng và nghĩa vụ. Tuy nhiên, để hiểu đƣợc quan niệm đạo
đức của Lép Tônxtôi trong tác phẩm Đường sống, tác giả còn phải nghiên
cứu, tìm hiểu bối cảnh nƣớc Nga thế kỷ XIX, cơ sở tƣ tƣởng của quan niệm
đạo đức của Lép Tônxtôi và những vấn đề lý luận chung về đạo đức.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm rõ nội dung cơ bản của quan niệm Lép
Tônxtôi về đạo đức trong tác phẩm Đường sống, từ đó chỉ ra những giá trị,
hạn chế và ý nghĩa hiện thời của nó.
Để đạt mục đích trên, những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là
1) Tìm hiểu những nét cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp văn chƣơng của
Lép Tônxtôi, những nội dung cơ bản của tác phẩm Đường sống và bối cảnh
xã hội nƣớc Nga thế kỷ XIX.
2) Xem xét, vạch ra nội dung cơ bản quan niệm của Lép Tônxtôi về
đạo đức trong tác phẩm Đường sống.
3) Bƣớc đầu đánh giá những giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của
những quan niệm về đạo đức của Lép Tônxtôi. Trong các nhiệm vụ này,
nhiệm vụ thứ hai là nhiệm vụ trọng tâm của nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản là
phƣơng pháp kết hợp lịch sử và logic, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

10
thực tiễn, bƣớc đầu sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành (triết học,
đạo đức, văn chƣơng…) và các phƣơng pháp khác nhƣ phân tích, so sánh,
tổng hợp.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
Tác giả mong muốn kết quả luận văn của mình sẽ đóng góp thêm vào
hiểu biết về Lép Tônxtôi với tƣ cách một nhà tƣ tƣởng đạo đức học từ góc
nhìn triết học đạo đức.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, ba chƣơng, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.


11
CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH XÃ HỘI NƢỚC NGA THẾ KỶ XIX VÀ LÉP TÔNXTÔI
VỚI TÁC PHẨM ĐƯỜNG SỐNG
Theo một nghĩa nào đó, mỗi nhà văn lớn đều là nhà tƣ tƣởng. Tƣ
tƣởng của nhà văn bắt nguồn từ thực tiễn, gắn liền với thực tiễn và phản ánh
một cách sinh động, rõ nét những sự kiện diễn ra trong cuộc sống. Lép
Tônxtôi là một nhà văn, nhà tƣ tƣởng và là hiện thân của sự trung thực, dũng
cảm, bao dung. Những quan niệm đạo đức của Lép Tônxtôi không tách rời
thời đại mà ông sống - thời đại từ sau năm 1861 đến trƣớc năm 1905 - thời
đại đầy sóng gió với cuộc cách mạng đầu tiên ở Nga. Từ hiện thực xã hội
phức tạp, thậm chí bị đảo lộn của nƣớc Nga, Lép Tônxtôi đã ―thai nghén‖
những quan niệm đạo đức về một tƣơng lai tốt đẹp, nơi mà ở đó con ngƣời
sống với nhau bằng lòng yêu thƣơng và tâm hồn lƣơng thiện.*
1.1. Bối cảnh xã hội nƣớc Nga thế kỷ XIX
Thế kỷ XIX là một thế kỷ đầy biến động với cuộc đấu tranh lâu dài,
gay gắt của nhân dân Nga chống lại chế độ nông nô chuyên chế tàn bạo và
phản động. Quan hệ sản xuất chủ yếu của xã hội Nga trong thế kỷ này là
quan hệ nông nô chuyên chế, nó kìm hãm sức sản xuất phát triển, giam hãm
nông dân trong cảnh sống cơ cực và tƣớc mất những quyền cơ bản nhất của
con ngƣời, kể cả quyền tự do thân thể.
—————————
* Phần tƣ liệu lịch sử của chƣơng này tác giả chủ yếu kế thừa các nhà nghiên
cứu trong các cuốn sách là Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX (1962) do Hoàng
Xuân Nhị chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành và Lịch sử văn học Nga

thế kỷ XIX (1998) của Nguyễn Hải Hà (chủ biên) do Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội ấn hành.

12
Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Nga lúc này là mâu thuẫn giữa quần
chúng nông nô và giai cấp quý tộc địa chủ. Chế độ nông nô chuyên chế bị
lay chuyển dữ dội lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Sự phát triển của
chủ nghĩa tƣ bản ở Nga ngày càng đẩy nhanh quá trình khủng hoảng và suy
vong của chế độ nông nô chuyên chế. Giai cấp vô sản Nga ra đời từ giữa thế
kỷ XIX ngày càng lớn mạnh và tới cuối thế kỷ đã trở thành một lực lƣợng
chính trị độc lập, trở thành ngƣời lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của
nhân dân Nga trong giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng vô sản. Lịch sử xã
hội Nga thế kỷ XIX chia làm ba giai đoạn lớn gắn liền với ba giai đoạn của
phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân Nga.
Giai đoạn đầu của phong trào đấu tranh giải phóng. Cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX ở châu Âu là thời kỳ chế độ phong kiến tan rã trƣớc
sức tấn công của cách mạng tƣ sản. Nhƣng lúc này nƣớc Nga vẫn còn là một
nƣớc nông nghiệp lạc hậu, chủ nghĩa tƣ bản chỉ mới phát triển. Vua
Alếchxan tiến hành một số cải cách về giáo dục, văn hóa nhƣng tất cả những
cải cách này đều không động chạm gì đến cơ sở của chế độ nông nô chuyên
chế. Cuộc chiến tranh ái quốc năm 1812 đã thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh
thần cách mạng trong nhân dân Nga. Chính những ngƣời dân Nga đã đánh
tan hơn 60 vạn quân xâm lƣợc của Napôlêông, góp phần giải phóng châu Âu
nhƣng rốt cuộc vẫn còn nằm trong cảnh nô lệ. Bất bình trƣớc cảnh nô lệ ấy,
làn sóng đấu tranh của nông nô dâng cao. Alếchxan I sợ hãi vội vứt bỏ chiếc
mặt nạ tự do chủ nghĩa, hiện nguyên hình là một tên chuyên chế. Y cấu kết
với Áo và Phổ lập ra ―Liên minh thần thánh‖ để chống lại cách mạng tƣ sản
Pháp. Nicôlai I lên ngôi thay Alếchxan vừa chết. Nicôlai I mở đầu triều đại
của mình bằng hành động khủng bố tàn nhẫn những ngƣời tham gia cuộc
khởi nghĩa tháng Chạp. Puskin đã gọi đúng tên của thời kỳ thống trị tàn bạo

của Nicôlai I là ―thế kỷ tàn bạo‖. Đây là một trong những thời kỳ đen tối

13
nhất của lịch sử nƣớc Nga. Nicôlai I ra sức củng cố nhà nƣớc chuyên chế và
thằng tay đàn áp các vụ biến động của nông dân. Để chống lại ách áp bức
của Nicôlai I, làn sóng đấu tranh của quần chúng nông nô ngày càng dâng
cao. Những cuộc nổi loạn lan hầu khắp nƣớc Nga trong những năm 40.
Cuộc chiến tranh Cơrimê giữa Nga và Thổ liên minh với Anh, Pháp
kéo dài gần 1 năm (1855-1856). Mặc dù binh lính Nga chiến đấu rất anh
dũng, cuối cùng nƣớc Nga vẫn bị thất bại. Cùng với cái chết của Nicôlai I
vào năm 1855, chiến tranh Cơrimê đã chấm dứt một giai đoạn đen tối trong
lịch sử nƣớc Nga.
Giai đoạn thứ hai của phong trào đấu tranh giải phóng. Thời kỳ từ
1862 đến 1904 chính là một thời kỳ chuyển biến dữ dội ở Nga: chế độ cũ
đang vĩnh viễn sụp đổ trƣớc mắt mọi ngƣời và chế độ mới đang đƣợc sắp
đặt, còn những lực lƣợng xã hội đang tiến hành việc chuyển biến đó thì mãi
đến năm 1905 mới xuất hiện lần đầu tiên trên quy mô rộng lớn. Mâu thuẫn
cơ bản của giai đoạn này vẫn là mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân chủ
yếu là nông dân với giai cấp quý tộc đang câu kết với giai cấp tƣ bản và vẫn
cố bám lấy những tàn tích phong kiến. Nội dung cơ bản của giai đoạn này là
xu thế cách mạng tƣ sản nông dân mà động lực chủ yếu là nông dân.
Cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng cùng với quá trình phát triển
ngày càng mạnh của chủ nghĩa tƣ bản đã đẩy nhà nƣớc nông nô chuyên chế
lâm vào chỗ bế tắc, buộc nó phải tiến hành cuộc cải cách năm 1861. Để tránh
khỏi nguy cơ tan rã và bị lật đổ, Alếchxan II phải ra bản tuyên ngôn ngày 19
tháng 2 năm 1861 tuyên bố hủy bỏ chế độ nông nô chuyên chế. Cuộc cải
cách này có tính chất nửa vời, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tƣ bản phát triển
trong mối liên hệ thỏa hiệp với nhà nƣớc nông nô chuyên chế. Nƣớc Nga
đứng trƣớc một tình thế cách mạng trực tiếp. Vì thiếu một tổ chức cách mạng
có khả năng tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh nên cách mạng không


14
nổ ra. Chính quyền chuyên chế ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của quần
chúng. Hàng loạt ngƣời cách mạng và tiến bộ nhƣ Sécnƣsépxki và Piraxép bị
bắt. Không khí khủng bố bao trùm trắp thủ đô.
Những năm 70 đánh dấu một cao trào cách mạng mới của nông dân và
giới trí thức. Dƣới ảnh hƣởng của tƣ tƣởng dân túy, giới trí thức có phong
trào ―đi vào nhân dân‖ đặc biệt sôi nổi vào những năm 1874 - 1875. Quá
trình phân hóa giai cấp mãnh liệt đang diễn ra ở nông thôn Nga dƣới ảnh
hƣởng của chủ nghĩa tƣ bản đã làm tan vỡ những ảo tƣởng dân túy. Phong
trào ―đi vào nhân dân‖ bị chính quyền đàn áp nên xẹp đi rất nhanh.
Năm 1876 tổ chức ―Ruộng đất và tự do‖ ra đời. Từ đầu những năm 80,
chủ nghĩa tƣ bản phát triển cực kỳ nhanh chóng. Phong trào đấu tranh của
công nhân bắt đầu phát triển mạnh. Nhiều tổ chức công nhân xuất hiện nhƣ
―Liên minh công nhân miền Nam nƣớc Nga‖ (1875) và ―Liên minh công
nhân miền Bắc nƣớc Nga‖ (1878) đồng thời có nhiều cuộc đình công lớn.
Nạn mất mùa liên tiếp trong mấy năm liền khiến cho đời sống nông dân càng
thêm khổ cực. Giới trí thức bị đàn áp, khủng bố. Nƣớc Nga lại một lần nữa
đứng trƣớc tình thế cách mạng. Nhƣng lúc đó lực lƣợng giai cấp công nhân
còn chƣa phát triển, những ngƣời dân túy không triệt để cách mạng, quần
chúng nhân dân còn bị tù hãm trong những quan hệ phong kiến gia trƣởng
cho nên tình thế đó không chuyển thành cách mạng.
1- 3 - 1881, Nga hoàng Alếchxan II bị ám sát. Alếchxan III ra tuyên
bố duy trì chế độ nông nô chuyên chế. Hàng loạt biện pháp đƣợc ban hành để
bóp nghẹt báo chí tiến bộ và hạn chế giáo dục nhất là cấp đại học. Những
năm 80 là những năm thoái trào của cách mạng. Có ngƣời gọi đó là ―hoàng
hôn‖, là ―những năm xám xịt trong đời sống nƣớc Nga‖.
Giai đoạn thứ ba của cuộc đấu tranh giải phóng. Lúc này nền kinh tế
tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển khá mạnh. Giai cấp tƣ sản bạc nhƣợc bất lực,


15
nặng về thỏa hiệp với nhà nƣớc nông nô chuyên chế. Giai cấp vô sản đã lớn
mạnh rất nhanh, bắt đầu đấu tranh trên quy mô rộng lớn và có tổ chức, có ý
thức hơn so với những năm trƣớc. Mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và giai
cấp quý tộc địa chủ vẫn chƣa bị xóa bỏ. Thêm vào đó, chủ nghĩa tƣ bản đã
thâm nhập sâu vào nông thôn Nga, gây nên sự phân hóa sâu sắc trong nông
dân. Phần lớn nông dân trở thành bần nông với số ruộng ít ỏi hoặc không có
ruộng đất.
Chủ nghĩa Mác đƣợc truyền bá vào Nga từ những năm trƣớc, lúc này
đã có ảnh hƣởng khá rộng rãi. Nhiều tổ chức chính trị của giai cấp vô sản
xuất hiện. Năm 1893, Lênin đến Pêtécbua. Năm 1895, Lênin đoàn kết nhóm
mácxít ở thủ đô lại và lập ra ―Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công
nhân‖. Chủ nghĩa dân túy những năm 90 không còn phản ánh niềm tin vào
sức mạnh của đông đảo nông dân nữa, nó trở thành hệ tƣ tƣởng của giai cấp
tƣ sản. Một mặt những ngƣời mác xít chân chính tạm thời liên minh với
những ngƣời mác xít hợp pháp, lợi dụng những tờ báo do họ biên tập để
truyền bá chủ nghĩa Mác, mặt khác phải tiến hành một cuộc đấu tranh kiên
quyết chống lại họ.
Quyền lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn này đã chuyển sang tay
giai cấp vô sản cách mạng do những ngƣời mácxít đứng đầu với lãnh tụ xuất
sắc của họ là V.I.Lênin. Công lao lịch sử của Lênin trong giai đoạn này là đã
đập tan trào lƣu tƣ tƣởng dân túy bảo thủ, tƣ tƣởng của bọn mác xít hợp pháp
phản động, chủ nghĩa kinh tế và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, bảo vệ nội
dung cách mạng và tính chiến đấu của chủ nghĩa Mác, giáo dục và tổ chức
giai cấp vô sản đấu tranh, chuẩn bị mọi mặt việc thành lập Đảng mácxít chân
chính kiểu mới vào đầu thế kỷ sau.
Bối cảnh xã hội ấy đã tác động mạnh mẽ đến những quan niệm của
Lép Tônxtôi nói chung và quan niệm đạo đức của ông nói riêng. Lép Tônxtôi

16

đã sống cùng với giai cấp vô sản, nhân dân lao động bị áp bức ở Nga trong
cuộc đấu tranh sục sôi, quyết liệt chống lại bọn địa chủ, phong kiến, tƣ bản
và những tên tay sai, những tên bồi bút của chúng, vì một xã hội tốt đẹp, đầy
tình yêu thƣơng. Những trang sách của Lép Tônxtôi thấm đẫm những trăn
trở băn khoăn về số phận con ngƣời trƣớc thay đổi của thời cuộc, mong
muốn con ngƣời sống tốt đẹp, đầy vị tha và mỗi ngƣời đều tìm thấy hạnh
phúc cho mình ở ngay cuộc sống thực tại. Lênin cũng cho rằng: ―Lép
Tônxtôi đã thể hiện đƣợc một cách nổi bật lạ lùng trong các tác phẩm của
ông - vừa với tƣ cách nghệ sĩ, vừa với tƣ cách nhà tƣ tƣởng và ngƣời thuyết
giáo - những đặc điểm lịch sử của toàn bộ cuộc cách mạng đầu tiên ở Nga‖,
đó là ―một cuộc cách mạng tƣ sản nông dân vào thời kỳ chủ nghĩa tƣ bản đã
phát triển rất cao trên toàn thế giới và tƣơng đối cao ở Nga‖ [47, tr.21]. Bởi
vì nhiệm vụ trực tiếp của nó là lật đổ chế độ chuyên chế Nga Hoàng và thủ
tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ chứ không phải lật đổ sự thống
trị của giai cấp tƣ sản.
Nói về những điểm mạnh và điểm yếu của phong trào quần chúng
nông dân thể hiện trong các tác phẩm của Lép Tônxtôi, Lênin đã viết: ―Sự
phản kháng mạnh mẽ, hăng say lắm lúc gay gắt đến tàn nhẫn của ông chống
lại nhà nƣớc và giáo hội mang tính chất quan phƣơng - cảnh sát, thể hiện
những tâm trạng của phái dân chủ nông dân thô sơ là phái mà trong đó chế
độ nông nô, sự chuyên quyền và cƣớp bóc của bọn quan lại, sự giả nhân
nghĩa của giáo hội, sự dối trá và lừa bịp trong bao thế kỷ đã chồng chất uất
hận và căm thù lên thành núi. Việc ông kiên quyết bác bỏ chế độ tƣ hữu về
ruộng đất thể hiện tâm lý của quần chúng nông dân trong một thời kỳ lịch sử
mà chế độ chiếm hữu ruộng đất cũ thời trung cổ, và cả chế độ chiếm hữu
ruộng đất của địa chủ lẫn chế độ chiếm hữu ―ruộng đất đƣợc chia‖ của nhà
nƣớc, đã dứt khoát trở thành một trở ngại không thể nào chịu đƣợc đối với sự

17
phát triển hơn nữa của nƣớc nhà, trong một thời kỳ mà chế độ chiếm ruộng

đất cũ ấy nhất định phải bị tiêu diệt một cách nhanh chóng và thẳng tay nhất‖
[47, tr.22].
Nói rõ hơn về giá trị phản ánh lịch sử xã hội nƣớc Nga trong các tác
phẩm của Lép Tônxtôi, Lênin chỉ ra rằng ―Tônxtôi am hiểu tuyệt vời về
nƣớc Nga nông thôn, về đời sống của địa chủ và của nông dân. Tóm lại, ―cái
biển cả nhân dân chuyển động đến tận đáy, cùng với tất cả những sự yếu
đuối và tất cả những mặt mạnh của nó, đã đƣợc phản ánh trong học thuyết
Tônxtôi‖ [46, tr 45]; ―Lép Tônxtôi tố cáo không ngừng chủ nghĩa tƣ bản với
một tình cảm yêu mến sâu sắc dành cho nhân dân lao động Nga, quý trọng
những giá trị đạo đức - tinh thần của họ và một sự phẫn nộ kịch liệt nhất,
phản ánh tất cả nỗi ghê sợ của ngƣời nông dân gia trƣởng khi ngƣời này thấy
một kẻ thù mới, kẻ thù này đang phá hủy tất cả những ―nền móng‖ của nếp
sống nông thôn, đem lại cảnh tàn phá chƣa từng thấy, cảnh cùng khổ chết
đói, dã man, tệ mãi dâm, bệnh kim la, - tất cả những tai họa của ―thời kỳ tích
lũy ban đầu‖ bị làm cho trầm trọng hơn gấp trăm lần bởi những biện pháp
cƣớp bóc tối tân nhất đƣợc đƣa vào ngƣớc Nga‖ (47, tr.22 - 24). Những điều
kiện tồn tại ở nƣớc Nga trở nên hết sức phức tạp và trái ngƣợc nhau, nƣớc
Nga cũ ―đã bị đảo lộn, chỉ mới đang đƣợc sắp xếp‖, nhƣng chƣa biết sẽ đƣợc
sắp xếp thế nào. Một cuộc khủng hoảng đang lan tràn nƣớc Nga trƣớc cách
mạng [46, tr.45].
1.2. Con ngƣời, sự nghiệp văn chƣơng Lép Tônxtôi và cơ sở tƣ
tƣởng của quan niệm của ông về đạo đức
1.2.1.Con người Lép Tônxtôi
Lép Tônxtôi sinh ngày 9 - 9 -1828 tại trại ấp Iaxnaia Pôliana trong một
gia đình quý tộc lâu đời. Năm lên hai Lép Tônxtôi mồ côi mẹ, lên chín tuổi
mồ côi bố. Việc trông nom anh em Lép Tônxtôi do T.A.Écgônxcaia, một

18
ngƣời bà con trong họ hàng Tônxtôi - một phụ nữ với tính tình hiền từ, giàu
tình cảm, một nhà giáo dục tuyệt diệu. Chính bà đã dạy cho Lép Tônxtôi

lòng yêu thƣơng và khoan dung với mọi ngƣời. Trong hoàn cảnh Lép
Tônxtôi lớn lên và đƣợc giáo dục, có một yếu tố đặc biệt đã ảnh hƣởng mãnh
liệt vào sự hình thành ý thức và tính tình của ông sau này, đó là sự tiếp xúc
mật thiết của Lép Tônxtôi với thiên nhiên và với nhân dân Nga giản dị. Điều
kiện sinh sống ở trại ấp đã làm cho Lép Tônxtôi quen thuộc mật thiết với
nông dân.
Năm 1844, Lép Tônxtôi thi đậu vào trƣờng Đại học Ca-dan và học ở
Khoa ngôn ngữ Đông phƣơng. Chẳng bao lâu, Tônxtôi không thích học ở
khoa này nữa và chuyển sang Khoa luật học. Tônxtôi quen thuộc đối với các
cuộc khiêu vũ, các phòng đàm luận của quý tộc ở Ca-dan, sống một cuộc
sống tản mạn, khi thì tiệc tùng, khi thì khiêu vũ, uống rƣợu say sƣa với bạn
bè. Lý tƣởng của Lép Tônxtôi trong thời ấy là muốn trở thành một công tử
hào hoa trong xã hội thƣợng lƣu. Nhƣng cuộc sống thƣợng lƣu, phóng
khoáng, tản mạn chỉ hấp dẫn chàng trong một thời gian ngắn. Có một sự lo
âu căng thẳng, kiên trì đang làm việc trong trí óc của Tônxtôi. Từ tuổi thơ ấu,
Tônxtôi đã đọc nhiều sách, e lệ dấu tâm trạng mình với những ngƣời sống
xung quanh. Giờ đây, bƣớc vào tuổi thanh niên, chàng đắm đuối với tƣ
tƣởng của Rútxô. Theo lời tự thuật của chàng thì trong khoảng trƣớc sau năm
1845, chàng đã đọc tất cả hai mƣơi quyến sách của Rútxô và chàng đeo ở cổ
một chân dung nhỏ của ông, thay thế cho thánh giá hình chữ thập mà mình
phải mang theo [4, tr.10]. Tuổi còn trẻ dƣờng ấy mà đã mến chuộng Rútxô,
điều này chứng tỏ rằng cuộc sống tinh thần của Tônxtôi đã chớm nở sớm
nhƣ thế nào. Do sự lao động phê phán của trí tuệ mình mà Lép Tônxtôi chán
chƣờng với lý tƣởng muốn trở thành một công tử hào hoa. Không thỏa mãn
với cuộc sống thƣợng lƣu và với việc học hành từ trƣờng đại học, Tônxtôi
trở về sống ở trại ấp của mình.

19
Mùa xuân năm 1847, mấy anh em chia nhau gia tài; Tônxtôi lãnh phần
sở hữu của mình là Inaxnaia Pôliana cùng 330 nông nô. Ngƣời địa chủ trẻ

tuổi này tự đề ra cho mình nhiệm vụ đem hết sức lực ra cải thiện đời sống
của nông dân mình nhƣng không lãnh hội nổi tình trạng mâu thuẫn giai cấp
quyết liệt giữa địa chủ và nông dân. Về phần Lép Tônxtôi cố gắng thành
tâm, nhƣng nông dân ngờ vực và sợ sệt các công việc cải cách của chủ nhân
mình. Năm 1849, Lép Tônxtôi thƣờng đi Maxcơva và tại đấy, do bản tính
say sƣa của riêng mình, Tônxtôi thƣờng đắm đuối trong những cuộc tiêu
khiển của xã hội thƣợng lƣu. Lép Tônxtôi cực kỳ bất mãn với cuộc sống
buông xuôi này. Cả một cuộc đấu tranh trong tâm hồn của ông thể hiện qua
những đoạn nhật ký của Tônxtôi thời ấy. Đấy là đấu tranh nội tâm của một
bản tính say mê, quằn quại bị xâu xé từng hồi, khi thì có những cơn tùy hứng
muốn ăn chơi phóng khoáng, khi thì có khát vọng đạt tới đạo đức trong sạch.
Nhất thiết phải biến đổi lối sống này. Năm 1851, Lép Tônxtôi nhập ngũ, làm
sĩ quan trong quân đội Cápcadơ. Tận mắt chứng kiến bức tranh hiện thực
khốc liệt của bom đạn, Tônxtôi đã rút ra đƣợc một kết luận sắc bén, đanh
thép tố cáo cảnh chém giết: ―Đây không phải là chiến tranh trong cảnh đội
ngũ đứng sắp hàng đều đặn, chói lọi và đƣờng hoàng với âm nhạc, trống
trận, ngựa, mà là chiến trƣờng với màu sắc chân thật của nó trong máu me,
trong đau khổ, chết chóc‖ [51, tr.13]. Rõ ràng là từ một thanh niên quý tộc,
nhà văn trẻ đã khẳng định đƣợc một điểm nhìn hoàn toàn mới mẻ, bắt nguồn
từ tình cảm trong sáng: Sự thật trên cơ sở nhân đạo.
Năm 1859, Tônxtôi làm giáo viên nhân dân trong nhà trƣờng do mình
lập ra. Làm cơ sở cho hệ thống tƣ tƣởng giáo dục học của Tônxtôi là nguyên
lý giáo dục tự do. Lép Tônxtôi cũng nêu lên việc phát triển nhân cách của
học sinh làm trung tâm của quá trình giáo dục. Năm 1861,Lép Tônxtôi ký
tên vào bức thƣ tình nguyện của 105 quý tộc ở Tula, nói lên sự thiết yếu phải

20
giải phóng nông dân với những phần ruộng đất của họ. Năm 1861, Tônxtôi
đƣợc cử làm nhiệm vụ hòa giải những vụ tranh chấp giữa địa chủ và nông
dân, Tônxtôi nhiệt liệt bảo vệ quyền lợi của nông dân. Năm 1862, Lép

Tônxtôi lấy vợ.
Bác sĩ Macôxítxki, bạn thân của Lép Tônxtôi đã nói về khả năng làm
việc phi thƣờng của nhà văn: Tônxtôi ―cặm cụi với công việc, hàng ngày,
hàng giờ, chiến thắng mình để làm nên những gì cần thiết. Văn sĩ không hề
dung thứ cho mình. Văn sĩ không hề biết làm biếng… văn sĩ không hề công
nhận ngày nghỉ lễ‖ [52, tr.17]. Đáng kinh ngạc trước tiên là tầm quá sức
rộng lớn của công trình tự học của Tônxtôi, là sự khát khao vô tận muốn hiểu
biết của văn sĩ. Thƣ viện riêng của Lép Tônxtôi ở Iaxnaia Pôliana chứng
minh cho công trình tự học bao quát của Tônxtôi. Đến cuối đời của Lép
Tônxtôi, thƣ viện này bao gồm hơn 20.000 quyển bằng hai mƣơi thứ tiếng
khác nhau. Sự quan tâm khoa học cực kỳ rộng lớn, khát vọng muốn đi tới tận
cùng, muốn bằng triết học làm chủ đƣợc tất cả các vấn đề phức tạp của văn
hóa nhân loại, sự tìm tòi chân lý không hề biết mệt mỏi ấy là điều nổi bật
trên con đƣờng sáng tạo của Lép Tônxtôi. Lép Tônxtôi đã đạt tới một đỉnh
cao văn hóa cho đến nỗi, theo lời của Lênin, không thể ai ở Châu Âu ngang
hàng với ông đƣợc.
Điều thứ hai đáng kinh ngạc chính là tinh thần khắt khe của Lép
Tônxtôi đối với bản thân mình. Tinh thần khắt khe này biểu hiện qua nhiều
mặt. Nhƣ để chuẩn bị cho sự hoạt động văn hóa của mình, Tônxtôi ra sức tự
rèn luyện cơ thể mình, tập thể dục mỗi ngày. Để tăng cƣờng trí nhớ, Lép
Tônxtôi làm một loạt những môn tập luyện tinh thần. Với văn sĩ, ―phải đãi
cát mới tìm ra vàng; muốn diễn tả tƣ tƣởng cho tốt, còn phải công phu hơn
nữa‖ [52, tr.19]. Đó chính là thái độ nghiêm túc của Tônxtôi đối với quá
trình sáng tác mà mình theo đuổi.

21
Một đêm thu tối tăm, đêm 28 - 10 - 1910, Tônxtôi đã 82 tuổi, cùng với
ngƣời bạn và bác sĩ của mình Macôvítski làm bạn đƣờng bí mật rời khỏi
Iaxnaia Pôliana để không bao giờ trở lại nữa. Đấy là hồi chót của một tấn
kịch sống đã xảy ra, đã kéo dài nhiều năm trong tâm hồn của Lép Tônxtôi.

Dọc đƣờng Lép Tônxtôi bị cảm lạnh phải nghỉ lại ở ga Axtapôvô. Ngày 7 -
11- 1910, ông tạ thế thọ 82 tuổi. Cả nƣớc Nga và thế giới thƣơng tiếc nhà
văn hào.
Lép Tônxtôi là một trong những nhà văn hào vĩ đại nhất của thế giới.
Nhân loại yêu mến ông không chỉ bởi những tƣ tƣởng của ông đã soi rọi đến
mọi ngõ ngách tâm hồn mỗi ngƣời hay những đóng góp thiên tài của ông cho
nền văn học nghệ thuật thế kỷ XIX mà nhân loại còn yêu mến ông bởi ông là
hiện thân của một nhân cách đáng kính. Vốn nặng lòng với hạnh phúc con
ngƣời nên dù ở trên đỉnh cao của danh vọng, tiền tài ông vẫn đau đáu xót
thƣơng những ngƣời nông dân Nga khốn khổ đang phải gồng mình lên
chống chọi đói rét, cơ hàn. Suốt một đời đấu tranh không biết mệt mỏi cho lẽ
phải, cái thiện, tình yêu thƣơng, ông chỉ mong mỏi sao cho nhân dân đƣợc
sống trong yên ấm, hòa bình. Lép Tônxtôi không chết, ông vẫn sống mãi
trong lòng những ngƣời còn sống.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Đƣơng thời Lép Tônxtôi đƣợc mệnh danh là ―con sƣ tử của văn học
Nga‖ (Igor.Sarốp) bởi vậy sẽ thật thiếu sót khi nghiên cứu Lép Tônxtôi mà
không nhắc đến sự nghiệp văn chƣơng của ông. Tuy nhiên, mục đích nghiên
cứu của tác giả là làm rõ nội dung cơ bản của quan niệm Lép Tônxtôi về đạo
đức trong tác phẩm Đường sống cho nên tác giả chỉ khái quát một cách ngắn
gọn về sự nghiệp văn chƣơng của ông với mong muốn giúp độc giả có cái
nhìn toàn diện về Lép Tônxtôi.

22
Tônxtôi là một trong những đại biểu lớn nhất và xuất sắc nhất của văn
học hiện thực Nga và thế giới thế kỷ XIX. Qua gần sáu mƣơi năm hoạt động
văn học không biết mệt mỏi, ông đã để lại cho chúng ta một di sản văn học
đồ sộ và quý báu: ba tiểu thuyết dài, một số vở kịch, những bài văn chính
luận và nhiều thƣ từ, nhật ký…
Những cuốn sách đƣợc xuất bản đầu tiên của Tônxtôi là ba cuốn tiểu

thuyết tự truyện: Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Thời tuổi trẻ (1852 - 1856).
Ba cuốn sách kể câu chuyện về ngƣời con trai một địa chủ lớn và sự nhận
thức chậm chạp của anh ta về những khác biệt giữa mình và những ngƣời
nông dân của mình. Dù lúc cuối đời Tônxtôi đã bác bỏ những cuốn sách đó
vì tính ủy mị của chúng nhƣng một phần lớn cuộc đời của chính ông đã đƣợc
thể hiện ở đó, và những cuốn sách vẫn là nguồn thông tin xác đáng về thời
kỳ tuổi thơ tới tuổi trẻ của ông.
Ngƣời Cosack (1863) là một tiểu thuyết còn chƣa hoàn thành viết về
cuộc sống của ngƣời Cossack thong qua câu chuyện của Dmitri Olenin, một
quý tộc ngƣời Nga phải lòng một cô gái Cossack. Tiểu thuyết này đã đƣợc
Ivan Bunin ch là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất bằng tiếng Nga.
Cuốn tiểu thuyết vĩ đại ―Chiến tranh và hòa bình‖ là tác phẩm đầu tiên
làm cho tên tuổi quang vinh Tônxtôi lẫy lừng trên toàn thế giới. Tác phẩm
miêu tả một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của
dân tộc Nga và toàn Châu Âu lúc đó: cuộc chiến tranh 1812. Nó diễn tả nhân
dân nhƣ nhân vật chính, nhƣ động lực phát triển của lịch sử. ―Chiến tranh và
hòa bình‖ là bức tranh hiện thực vẽ tả sinh hoạt nhiều mặt của nƣớc Nga
những năm đầu thế kỷ XIX, là cuốn sử biên niên ghi lại cuộc đời của nhiều
ngƣời quý tộc tiến bộ, sự phát sinh và phát triển tƣ tƣởng cách mạng do cao
trào yêu nƣớc năm 1812 thúc đẩy. Tác phẩm là bản anh hùng ca bất hủ ca
ngợi sức mạnh sáng tạo của nhân dân. Nó tràn đầy tinh thần lạc quan, tin yêu

23
cuộc sống mặc dù ra đời vào lúc nhân dân Nga còn nằm trong nghèo khổ, nô
lệ sau cuộc cách mạng nửa vời, bịp bợm năm năm 1801.
Bộ tiểu thuyết nổi tiếng thứ hai của Lép Tônxtôi là ―Anna Karenina‖,
tác phẩm đã tái hiện lại bức tranh xã hội chân thực và sinh động của cả một
giai đoạn lịch sử nƣớc Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau giải phóng nông nô.
Qua cuộc tình éo le, chấm dứt bằng cái chết tội lỗi và bi thảm của Anna
Karenina, cuộc sống gia đình lục đục của Ôblônxki, mối tình trắc trở nhƣng

hạnh phúc của Lêvin, cùng đời sống tình cảm phức tạp của nhiều nhân vật
khác, nhà văn đã thông qua vấn đề tình yêu và hôn nhân gia đình để đề cập
đến những vấn đề xã hội lớn lao. Trong 5 năm (1873 – 1877) viết tác phẩm
này, Tônxtôi vô cùng xúc động, nhiều lúc tâm hồn ông nhƣ bị giày vò, chán
nản. Ông viết: ―Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong đời tôi đã bám chặt lấy
hồn tôi và lôi cuốn toàn thân tôi‖. Với tác phẩm ―Anna Karenina‖ Tolstoi đã
khiến cho cả thế giới phải xót thƣơng và đau đớn với nhân vật ngƣời phụ nữ
thƣợng lƣu sa ngã của mình.
Tiểu thuyết đƣợc yêu mến nữa của Tônxtôi là Phục sinh. Đây là tác
phẩm vĩ đại nhất trong sáng tác cuối đời của Tônxtôi, lúc ông đã chuyển hẳn
sang lập trƣờng nông dân gia trƣởng. ―Phục sinh‖ đƣợc nghiền ngẫm trong
10 năm, từ 1890 đến 1899, tác phẩm tổng kết bƣớc đƣờng phát triển tƣ tƣởng
nghệ thuật của Tônxtôi, tổng kết con đƣờng tìm tòi lý tƣởng gian khổ của
nhiều nhân vật ƣu tú của Tônxtôi từ Nicôlenca Iêctênép qua Pie Bêdukhốp
đến Kônxtantin Lêvin. Đó là bản án đanh thép tố cáo toàn bộ xã hội và thiết
chế nhà nƣớc Nga đƣơng thời. Từ trang đầu đến trang cuối vang lên giọng
nói phẫn nộ của nhà văn.
Điều đáng ngạc nhiên là Lép Tônxtôi đã đến với độc giả miền Bắc
trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nƣớc của Việt Nam diễn ra
vô cùng gay go, quyết liệt. Sự gắn bó của những số phận lịch sử khiến bạn

×