Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày tỉnh Bắc Cạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LỤC THÙY LIÊN
(Màu


PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC TRONG
TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC TÀY
TẠI TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC








IẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS


.TS NGUYỄN THÚY VÂN


Hà Nội – 2013

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LỤC THÙY LIÊN



PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC TRONG
TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC TÀY
TẠI TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị LanI







Hà Nội – 2013

3
VIÊN HƯỚNGẪN: PGS.TS NGUYỄN THÚY VÂN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn 10
7. Kết cấu của luận văn 10
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN
THỐNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU TỈNH BẮC
KẠN 11
1.1.Khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng truyền thống 11
1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng 11
1.1.2. Tín ngưỡng truyền thống 16
1.2.Tính tất yếu của việc phát huy những giá trị tích cực trong 18
tín ngưỡng truyền thống dân tộc 18
1.3.Một số nguyên tắc cơ bản trong việc phát huy những giá trị tích cực
của tín ngưỡng truyền thống 28
1.4.Khái quát về địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Kạn 36
Chương 2 PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC TRONG TÍN
NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC TÀY Ở TỈNH BẮC KẠN

HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 46
2.1. Tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn 46

4
2.1.1. Một số hình thức tín ngưỡng tiêu biểu của dân tộc Tày ở Bắc Kạn . 46
2.1.2 Vai trò của tín ngưỡng truyền thống trong đời sống tinh thần của dân
tộc Tày ở Bắc Kạn hiện nay 54
2.1.3. Những giá trị tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc
Tày ở Bắc Kạn 57
2.2. Thực trạng công tác phát huy những giá trị tích cực trong tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn hiện nay và những vấn
đề đặt ra 65
2.2.1. Những thành tựu cơ bản trong việc phát huy những giá trị tích cực
của tín ngưỡng truyền thống dân tộc Tày ở Bắc Kạn hiện nay 65
2.2.2. Một số hạn chế trong công tác phát huy những giá trị tích cực trong
tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn hiện nay và những
vấn đề đặt ra. 74
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực trong
tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn hiện nay 84
2.3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội 84
2.3.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, giáo dục 88
2.3.3. Nhóm giải pháp về công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng 90
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC 106




1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tín ngưỡng là một hiện tượng phổ biến và hình thành sớm trong lịch sử
loài người. Ở Việt Nam, tín ngưỡng có ở hầu hết các cộng đồng người. Ở mỗi
cộng đồng người thì tín ngưỡng lại mang những đặc trưng và dấu ấn riêng.
Dân tộc Tày là một trong những dân tộc có dân số đông đứng thứ hai sau dân
tộc Kinh ở Việt Nam. Với quá trình lịch sử lâu đời, dân tộc Tày đã hình thành
một nền văn hóa đậm đà bản sắc. Tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày
gắn liền với văn hóa của tộc người này.
Tín ngưỡng của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn cũng mang những đặc điểm
chung của tín ngưỡng của dân tộc Tày và có những nét riêng biệt. Xuất phát
từ những quan niệm tín ngưỡng thì người Tày ở Bắc Kạn đã hình thành các
hình thức tín ngưỡng đặc trưng của dân tộc mình như: thờ cúng tổ tiên, thờ
mẹ sinh sản, Then, Mo, Pụt, Tào. Các hình thức tín ngưỡng đó luôn giữ vai
trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân. Các
sinh hoạt tín ngưỡng không chỉ là nơi giúp người dân giải tỏa tâm lý và đáp
ứng nhu cầu tâm linh cho người dân mà còn được coi như một hình thức sinh
hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu và có sức sống lâu bền trong đời sống
tinh thần của người dân cho tới ngày nay. Tín ngưỡng truyền thống còn chứa
đựng những giá trị tích cực và là nơi sản sinh và tích hợp những giá trị văn
hóa của dân tộc Tày. Tín ngưỡng chính là nơi bảo lưu các hình thức văn hóa
nghệ thuật cổ truyền như: nghệ thuật biểu diễn, các làn điệu dân ca, các văn tự
cổ…Mặt tích cực của tín ngưỡng còn thể hiện ở việc đây chính là nơi lưu giữ
các giá trị phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Tày. Tuy nhiên, là vấn đề
liên quan đến tâm linh nên bên cạnh những giá trị tích cực thì tín ngưỡng của
người Tày ở Bắc Kạn vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực như mê tín dị đoan,


2
niềm tin mù quáng vào khả năng chữa bệnh của các thầy trong sinh hoạt tín

ngưỡng.
Hiện nay, cùng với sự phát triển hội nhập và giao lưu văn hóa và dưới tác
động của cuộc sống hiện đại thì tín ngưỡng của người Tày tại Bắc Kạn đã có
những biến đổi nhất định. Trong đời sống tín ngưỡng của họ diễn ra các xu
hướng như: người dân không còn quá đề cao vai trò của sinh hoạt tín ngưỡng
trong đời sống văn hóa tinh thần như trước đây và đặc biệt là đang diễn ra sự
mai một của một số hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng. Nếu như không
có sự quan tâm bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng
truyền thống thì sẽ dẫn tới sự mất dần đi của các tín ngưỡng này.
Ngoài ra, trong xu thế toàn cầu hóa và tác động của kinh tế thị trường thì
thế hệ trẻ của dân tộc Tày không còn nhiều người quan tâm và duy trì sinh
hoạt tín ngưỡng, không hiểu về các quan niệm cũng như các nghi lễ tín
ngưỡng của dân tộc mình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới
sự mai một dần các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng của dân tộc Tày.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cần giữ g
́
n và phát huy những giá trị tích cực và
loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu trong tín ngưỡng truyền thống của dân
tộc Tày ở Bắc Kạn. Điều này sẽ góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa của người Tày ở Bắc Kạn nói chung và lưu giữ tín ngưỡng truyền thống
nói riêng để từ đó tạo động lực cho đồng bào dân tộc ở địa phương phát triển
mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần cũng như đời
sống vật chất.
Hiện nay, vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo và xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm nhất là từ khi bước vào
thời kỳ đổi mới. Nhiều thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo và dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc vốn có truyền thống lâu
đời trong lịch sử Việt Nam và đã được nhiều thế hệ dày công xây dựng, vun



3
đắp. Do đó, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc nhất là các dân tộc thiểu số là việc làm cần thiết trong đó có
vấn đề tín ngưỡng ở các tộc người. Phát huy những giá trị tích cực trong tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày tại Bắc Kạn sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tạo điều
kiện để Bắc Kạn phát triển vững chắc, đóng góp vào thực hiện mục tiêu
chung của của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Với tư cách là một người con của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn, tôi nhận
thấy việc nghiên cứu tín ngưỡng của dân tộc Tày ở Bắc Kạn sẽ có ý nghĩa và
tác dụng to lớn trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của tín
ngưỡng truyền thống trong đời sống của dân tộc Tày hiện nay. Xuất phát từ
tình hình thực tiễn như đã trình bày ở trên, tôi quyết định chọn vấn đề: “Phát
huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày tại
tỉnh Bắc Kạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân tộc Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Dân tộc Tày có đời sống văn hóa và tín ngưỡng vô cùng đặc sắc. Do đó, cũng
đã có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa và tín ngưỡng của dân
tộc Tày. Tài liệu liên quan đến luận văn có thể chia thành 3 nhóm sau đây:
- Nhóm những công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian của dân
tộc Tày ở Việt Nam
Dân tộc Tày có dân số đông và tập trung ở hầu hết các tỉnh vùng Đông
Bắc của nước ta nên dân tộc này còn được xem như là chủ thể văn hóa của
vùng Đông Bắc. Vì vậy, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về văn
hóa đặc sắc của dân tộc Tày, có thể kể đến các công trình:


4

Cuốn sách “Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam”
của nhóm tác giả Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Khoa học xã hội
(1968). Các tác giả đã khái quát về các tộc người Tày, Nùng, Thái đồng thời
giới thiệu về văn hóa của nhóm các dân tộc này. Viện dân tộc học đã xuất bản
cuốn sách“Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam”(1992) cuốn sách đã khái
quát một cách đầy đủ về dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam bao gồm: điều kiện
tự nhiên, dân cư, lịch sử hình thành tộc người, kinh tế truyền thống, văn hóa
vật chất, văn hóa tinh thần, tổ chức xã hội… của hai dân tộc Tày – Nùng nói
chung. Cuốn sách cũng chỉ ra do những nguyên nhân lịch sử hình thành và
đặc điểm cư trú nên văn hóa của hai dân tộc này có nhiều nét tương đồng.
Nghiên cứu sâu hơn về văn hóa của dân tộc Tày có cuốn “Văn hóa Tày –
Nùng” tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984). Cuốn sách đã khái quát về xã
hội, con người và văn hóa của hai tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam nói
chung. Trong cuốn sách này tác giả cũng đã giới thiệu tín ngưỡng của hai dân
tộc này. Cuốn “Văn hóa truyền thống Tày, Nùng” các tác giả Hoàng Quyết,
Ma Khánh Bằng, Cung Văn Lược, Vương Toàn đã trình bày về văn hóa Tày,
Nùng trong đó có chữ Nôm Tày, Nùng, kho tàng văn học dân gian của hai dân
tộc. Cuốn “Văn hóa dân gian Tày” Hoàng Ngọc La chủ biên đã giới thiệu
những đặc trưng cơ bản về văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc Tày ở
Việt Nam. Cuốn sách “Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam” của TS Hà
Đình Thành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. Cuốn sách đã khái quát về
tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam về điều kiện, đặc điểm nơi cư trú và lịch sử
hình thành tộc người. Cuốn sách cũng mô tả những đặc trưng văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần của người Tày, nghiên cứu văn hóa dân gian của người
Tày, Nùng bao gồm: văn học dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ
thuật biểu diễn dân gian, tín ngưỡng, tôn giáo và các lễ hội dân gian. Tác


5
phẩm này đã sưu tầm và hệ thống hóa một cách đầy đủ văn hóa dân gian của

người Tày, Nùng ở nước ta.
Như vậy, những công trình khoa học trên đã mang lại cái nhìn tổng quan
về dân tộc Tày và những đặc trưng trong đời sống văn hóa của tộc người này
bao gồm những giá trị văn hóa vật chất và những giá trị văn hóa tinh thần.
Các công trình đã khái quát bức tranh văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của
người Tày. Với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, điều kiện cư trú và lịch sử hình
thành, người Tày đã xây dựng hệ thống văn hóa vật chất đặc trưng về nhà ở,
trang phục, ẩm thực…Họ cũng xây dựng một đời sống văn hóa tinh thần độc
đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, đó là một kho tàng văn học và nghệ thuật dân
gian phong phú, những hình thức sinh hoạt lễ hội văn hóa văn nghệ đa dạng.
Nhóm những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng của dân tộc Tày
Tín ngưỡng của dân tộc Tày mang bản sắc độc đáo. Các quan niệm tín
ngưỡng cho tới những hình thức tín ngưỡng và nghi lễ tín ngưỡng tất cả đều
đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày. Đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng của dân tộc Tày như:
Cuốn “Tín ngưỡng dân gian Tày – Nùng” tác giả Nguyễn Thị Yên Nxb
Khoa học xã hội năm 2009. Đây là một tác phẩm công phu và chuyên sâu về
tín ngưỡng của người Tày, Nùng. Cuốn sách đã mô tả tổng quan về người
Tày, Nùng về lịch sử hình thành tộc người và văn hóa truyền thống của hai
tộc người này. Tác giả cuốn sách đã nghiên cứu khá sâu về tín ngưỡng của
người Tày - Nùng, trong đó trình bày hệ thống các quan niệm tín ngưỡng làm
nền tảng hình thành các hình thức và các nghi lễ tín ngưỡng tiêu biểu. Cuốn
sách cũng trình bày về trình tự tiến hành và ý nghĩa của một số nghi lễ tín
ngưỡng tiêu biểu đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Tày, Nùng. Trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng chỉ ra những nét tương
đồng và những nét khác biệt cụ thể trong tín ngưỡng của dân tộc Tày và dân


6
tộc Nùng. Đồng thời tác giả cũng đã tiến hành khảo sát hiện trạng đời sống

sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào hiện nay ở một số địa phương và nêu lên
vai trò của tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của người dân. Cuốn sách
cũng chỉ ra những xu hướng biến đổi của các hình thức tín ngưỡng của người
Tày, Nùng dưới sự tác động của cuộc sống hiện đại ngày nay.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Thị
Yên: “Hiện trạng và vai trò của các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong đời
sống của người Tày, Nùng các tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam”. Đề tài đã
sưu tầm, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo của người Tày, Nùng làm cơ sở cho việc điều tra, khảo
sát thực tế sinh hoạt văn hoá của nhóm dân tộc này, vai trò và tác động
của nó trong đời sống xã hội hiện tại, từ đó đưa ra những kiến nghị đóng
góp cho công tác xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của người Tày,
Nùng ở miền núi Đông Bắc Việt Nam.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu về các hình thức tín ngưỡng
cụ thể của dân tộc Tày, Nùng như: Lễ cấp sắc Pụt Nùng, tác giả Nguyễn Thị
Yên, Nguyễn Thiên Lữ, Nxb Văn hóa dân tộc năm 2006. Cuốn sách giới thiệu
về nghi lễ cấp sắc của Pụt - một thầy cúng trong hệ thống tín ngưỡng của
người Nùng. Hoàng Nam (2006), Then – cái nhìn từ hệ thống tín ngưỡng, Tạp
chí dân tộc học số 3-2006; Hà Đình Thành (2004), Tình hình sưu tầm nghiên
cứu tín ngưỡng Then, Mo, Tào, Pụt của người Tày – Nùng ở Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, 3(2004); cuốn sách Bước đầu nghiên cứu về Then
Việt Bắc, Nông Văn Hoàn (1978), Nxb Văn hóa dân tộc. Các tác phẩm này đã
đi sâu tìm hiểu về những hình thức tín ngưỡng đặc trưng của dân tộc Tày như:
Then, Mo, Pụt, Tào. Đây là những hình thức tín ngưỡng đặc trưng ở người
Tày, cho đến ngày nay nó vẫn ảnh hưởng sâu sắc và có vị trí quan trọng trong
đời sống tâm linh của đồng bào.


7
Nhóm các công trình nghiên cứu trên đã tổng quát về đời sống tín

ngưỡng của dân tộc Tày nói chung. Các tác giả đã khái quát về hệ thống tín
ngưỡng của dân tộc Tày bao gồm những quan niệm tín ngưỡng, các hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng, các nghi lễ tín ngưỡng của dân tộc Tày mang lại cái
nhìn tổng quan về đời sống tín ngưỡng và những đặc trưng trong sinh hoạt tín
ngưỡng của người dân. Một số tác phẩm khác cũng đã đi sâu nghiên cứu
những hình thức tín ngưỡng cụ thể với những quan niệm, niềm tin tín ngưỡng
được thể hiện trong từng hình thức tín ngưỡng đó và các nghi lễ thực hành
trong mỗi hình thức tín ngưỡng.
- Nhóm các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng của dân tộc Tày tại
tỉnh Bắc Kạn
Trong những năm gần đây, công tác sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục văn
hóa tỉnh Bắc Kạn được quan tâm. Một số công trình như: “Bản sắc và truyền
thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn” tác giả Hà Văn Viễn, Lương Văn
Bảo, Lâm Xuân Đình, Nxb Văn hóa dân tộc (2004) đã khái quát truyền thống
văn hóa của các dân tộc sinh sống trong địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Cuốn sách
“Bản sắc và văn hóa truyền thống các dân tộc tỉnh Bắc Kạn”, Nxb Văn hóa
dân tộc (2004) đã khái quát văn hóa của các dân tộc sinh sống trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn trong đó có dân tộc Tày. Dân tộc Tày chiếm hơn 50% dân số
của tỉnh, do đó văn hóa truyền thống của người Tày có sức lan tỏa và ảnh
hưởng tới các dân tộc khác sinh sống trong tỉnh.
Luận án tiến sĩ: “Tang ma của người Tày ở Bắc Kạn” tác giả Lương Thị
Hạnh, Viện Khoa học xã hội (2013) đã khảo cứu về nội dung, nghi lễ, hình
thức, các lễ vật cúng tế trong tang ma của dân tộc Tày ở Bắc Kạn từ đó đưa ra
một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong tang ma
của người Tày hiện nay.


8
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã tiếp
cận tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày dưới góc độ tôn giáo và văn hóa

truyền thống. Các công trình nghiên cứu đã mang lại bức tranh tổng quát về
đời sống tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày. Tuy nhiên, những công trình
trên tập trung nghiên cứu tín ngưỡng của dân tộc Tày với các đặc điểm và các
hình thức, nghi lễ tín ngưỡng. Một số đề tài, công trình có đề cập tới phát huy
giá trị tích cực của tín ngưỡng với tư cách là một bộ phận của văn hóa của dân
tộc Tày nói chung nhưng chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề
phát huy giá trị tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày tại
tỉnh Bắc Kạn.
Trên cơ sở tập hợp các nguồn tư liệu và kế thừa những thành quả của tác
giả đi trước, tác giả muốn làm rõ hơn về tín ngưỡng của dân tộc Tày ở tỉnh
Bắc Kạn, chỉ ra những giá trị tích cực của nó, từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng tại địa phương trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về tín
ngưỡng truyền thống, luận văn đánh giá thực trạng việc phát huy những giá trị
tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn và nêu ra
một số giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả việc phát huy các giá trị
tích cực trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn hiện
nay.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng và tín ngưỡng truyền
thống.
+ Làm rõ các hình thức tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày và chỉ
ra các giá trị tích cực của nó.


9
+ Đánh giá thực trạng công tác phát huy các giá trị tích cực trong tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kan hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực và phát huy mặt
tích cực của tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn trong giai
đoạn hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày tại
tỉnh Bắc Kạn và vấn đề phát huy những giá trị tích cực của nó trong giai đoạn
hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tín ngưỡng của dân tộc Tày là một vấn đề rất rộng, luận văn không trình
bày toàn bộ vấn đề thuộc về tín ngưỡng của dân tộc Tày mà trình bày một số
tín ngưỡng chủ yếu của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn, khai thác những giá trị
tích cực của tín ngưỡng đó nhằm bảo tồn và phát huy trong giai đoạn hiện
nay.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên nền tảng những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng,
tôn giáo, về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chung
là phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp
khác cụ thể khác như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lịch sử và logic,
so sánh…nhằm thực hiện mục đích mà luận văn đặt ra.





10
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm vấn đề tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày

ở Bắc Kạn và phát huy những giá trị tích cực của nó trong giai đoạn hiện nay
ở địa phương.
- Luận văn đã đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần bảo tồn và
phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tín ngưỡng
truyền thống của dân tộc Tày.
- Luận văn góp phần làm tài liệu tham khảo cho những người làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy những môn học có liên quan tới văn hóa truyền
thống, dân tộc học, tôn giáo, tín ngưỡng và những người làm công tác quản lý
tôn giáo, tín ngưỡng.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 7 tiết.

















11

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG TRUYỀN THỐNG VÀ
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU TỈNH BẮC KẠN

1.1. Khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng truyền thống
1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử xã hội, thuộc lĩnh vực tinh thần
của đời sống xã hội. Tín ngưỡng ra đời, tồn tại và phát triển gắn với lịch sử
phát triển của nhân loại. Có nhiều cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu nên
có nhiều cách hiểu khác nhau về tín ngưỡng.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với quan niệm của Platon, Hêghen xuất
phát từ thực thể tinh thần, “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để giải thích về tôn
giáo, tín ngưỡng. Họ cho rằng tín ngưỡng, tôn giáo là sức mạnh thần bí thuộc
tinh thần tồn tại vĩnh hằng.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm tín ngưỡng là thuộc tính vốn có
bên trong ý thức của con người, tồn tại không phụ thuộc vào hiện tượng
khách quan và con người có thể cảm nhận được.
Theo C.Mác thì tín ngưỡng được hiểu theo nghĩa tín ngưỡng tôn giáo,
là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc thực hành tôn
giáo nhất định. Theo ông, con người đã sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo. Tín
ngưỡng chính là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế,
xã hội, chính trị, văn hóa cụ thể nào đó. Tín ngưỡng thuộc về đời sống tinh
thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của xã hội. Con
người đã thần thánh hóa, khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên,
tạo thành cái bản chất khác mình và trở thành chỗ dựa cho chính mình. C.
Mác và Ăngghen hiểu tín ngưỡng là tín ngưỡng Cơ Đốc giáo, tín ngưỡng
được hiểu với hàm nghĩa tôn giáo. Các ông coi tín ngưỡng là một hiện tượng


12

lịch sử, phản ánh điều kiện kinh tế xã hội của thời đại, tín ngưỡng có quá trình
hình thành phát triển và có ảnh hưởng nhất định tới lịch sử. Như vậy, Mác và
Ăngghen cho rằng tín ngưỡng là một yếu tố của đời sống xã hội, là sản phẩm
của lịch sử xã hội do con người sáng tạo ra. tín ngưỡng là một bộ phận của ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tín
ngưỡng là niềm tin của con người vào sự rồn tại và sự cứu giúp của một thực
thể siêu nhiên nào đó được thể hiện qua hệ thống nghi lễ.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra những quan điểm khác
nhau về tín ngưỡng như sau:
Theo Từ điển tôn giáo thì tín ngưỡng được hiểu: “Tín ngưỡng là lòng
tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí, lực
lượng siêu nhiên đó có thể mang hình thức biểu tượng là “Trời”, “Phật”,
“Chúa”, “Thánh”, “Thần” hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vô hình nào đó
tác động đến đời sống tâm linh của người ta, được con người tin là có thật và
tôn thờ”. [13;634-635]
Từ “tín ngưỡng” còn có cách hiểu khác như sau: “tín” nghĩa là lòng tin,
“ngýỡng” là sự ngýỡng vọng, hýớng theo một cái gì đó. Cùng với lòng tin, sự
ngưỡng mộ của con người vào một lực lượng siên nhiên, siêu thần bí nào đấy,
một lực lượng có sức mạnh huyền hoặc, hư ảo, vô hình, người ta gọi đó là
thần thánh. [31;1]
Theo nghiên cứu của GS. Đặng Nghiêm Vạn, ở nước ta hiện nay, tín
ngưỡng có thể hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, khi nói về tự do tín ngưỡng thì
có thể hiểu đó là tự do về ý thức, tự do về tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ hai tín
ngưỡng còn được hiểu với nghĩa bao trùm lên tôn giáo, là một bộ phận chủ
yếu nhất cấu thành tôn giáo. GS. Đặng Nghiêm Vạn cũng chỉ ra trong “Chỉ
thị về công tác tôn giáo trong tình hình mới” của Bộ Chính trị thì không có sự
phân biệt giữa hai phạm trù tín ngưỡng và tôn giáo [69;69].


13

Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho rằng: “tín ngưỡng là lòng ngưỡng
mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [1;283].
Tác giả Ngô Đức Thịnh cho rằng: tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của
con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là
niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu
mà ta có thể quan sát được. Có nhiều loại niềm tin nhưng niềm tin tín ngưỡng
là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào “cái thiêng” thuộc về bản
chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con
người cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng,
đời sống tình cảm…[61;16]
Theo tác giả Trần Quốc Vượng thì tín ngưỡng là một thành tố của văn
hóa. Tín ngưỡng là một biểu hiện của ý thức về một hiện tượng thiêng, một
sức mạnh thiêng, do con người tưởng tượng ra hoặc do con người suy tôn,
gán cho một hiện tượng, một sức mạnh chỉ cảm thụ được mà chưa nhận thức
được.
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa
tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng.
Đời sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục
được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình
độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ
tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời
sống cá nhân rất quan trọng…. [60;262].
Ngoài ra, còn có một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm tín
ngưỡng trong mối quan hệ với khái niệm tôn giáo.
Có quan điểm cho rằng: tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với
tôn giáo. Tôn giáo là sự phát triển của tín ngưỡng, tín ngưỡng có trước và là
nền tảng để hình thành tôn giáo. Những quan điểm khác lại đồng nhất tín


14

ngưỡng và tôn giáo, cho rằng cả hai đều gọi chung là tôn giáo. Tuy nhiên có
sự phân biệt giữa tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa phương và tôn giáo thế
giới.
Khi quan niệm rằng tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn tôn giáo
và là cơ sở hình thành tôn giáo thì các nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt
giữa tín ngưỡng và tôn giáo, đó là:
Tín ngưỡng được hình thành từ chính cuộc sống của con người, tín
ngưỡng phản ánh tự nhiên, chưa có cơ sở lý luận. Chính vì vậy mà tín ngưỡng
mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Cơ sở của tín
ngưỡng là niềm tin, nhưng niềm tin này chủ yếu là sự sùng tín và tin vào các
phép lạ, thần linh, tổ tiên. Do đó, tín ngưỡng gắn liền với các phong tục, tập
quán của con người. Ở tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý, nơi thờ cúng và
nghi lễ còn mang tính đơn giản. Còn tôn giáo được hình thành và tồn tại trên
cơ sở lý luận chặt chẽ, có tính hệ thống và khái quát. Ở trong tôn giáo, các
nghi lễ có sự phức tạp và tính hệ thống, được quy định chặt chẽ bởi giáo lý,
giáo luật, mang tính chất bắt buộc đối với các tín đồ.
Đồng nhất với quan điểm trên, tác giả Ngô Đức Thịnh đã viết: “tín
ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và
để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được
hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín
ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không
chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín
ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có đặc điểm chung còn tôn giáo
thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và
tổ chức tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu
phát triển đến một mức nào đó thì có thể thành tôn giáo” [61;16]. Ông cũng
chỉ ra sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo: “Tôn giáo có hệ thống giáo


15

lý, kinh điển…được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh
đường, học viện…có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt
chẽ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa, thánh đường…nghi lễ thờ cúng
chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần linh và con người. Còn tín ngưỡng
thì chưa có hệ thống giáo lí mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền
thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân
gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người,
nơi thờ cúng nghi lễ còn phân tán, chưa hình thành quy ước chặt chẽ”[61;50].
Như vậy, theo cách hiểu trên thì tín ngưỡng là điều kiện tiên quyết để tôn giáo
tồn tại và niềm tin cũng chính là điều kiện để tôn giáo được duy trì.
Tuy nhiên, tín ngưỡng và tôn giáo cũng có sự tương đồng đó là: tín
ngưỡng và tôn giáo đều thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào
các thế lực siêu nhiên. Cả tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự phản ánh hư ảo
của ý thức xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội đã sản sinh ra chúng.
Tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc tâm lý. Cả hai đều mang chức năng đền bù hư ảo và hướng con
người tìm đến sự giải thoát về mặt tinh thần.
Các nhà nghiên cứu khác như: Toan Ánh, Phan Kế Bính, Tân Việt…tiếp
cận tín ngưỡng dưới góc độ văn hóa dân gian, xem tín ngưỡng là tín ngưỡng
dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán truyền thống
của dân tộc Việt Nam.
Dù hiểu theo góc độ nào thì tín ngưỡng – tôn giáo vẫn là một hình thái ý
thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội. Và một khi những nhu cầu ấy
chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối
với một số tầng lớp xã hội, tín ngưỡng – tôn giáo vẫn là nguồn gốc của giá trị
đạo đức, niềm an ủi, nâng đỡ về tâm lý [63; 12].


16
Tín ngưỡng chính là niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người đối với một

lực lượng siêu nhiên nào đó có ảnh hưởng và chi phối cuộc sống của họ.
Niềm tin của con người vào những điều linh thiêng, sức mạnh huyền bí này
chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác mà khó có thể cảm nhận bằng lý tính. Tín
ngưỡng là hệ thống niềm tin của con người để giải thích thế giới và nhằm tạo
ra sự an ủi, cảm giác bình an cho con người.
Như vậy, có thể hiểu rằng tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội,
là một yếu tố thuộc về đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội
được hình thành trong lịch sử, là niềm tin của con người vào cái thiêng liêng
thông qua hệ thống các nghi lễ thờ cúng đặc trưng của con người và cộng
đồng xã hội. Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ
niềm tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội, nhân
vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu
mong sự che chở, giúp đỡ từ những lực lượng siêu nhiên mà người ta thờ
phụng.
1.1.2. Tín ngưỡng truyền thống
Thuật ngữ tín ngưỡng còn được hiểu bao gồm tín ngưỡng tôn giáo và tín
ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên
tuân theo những nguyên tắc thực hành tôn giáo nhất định. Tín ngưỡng dân
gian là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong
tục, tập quán truyền thống. Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận của văn hóa
và phản ánh những ước nguyện của con người và cả cộng đồng.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Tín ngưỡng Việt Nam còn
gọi là tín ngưỡng truyền thống hay tín ngưỡng dân gian, đây là tín ngưỡng của
các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh
của mình. Tín ngưỡng truyền thống hay tín ngưỡng dân gian Việt Nam ra đời


17
từ rất sớm. Nó là sản phẩm của văn hóa của người dân trong mối quan hệ với

tự nhiên, xă hội. Tín ngưỡng truyền thống cũng giống như các bộ phận khác
của văn hóa Việt Nam là mang những đặc trưng của văn minh nông nghiệp.
Điều này thể hiện ở sự tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên (tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên), đối tượng của tín ngưỡng phần nhiều là phụ nữ
(tín ngưỡng thờ Mẫu) và trong tín ngưỡng có sự hài hòa âm dương. Tín
ngưỡng này chủ yếu dựa trên sự tôn sùng các lực lượng siêu nhiên, lòng biết
ơn, ngưỡng mộ đối với các vị anh hùng dân tộc và người có công với
nước…Tín ngưỡng truyền thống còn thể hiện sự bất lực của con người trước
việc lý giải, nhận thức và quan hệ với các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
Như vậy, tín ngưỡng là những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng,
thần bí, thể hiện nềm tin vào một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết
và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người.
Hiện tượng này gắn với các phong tục, tập quán, thói quen, truyền thống của
một cộng đồng người, hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống và lịch sử phát
triển văn hóa của cộng đồng đó.
Tín ngưỡng chính là chỗ dựa tinh thần, là phần sâu lắng nhất, thuộc về
đời sống tâm linh của con người. Do đó, tín ngưỡng là bộ phận quan trọng
trong văn hóa tộc người. Khi con người gặp những điều rủi ro, bất hạnh trong
cuộc sống, muốn giải thoát mình khỏi những đau khổ của hiện thực thì con
người lại gửi gắm niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, hư ảo, và cầu xin ở nơi
thờ cúng các vị thánh thần. Vì vậy mà tín ngưỡng tồn tại trong nhân dân một
cách sâu bền ngay cả khi những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi. Nó thích
nghi với điều kiện mới chứ không hoàn toàn mất đi. Tuy nhiên, hiện nay
những hình thái tín ngưỡng sơ khai đã mai một đi, chỉ còn một vài hình thái
được duy trì, nhưng đã có biến dạng để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện xã
hội mới[31;7].


18
1.2. Tính tất yếu của việc phát huy những giá trị tích cực trong

tín ngưỡng truyền thống dân tộc
Khái niệm phát huy theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng
(1997) định nghĩa như sau: “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [66;74]. Khi nói tới việc phát huy những giá trị
thuộc lĩnh vực tinh thần thì còn đi liền với sự bảo tồn những giá trị đó. “Bảo
tồn là giữ lại, không để cho mất đi” [66;37]. Như vậy, phát huy những giá trị
thuộc lĩnh vực tinh thần, văn hóa truyền thống tức là kế thừa, giữ lại những
yếu tố tích cực, tiến bộ của nó và loại bỏ những yếu tố tiêu cực và làm cho
những giá trị, những yếu tố tích cực đó được lưu truyền, lan tỏa.
Tín ngưỡng truyền thống ra đời và phát triển cùng với quá trình phát
triển của dân tộc, gắn liền với cuộc sống, thói quen, phong tục tập quán. Tín
ngưỡng truyền thống đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của văn hóa
truyền thống. Do đó, việc bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực của tín
ngưỡng truyền thống là một tất yếu.
Điều này xuất phát từ cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn
giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó. C.Mác
cho rằng tôn giáo là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho
quần chúng nhân dân khi họ bất lực trước cuộc sống hiện thực. Họ tìm đến
một lực lượng siêu nhiên để bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh
cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Chủ nghĩa Mác không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực
đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… Vì
tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện
thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái
hiện thực đã nảy sinh ra nó.


19
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tôn giáo, tín ngưỡng là một hình thái ý

thức xã hội mang tính chất duy tâm, nhưng các nhà kinh điển Mác – Lênin
cũng đã thừa nhận vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng và coi đây là vấn đề còn
tồn tại lâu dài. Để giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo cần có thời gian và
phải gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao
nhận thức quần chúng. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng khẳng định tôn giáo, tín
ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội nên muốn thay đổi nó cần phải thay đổi
tồn tại xã hội. Muốn xóa bỏ những ảo tưởng trong đầu óc của con người thì
trước hết cần phải xóa bỏ những nguồn gốc gây ra ảo tưởng ấy. Muốn cho con
người từ bỏ những mơ ước về cuộc sống tốt đẹp, thiên đường ở một thế giới
không có thực thì cần phải xây dựng được một thiên đường có thực cho con
người. Để thực hiện được điều này cần phải có một quá trình lâu dài để cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân, thông qua đó mới có thể loại bỏ được những ảnh hưởng tiêu
cực của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội. Ngoài ra, để khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo thì cũng cần đẩy mạnh
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, tuyên truyền giáo dục nhân dân.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng là vấn
đề còn tồn tại lâu dài trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, các ông
đã đưa ra những nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo, đó là:
Thứ nhất, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, tín
ngưỡng phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Theo đó, trước hết phải “Xoá bỏ tình trạng nô lệ về mặt kinh tế, nguồn gốc
thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tôn giáo”. Hay nói cách khác, muốn
thay đổi ý thức xã hội trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội,
muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người phải xoá bỏ nguồn
gốc sinh ra ảo tưởng ấy, phải xác lập được một xã hội hiện thực không có áp


20
bức, bất công, nghèo đói và thất học Việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội

mới là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải khai thác và phát huy tiềm năng của
mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân.
Các nhà kinh điển Mác – Lênin quan tâm không chỉ tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng mà còn cả quyền tự do không tín ngưỡng. Tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những
người vô thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác
nhau. Nội dung căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là:
- Mọi công dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hoàn
toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào.
- Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và không tín ngưỡng đều bình đẳng
về nghĩa vụ và quyền lợi.
- Tất cả mọi tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng
như nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo.
Tuy nhiên, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải chống lại
những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, mặt khác, không dung
túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba là: có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Nguyên tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải phù hợp với không
gian, thời gian cụ thể.
Bốn là: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và việc
chính trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tôn giáo
trên thực tế là vấn đề không đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt rõ, từ


21
đó mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo

phải được giải quyết bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo; còn mặt
chính trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp
chính trị. Việc áp dụng lẫn lộn các loại giải pháp, cũng như tuyệt đối hoá một
loại giải pháp nào đó đều là tai hại cho cả tôn giáo và cho chính trị cầm
quyền.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra muốn khắc phục những ảnh hưởng
tiêu cực của hình thái ý thức tôn giáo thì trước hết cần phải tạo lập được một
tồn tại xã hội, một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo
đói…một thế giới hiện mà người ta có thể tìm thấy những hạnh phúc thật sự
ngay trong cuộc sống, một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một
quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới.
Xuất phát từ nhận thức tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân và đó là nhu cầu hoàn toàn chính đáng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không được
chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuyệt đối không
được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Tôn giáo
không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thiết chế xã hội, nó
biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. Do đó, ở từng thời kỳ lịch sử, vai
trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái
độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn
có sự khác biệt. Cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, trong những điều
kiện cụ thể mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định thái độ, cách ứng xử phù
hợp.

×