Viện Khoa học xã hội việt nam
Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội
và nhân văn
Viện Triết học
Nguyễn Ngọc Toàn
Tính nhân văn của văn hóa Việt Nam
trong điều kiện đổi mới và phát triển
đất n-ớc hiện nay
Luận văn Thạc sĩ triết học
Hà Nội - 2006
Viện khoa học xã hội việt nam
Viện triết học
Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội
và nhân văn
Luận văn Thạc sĩ triết học
Tính nhân văn của văn hóa Việt Nam
trong điều kiện đổi mới và phát triển
đất n-ớc hiện nay
Mã số: 60.22.80
Ng-ời thực hiện: Nguyễn Ngọc Toàn
Ng-ời h-ớng dẫn: TS. Nguyễn Huy Hoàng
- Hà Nội 04/2006 -
Mục lục
Trang
Mở đầu
4
Ch-ơng 1. Tính nhân văn của văn hóa Việt Nam
14
1.1. Văn hóa và tính nhân văn của văn hóa
14
1.2. Tính nhân văn của văn hóa Việt Nam
1.2.1. Sự khoan dung
1.2.2. Tinh thần yêu n-ớc
19
24
33
Ch-ơng 2. Phát huy tính nhân văn của văn hóa Việt
Nam trong điều kiện đổi mới và phát
triển đất n-ớc hiện nay
43
2.1. Những cơ hội và những thách thức đặt ra đối với tính
nhân văn của văn hóa trong điều kiện Việt Nam hiện
nay
44
2.2. Những nguyên tắc cơ bản nhằm phát huy tính nhân văn
của văn hóa Việt Nam trong điều kiện đổi mới và phát
triển đất n-ớc hiện nay
56
Kết luận
63
Danh mục tài liệu tham khảo
65
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong 20 năm đổi mới vừa qua, với những chính sách đúng đắn, sáng
tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đổi mới đất
nước, xây dựng một nền kinh tế mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành quả mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua đã góp phần
đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ về kinh tế, đồng thời
ngày càng cải thiện và nâng cao đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất
của mọi tầng lớp nhân dân, thông qua đó mà vị thế của đất nước trên trường
quốc tế cũng ngày được nâng cao hơn. Đánh giá về tình hình đất nước trong
những năm qua, Đảng ta cho rằng “đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp Thực tiễn chứng minh hùng hồn rằng, đường lối đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn của đất nước và giai đoạn hiện nay”. Trong những diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta chủ trương nhanh chóng nắm bắt
những cơ hội, vượt qua thách thức để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
"tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới", một chủ trương được toàn
dân ủng hộ và dư luận quốc tế đánh giá cao [18]. Đây là vấn đề hết sức có ý
5
nghĩa, nhằm đưa nước ta nhanh chóng đi lên sánh vai với các nước phát triển
trên thế giới.
Tuy nhiên, chúng ta tiến hành đổi mới trong những biến động to lớn
của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Đất nước ta tiến hành xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chiến tranh
lạnh đã kết thúc, quá trình toàn cầu hóa được đẩy mạnh trên phạm vi toàn cầu
mang lại nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng không ít nguy cơ tiềm ẩn đe dọa
sự sống còn của các quốc gia, các dân tộc. Một trong những nguy cơ do toàn
cầu hóa sản sinh ra được đề cập nhiều nhất trong những năm gần đây là sự
hòa tan các nền văn hóa vào một nền văn hóa chung, duy nhất mang tính chất
phương Tây, hay là sự phương Tây hóa các nền văn hóa. Điều này làm mất đi
tính chất đa dạng trong văn hóa, làm tiêu tan bản sắc văn hóa riêng có của
từng dân tộc, từng quốc gia. Đây được coi là một sự xâm lược thuộc địa kiểu
mới theo một con đường “hợp lôgic” của sự nô dịch, của chủ nghĩa thực dân
kiểu cũ lẫn kiểu mới với những đe dọa tăng thêm đối với loài người, được che
đậy bằng những từ ngữ và những ý tưởng hết sức hoa mỹ như “trách nhiệm
toàn cầu”, “gia đình thế giới”, “một loài người thống nhất” và “trật tự thế giới
mới”[Xem: 73]. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa không loại trừ một quốc gia,
một dân tộc nào và Việt Nam của chúng ta cũng không phải là một ngoại lệ.
Cùng với những thành quả to lớn về mặt kinh tế, trong những năm qua, chúng
ta cũng đã vấp phải không ít khó khăn, trở ngại, những vấn đề gây cản trở lớn
đối với sự phát triển của đất nước. Sự du nhập những giá trị văn hóa ngoại lai
trong quá trình hội nhập với thế giới, sự ảnh hưởng của mặt trái của nền kinh
tế thị trường đến đời sống tâm lý, lối sống, cách tư duy của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân đang thực sự trở thành những vấn
đề nóng bỏng. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống lâu đời, tốt đẹp, được thử
thách và khẳng định qua thời gian hiện nay đang bị mai một, đứng trước nguy
6
cơ bị đồng hóa, bị hòa tan bởi các giá trị văn hóa xa lạ. Đứng trước tình hình
đó, Đảng ta nhận định: “Sự thay đổi cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu
tăng nhanh về văn hóa của các tầng lớp dân cư, quá trình dân chủ hóa, v.v là
những yếu tố làm thay đổi nhiều mặt đời sống văn hóa dân tộc. Những thành
tựu của cách mạng khoa học - công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao
lưu quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài
người, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc”[15, tr. 41]. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu, tìm tòi để chỉ
ra những giá trị tích cực, những hạn chế cần khắc phục, sửa chữa và bổ sung
của nền văn hóa trong quá trình hội nhập, giao lưu với các nền văn hóa khác
trên thế giới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay đã thực sự trở thành một
nhu cầu cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Việc làm này nhằm mục đích
hiện đại hóa và đề cao những giá trị văn hóa Việt Nam, giúp chúng ta có đủ
bản lĩnh, đủ khả năng để chủ động hội nhập với thế giới mà không đánh mất
bản thân mình, đồng thời củng cố và tạo dựng một “bộ lọc” văn hóa hữu hiệu
nhằm bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống trước nguy cơ đồng
hóa mạnh mẽ của các nền văn hóa khác trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Bởi vì, chúng ta đều biết rằng, một dân tộc, một quốc gia muốn đứng vững
trong quá trình hội nhập với thế giới thì không thể không có một nền tảng văn
hóa vững chắc. Mặt khác, nếu chỉ biết lưu giữ những giá trị văn hóa một cách
cứng nhắc, giáo điều, cố tình đóng cửa, không tiếp thu các thành tựu khoa học
kỹ thuật cũng như các giá trị văn hóa tiến bộ mà loài người đã đạt được trong
thời đại ngày nay thì quốc gia đó, dân tộc đó không thể tiến xa được. Do vậy,
việc lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đồng thời bổ sung, phát
triển, hiện đại hóa chúng bằng những giá trị văn hóa tiến bộ của loài người,
phù hợp với lối sống, tư duy và tình cảm của dân tộc là một đòi hỏi tất yếu,
7
góp phần đưa đất nước vững bước đi lên trong sự phát triển chung của nhân
loại.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi đi vào nghiên
cứu nền văn hóa của dân tộc Việt Nam và lựa chọn một vấn đề làm đối tượng
nghiên cứu của luận văn của mình mang tên “Tính nhân văn của văn hóa Việt
Nam trong điều kiện đổi mới và phát triển đất nước hiện nay”, với mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào một lĩnh vực hết sức rộng lớn
nhưng vô cùng hấp dẫn, đã thu hút được đông đảo nhiều thế hệ các nhà khoa
học trong thời gian vừa qua.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu văn hóa từ lâu đã là một đề tài rộng lớn nhưng không kém
phần hấp dẫn. Chỉ cần thấy rằng hiện nay trên thế giới đã có từ 400 đến 600
định nghĩa khác nhau về văn hóa cũng đã đủ cho chúng ta thấy được mức độ
đa dạng và phức tạp của vấn đề này. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa
riêng với những đặc thù riêng, những tính chất độc đáo riêng vốn có của mỗi
dân tộc đó mà nhiều thế hệ các nhà khoa học đã dày công nghiên cứu nhưng
dường như vẫn chưa có thể hiểu biết hết về chúng. Nói đến văn hóa truyền
thống của Việt Nam, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, nhà sử học, nhà
văn hóa học Đào Duy Anh đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu toàn diện về
những đặc trưng, những tính chất cơ bản của văn hóa Việt Nam được thể hiện
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Những tư tưởng,
những nghiên cứu mang tính chất xuất phát điểm của ông được trình bày
trong tác phẩm nổi tiếng “Việt Nam văn hóa sử cương” được Quan Hải Tùng
Thư ấn hành năm 1938 và được Nhà xuất bản văn hóa Thông tin tái bản lại
vào năm 2003. Cũng trong khoảng thời gian này, tác giả Nguyễn Văn Huyên
cũng cho xuất bản công trình “Văn minh Việt Nam” đề cập một cách khá đầy
đủ các sinh hoạt văn hóa từ sinh hoạt gia đình, làng xã, nhà nước đến sinh
8
hoạt trong lao động sản xuất và đời sống tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng của
người Việt. Tác phẩm này được viết bằng tiếng Pháp, được in trong Nguyễn
Văn Huyên toàn tập (tập 1), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000 và được in
thành sách riêng năm 2005 do Nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản.
Bước vào giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” được ra đời
năm 1943 đã nêu bật được sự quan tâm sâu sắc, chủ trương lớn lao và lòng
quyết tâm cùng toàn dân tộc đứng lên xây dựng một nền văn hóa tiến bộ của
Đảng trong tình hình cách mạng mới. Cũng kể từ đó đã xuất hiện rất nhiều
công trình nghiên cứu bàn về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
theo hướng hiện đại, tiên tiến nhưng vẫn lưu giữ và bảo tồn được những giá
trị văn hóa tốt đẹp của cha ông.
Ngày nay, trước những biến động mang tính chất thời đại bắt đầu từ
cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, cùng với sự đổi mới
toàn diện đất nước, với việc mở cửa nhằm giao lưu, hội nhập với thế giới,
công cuộc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
mang tính chất cấp bách hơn bao giờ hết. Hầu hết các công trình nghiên cứu
về văn hóa trong khoảng thời gian từ sau năm 1986 trở lại đây đều tập trung
giải quyết vấn đề làm thế nào có thể bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ hiện nay. Có thể kể ra ở đây một số công trình tiêu biểu như:
- “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn
Huyên (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1995, 1996; t.1, t.2);
- “Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam”
của tác giả Đinh Gia Khánh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995);
9
- Tác giả Phan Ngọc với hai công trình nổi tiếng mang tên “Văn hóa
Việt Nam và cách tiếp cận mới” và “Bản sắc văn hóa Việt Nam” do Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1994 và năm 2002;
- Cùng với đó, tác giả Đỗ Huy với công trình “Nhận diện văn hóa Việt
Nam và sự biến đổi của nó trong thế kỷ XX” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 2002) và “Văn hóa và phát triển” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005).
- Có một số công trình khác cũng bàn khá sâu sắc về vấn đề này như
“Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam” của tác giả Trần Quốc
Vượng (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1998), “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và
suy ngẫm” (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2003) và “Cơ sở Văn hóa Việt
Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn làm
giáo trình cơ bản cho việc giảng dạy môn Văn hóa học trong cách trường đại
học, cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay.
Các công trình này đã nêu bật được sự hình thành văn hóa Việt Nam từ
những điều kiện tự nhiên và xã hội đặc trưng của khu vực. Bên cạnh đó, các
công trình cũng đã đề cập đến những biểu hiện đặc thù của văn hóa Việt Nam
trong lối sống, cách tư duy, cách ứng xử của con người trong sinh hoạt cộng
đồng cũng như trong lao động sản xuất, trong quan hệ với giới tự nhiên. Đặc
biệt, các công trình này đã bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc định hình và
nghiên cứu các đặc trưng, những tính chất cơ bản, nền tảng của văn hóa Việt
Nam trong quá trình hình thành và phát triển của chúng.
Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam
cũng được bàn đến khá nhiều trong các tạp chí chuyên ngành như tạp chí
Triết học, tạp chí Khoa học Xã hội, tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật,
Diễn đàn văn hóa nghệ thuật Việt Nam, tạp chí Cộng sản, v.v.:
10
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn với một số công trình tiêu biểu như:
“Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với giá trị truyền thống trong
điều kiện toàn cầu hóa hiện nay” (Tạp chí Triết học, số 8/2004); “Giao lưu
văn hóa và sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa” (trong
sách “Việt Nam trong thế kỷ XX” Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002);
Tác giả Thành Duy với: “Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam
trước xu thế toàn cầu hóa” của (Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 6
năm 2001);
Tác giả Nguyễn Văn Huyên với công trình “Toàn cầu hóa và một số
vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam” của (Tạp chí Diễn đàn văn
nghệ Việt Nam, số 9 năm 2001).
Tác giả Trường Lưu: “Hai mặt của toàn cầu hóa và thế ứng xử của văn
hóa dân tộc” (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 8 (206), 2001) và công trình
“Toàn cầu hóa và vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc” (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003).
Tác giả Nguyễn Thế Nghĩa với công trình “Giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” được đăng tải trên tạp
chí Cộng sản, số 20, tháng 10 năm 1999;
Tác giả Phạm Thái Việt với công trình “Bản sắc văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu hóa” (Tạp chí Triết học số 8, năm 2004)
Và tác giả Phạm Văn Đức với “Phát huy tinh thần dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí triết học, số 9 năm 2004).
Đặc biệt, trong năm 2001 (tháng 5 và tháng 8), Viện Triết học thuộc
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam) đã tổ chức 2 cuộc Hội thảo lớn, trong đó có một cuộc Hội thảo
Quốc tế mang tên “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu
11
hóa” bàn về vấn đề này. Sự ra đời của 2 cuốn sách sau những cuộc hội thảo
này “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” và
“Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” càng thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực lý luận về
vấn đề bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống trong
điều kiện đổi mới và phát triển đất nước trong xu thế hội nhập với thế giới
ngày nay.
Các công trình khoa học trên đây và các công trình khác bàn về vấn đề
này đã ít nhiều đề cập đến những khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt Nam
trong điều kiện đổi mới và phát triển đất nước, đặc biệt là những tính chất cơ
bản của nền văn hóa của chúng ta. Tuy nhiên, khi bàn về tính nhân văn trong
văn hóa Việt Nam, các tác giả đã tiếp cận từ rất nhiều góc độ, nhiều khía cạnh
khác nhau của vấn đề như tinh thần yêu nước, tính cố kết cộng đồng thương
yêu đùm bọc lẫn nhau, v.v. mà hầu như chưa có một sự khái quát, một sự tổng
kết sâu sắc, thấu đáo về vấn đề này. Chính vì vậy, trong luận văn, chúng tôi
cố gắng giải quyết vấn đề này một cách khái quát và cơ bản hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
a) Mục đích:
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ tính nhân văn của văn hóa Việt
Nam ở sự khoan dung và tinh thần yêu nước, để qua đó chỉ ra và luận giải
những cơ hội và những thách thức đang được đặt ra với tính nhân văn đó
trong điều kiện đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay. Thông qua việc
nghiên cứu đặc trưng cơ bản này, luận văn đề ra một số nguyên tắc để bảo
tồn, phát huy và đồng thời tiếp thu trên cơ sở có chọn lọc những yếu tố,
những giá trị văn hóa mới của nhân loại nhằm phát triển tính nhân văn của
văn hóa Việt Nam trong thời đại ngày nay.
b) Nhiệm vụ:
12
Từ mục đích nên trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ nội dung của tính nhân văn của văn hóa Việt Nam thông qua
hai yếu tố cơ bản: sự khoan dung và tinh thần yêu nước.
- Chỉ ra và luận giải những cơ hội và thách thức đối với tính nhân văn
của văn hóa Việt Nam
- Đưa ra những nguyên tắc cơ bản nhằm bảo tồn, phát huy và phát triển
tính nhân văn trong điều kiện phát triển ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Văn hóa là một đề tài rất rộng, nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của
văn hóa nói chung và của văn hóa Việt Nam nói riêng là một công việc đòi
hỏi phải có sự đầu tư lớn về công sức của các thế hệ các nhà khoa học. Đây là
một đề tài có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở phương
diện triết học, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có
tham vọng đi tìm hiểu mọi vấn đề của văn hóa, vì chúng tôi hiểu rằng, ngay
một vấn đề là nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của một nền văn hóa nhất
định cũng đã là một đề tài khá lớn. Do vậy, ở đây, chúng tôi chỉ xin phép giới
hạn đề tài nghiên cứu của mình trong phạm vi tính chất cơ bản của mọi nền
văn hóa nói chung cũng như văn hóa Việt Nam nói riêng, đó là tính nhân văn,
nghiên cứu đặc trưng cơ bản này trong văn hóa của dân tộc với hai yếu tố cơ
bản của nó là sự khoan dung và tinh thần yêu nước, xem xét những thách thức
đặt ra đối với chúng trong điều kiện của sự đổi mới và phát triển đất nước ta
ngày nay, để từ đó nêu ra một số nguyên tắc cơ bản nhằm phát huy những mặt
tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, góp phần tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử có sự kết hợp chặt chẽ với
13
những quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và xây dựng một nền văn hóa tiến tiên đậm đà bản sắc dân
tộc để giải quyết những vấn đề được đề ra trong luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đi từ
trừu tượng đến cụ thể, đối chiếu và so sánh, phương pháp kết hợp giữa lôgíc
và lịch sử để trình bày các vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua việc trình bày một cách tương đối có hệ thống về tính nhân
văn trong văn hóa - một tính chất cơ bản của mọi nền văn hóa riêng biệt, luận
văn xem xét những biểu hiện của tính nhân văn trong văn hóa Việt Nam trong
lịch sử phát triển của dân tộc, đặc biệt, luận văn nghiên cứu và xem xét những
thách thức đặt ra đối với tính nhân văn trong giai đoạn đổi mới và phát triển
đất nước hiện nay để từ đó cố gắng đưa ra một số nguyên tắc chung có tính
chất định hướng trong việc phát huy và bảo tồn những giá trị văn hóa có ý
nghĩa thúc đẩy sự phát triển của đất nước hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn.
Với việc tập trung nghiên cứu tính nhân văn trong văn hóa nói chung
và tính nhân văn trong văn hóa của Việt Nam nói riêng, luận văn có ý nghĩa
nhằm nâng cao nhận thức trong việc tìm hiểu về các đặc trưng cơ bản của mỗi
nền văn hóa, từ đó có thể góp phần vào công cuộc xây dựng những chủ
trương, chính sách nhằm phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống
trong thời đại ngày nay.
Bên cạnh đó, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề về triết học văn hóa, văn hóa học
trong các trường Cao đẳng, Đại học.
14
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 2 chương với 4 tiết.
15
CHƢƠNG 1.
TÍNH NHÂN VĂN CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1. Văn hóa và tính nhân văn của văn hóa.
Văn hóa ra đời trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại với tư cách
là một sản phẩm của hoạt động sống, hoạt động lao động sản xuất của con
người. Văn hóa không phải là một thứ con người tự nhiên có được mà con
người chỉ có thể tiếp nhận được nó khi phải trải qua một quá trình giáo dục
(cả tự phát lẫn tự giác) lâu dài. Chính vì vậy, khi tiếp cận vấn đề văn hóa, các
học giả đều đưa ra những định nghĩa khác nhau xuất phát từ khía cạnh nghiên
cứu của mình, và điều này đã tạo nên sự đa dạng về định nghĩa văn hóa mà
cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được một định nghĩa hoàn toàn thống nhất.
Trong khoảng 400 đến 600, thậm chí có đến hơn 1000 định nghĩa khác
nhau về văn hóa trên thế giới hiện nay [Xem: 53, tr.32], theo chúng tôi, có
một số định nghĩa rất đáng chú ý, phần nào đã nêu bật được những đặc điểm
chung nhất của văn hóa:
Vào cuối thế kỷ XIX, E.B.Tylor, nhà xã hội học về văn hóa người Anh,
lần đầu tiên đưa ra một khái niệm văn hóa có thể chấp nhận được một cách
rộng rãi trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy” của ông. Ông cho rằng, “văn
hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, tập tục và bất kỳ năng lực thói quen nào khác mà con người
cần có với tư cách là một thành viên xã hội”.
Xem xét văn hóa với tư cách là kết quả của quá trình lao động của con
người, Bách khoa toàn thư Pháp cho rằng, văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục,
tín ngưỡng, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những hiểu biết kỹ thuật cũng như
toàn bộ việc tổ chức môi trường của con người, những công cụ, nhà ở nói
16
chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ
và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó.
Cùng quan điểm đó, Bách khoa thư Liên Xô cũng khẳng định, văn hóa
là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người, biểu hiện trong các
kiểu và các hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như
trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra. Văn hóa có
thể được dùng để chỉ trình độ phát triển về mặt vật chất và tinh thần của
những xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (thí dụ văn hóa cổ đại, văn hóa Maya, văn
hóa Trung Quốc ). Theo nghĩa hẹp, văn hóa chỉ liên quan tới đời sống tinh
thần của con người [Trích theo: 54, tr. 25].
Ở khía cạnh triết học, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội, lịch sử
và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa
hẹp hơn, người ta quen nói về văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản
xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật, văn học, triết
học, đạo đức, giáo dục ). Văn hóa là một hiện tượng lịch sử phát triển phụ
thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội [63, tr.656].
Khi phát động Thập kỷ phát triển văn hóa, Tổ chức Văn hóa, Khoa học
và Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa
phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang
diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống
các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình” [65, tr.23].
Đề cập đến vấn đề này, nhiều học giả trong nước cũng đã đưa ra những
định nghĩa của mình về văn hóa:
17
Với quan niệm cho rằng văn hóa của các dân tộc sở dĩ khác nhau là do
các dân tộc sinh sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau, do
đó “muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, trước hết phải xem xét dân tộc
ấy sinh trưởng trong những điều kiện địa lý như thế nào” [1, tr.11], học giả
Đào Duy Anh quan niệm văn hóa là hoạt động sinh hoạt của các dân tộc qua
từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử.
Ở một cách tiếp cận gần với Đào Duy Anh, tác giả Trần Quốc Vượng
quan niệm “Văn hóa, trước hết, là một sự trả lời, một sự ứng phó, của một
cộng đồng dân cư, trước những thách thức của những điều kiện địa lý - khí
hậu (géoclimatique), và sau đó là sự trả lời, ứng phó, trước những điều kiện
xã hội - lịch sử” [70, tr.65]
Với quan niệm “văn hóa là hoạt động”, tác giả Phan Ngọc cho rằng
“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay
một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc
người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu
hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy
nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác
các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác” [47, tr.18].
Khác với các nhà nghiên cứu sử học, văn hóa học, các nhà triết học
cũng đưa ra những định nghĩa văn hóa từ khía cạnh nghiên cứu của mình. Với
sự ảnh hưởng sâu sắc của triết học mácxít, tác giả Đỗ Huy quan niệm “văn
hóa chính là tổng thể các giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật
chất, các giá trị tinh thần và bản thân sự phát triển của con người. Trong văn
hóa, cả ba giá trị này đều tương tác và gắn bó với nhau” [35, tr.15].
Với cách hiểu bản chất văn hóa nằm ở thái độ và cách thức hoạt động
của con người, tác giả Hồ Sĩ Quý cho rằng, “Văn hóa là biểu hiện của phương
thức sống của con người, là tổng hòa mọi giá trị người” [52, tr.32].
18
v.v
Từ việc nên ra một số định nghĩa về văn hóa có tính chất điển hình trên
đây, có thể thấy rằng, việc đi tìm một định nghĩa tổng quát về văn hóa, một
định nghĩa có tầm bao quát rộng nhất các khía cạnh của văn hóa là một việc
làm khó khăn, phức tạp và đòi hỏi sự đầu tư công sức và thời gian hơn nữa
của các thế hệ các nhà khoa học. Chính những khó khăn trong việc tìm kiếm
một khái niệm chung nhất về văn hóa đã tạo nên rất nhiều khó khăn trong
công tác nghiên cứu văn hóa nói chung và nghiên cứu văn hóa dưới góc độ
triết học (triết học văn hóa) nói riêng. Điều này đã buộc chúng tôi phải quay
về với nghĩa gốc của khái niệm văn hóa (culture) để tìm một định nghĩa về
văn hóa mang tính chất công cụ phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Khi đề cập đến khái niệm văn hóa, hầu hết các thuật ngữ chỉ khái niệm
“văn hóa” ở các nước phương Tây đều có chung một nguồn gốc La tinh cultus
animi có nghĩa là sự trồng trọt tinh thần, tức là giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn
con người. Theo người phương Tây, văn hóa gắn liền với giáo dục đào tạo
con người, một cộng đồng người hướng tới những giá trị, những phẩm chất
tốt đẹp cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân và của cả cộng đồng
người đó. Văn hóa còn có ý nghĩa như là sự trồng trọt, sự thích ứng và khai
thác tự nhiên, qua đó giáo dục các cá nhân hay các cộng đồng người thoát ra
khỏi tình trạng tự nhiên thuần túy, đạt đến những phẩm chất tốt đẹp mang tính
chất người hơn.
Trong quan niệm của người phương Đông, văn hóa tức là “văn trị giáo
hóa”, với ý nghĩa là một đường lối cai trị mang tính chất đạo đức sâu sắc có
sự kết hợp với việc giáo hóa, giáo dục con người theo những chuẩn mực xã
hội nhất định. Ở một nghĩa gần như vậy, văn hóa được dùng với nghĩa đối lập
với “vũ lực”. Khi con người ta dùng giáo dục, thuyết phục, bằng văn hóa,
bằng đạo đức để cải hóa mà vẫn không thay đổi thì khi đó phải sử dụng đến
19
vũ lực để cưỡng chế, bắt con người ta khuôn theo một khuôn mẫu đã được
định sẵn.
Như vậy, nhìn tổng thể chúng ta nhận thấy rằng quan niệm của phương
Đông và phương Tây về văn hóa rất gần với nhau. Do đó, có thể hiểu rằng,
văn hóa chính là sự vun trồng, bồi dưỡng và phát huy nhân tính cho con
người.
Với tính cách là công cụ giáo dục, bồi dưỡng nhân tính cho con người,
văn hóa được cấu thành từ nhiều tính chất mang đậm ảnh hưởng của đời sống
vật chất cũng như tinh thần của con người trong xã hội. Các tính chất của văn
hóa, theo chúng tôi, bao gồm rất nhiều như: tính nhân văn, tính sáng tạo, tính
riêng biệt (hay tính bản sắc), tính trường tồn, v.v Các tính chất này có mối
liên hệ tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau, trong đó vai trò của tính nhân văn
là nổi trội hơn cả.
Tính nhân văn của văn hóa được hiểu như là một sự tổng hòa của tính
khoan dung, lòng nhân ái, của ý thức trách nhiệm về giống nòi, về cộng đồng,
về dân tộc của cá nhân cũng như của các cộng đồng trong mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau ở mỗi một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội
loài người nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục, bồi
dưỡng nhân tính cho các cá nhân để hướng tới xây dựng một xã hội hòa bình,
ổn định, mang đậm tính chất người.
Biểu hiện của tính nhân văn của văn hóa, trước hết, đó là lòng nhân ái,
yêu thương con người. Thương yêu con người, trước hết được xuất phát từ
chính những con người cùng sinh sống trong một cộng đồng, một xã hội xác
định, là sự bảo đảm cho cộng đồng sự an toàn để tồn tại, tạo ra những điều
kiện để mỗi người tự do phát triển năng lực của bản thân mình. Thứ hai, là sự
tiếp nhận các giá trị văn hóa từ bên ngoài, bản địa hóa những giá trị đó nhằm
làm giàu thêm kho tàng văn hóa của một dân tộc hoặc một cộng đồng nào đó.
20
Đây còn được gọi là quá trình tiếp biến văn hóa (acculturation), là quá trình
du nhập, đan xen và biến đổi các giá trị văn hóa trong sự giao lưu, tiếp xúc
giữa các nền văn hóa với nhau. Hiện tượng này tạo nên sự đa dạng trong các
giá trị văn hóa, qua đó đồng thời cũng khẳng định những nét riêng biệt, đặc
thù của một nền văn hóa. Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng chính là một
trong những động lực chủ yếu giúp văn hóa phát triển. Chính vì điều này mà
các nhà nghiên cứu luôn khẳng định rằng, không thể có một nền văn hóa phát
triển nếu không có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa. Thứ ba, đó là sự hòa hiếu,
lòng yêu chuộng hòa bình, tình đoàn kết, hữu nghị, gắn bó, mong muốn cùng
nhau phát triển của các quốc gia, các dân tộc trong cùng một khu vực cũng
như các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
Nếu xem xét những biểu hiện của tính nhân văn của văn hóa ở những
góc độ này, chúng ta có thể khẳng định rằng, tính nhân văn của văn hóa là
tính chất nền tảng, là yếu tố quyết định đến các tính chất khác như tính sáng
tạo, tính riêng biệt hay tính trường tồn của văn hóa. Bởi vì, tính nhân văn có
phát triển, có được phát huy mạnh mẽ trong đời sống xã hội thì năng lực sáng
tạo của cộng đồng hay khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân mới có đủ điều
kiện để phát triển. Tính nhân văn có được phát huy mới mở ra con đường
thuận tiện cho việc bổ sung những yếu tố văn hóa mới phù hợp với thời đại,
góp phần củng cố những giá trị văn hóa mang tính trường tồn trong văn hóa,
v.v Chính vì vậy, phát huy tính nhân văn của văn hóa là điều kiện cơ bản để
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa khác trong đời sống xã hội
1.2. Tính nhân văn của văn hóa Việt Nam.
Chúng ta đều biết rằng, văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc được
hình thành trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại, để sống, để lao
động và sản xuất nhằm duy trì sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như của cả
cộng đồng đó. Điều này có nghĩa là, văn hóa được hình thành trong những
21
điều kiện tự nhiên cũng như những điều kiện xã hội thích hợp với lối sống, lối
tư duy và cách lao động sản xuất của cộng đồng người nhất định. Vì vậy mà,
muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, trước hết phải xem xét dân tộc ấy
sinh trưởng trong những điều kiện địa lý như thế nào, “phải xuất phát từ
những điều kiện tự nhiên rồi sau đó những điều kiện lịch sử để nhìn nhận
về cội nguồn và bản sắc văn hóa” [70, tr.28]. Nghiên cứu văn hóa Việt Nam
cũng không nằm ngoài nguyên lý chung ấy, bởi vì “thiên nhiên Việt Nam là
điểm xuất phát của văn hóa Việt Nam Văn hóa Việt Nam cổ truyền vừa là
sự hòa điệu vừa là sự đấu tranh với thiên nhiên” Vậy thì, khi bàn đến những
đặc điểm của văn hóa Việt Nam, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng
địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh ra những đặc điểm văn hóa ấy
trước khi xét đến những điều kiện lịch sử của dân tộc đã duy trì và củng cố
những đặc điểm văn hóa ấy” [70, tr. 86, 67].
* Xét về điều kiện địa lý
Theo các nhà nghiên cứu, nước ta nằm trên địa bàn cư trú của người
Bách Việt. Đây là khu vực kéo dài từ sông Dương Tử của Trung Quốc qua
vùng Bắc Trung Bộ của nước ta. Ở một phạm vi rộng hơn, có thể nói, văn hóa
Việt Nam được hình thành từ phía Nam sông Dương Tử, kéo dài cho đến
vùng đồng bằng sông Mêkông [Xem: 58, tr. 29 - 30]. Đây là khu vực với đặc
trưng địa lý: có sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, chênh
lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển cộng với điều kiện khí hậu
nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa đã tạo nên những cơ sở hết sức thuận lợi
cho việc phát sinh nghề trồng lúa nước từ rất sớm. Những điều kiện tự nhiên
đặc thù đó đã góp phần hình thành một nền văn hóa mang đậm ảnh hưởng của
nền văn minh lúa nước với những đặc trưng cơ bản thể hiện đậm nét trong
cách ứng xử với tự nhiên và trong nhận thức của con người.
22
Về cách ứng xử với môi trường tự nhiên. Trong điều kiện tự nhiên như
vậy, người dân trong khu vực này sống chủ yếu nhờ vào công việc trồng trọt,
chủ yếu là trồng lúa nước. Chính vì thế, người dân buộc phải sống định cư,
sản xuất theo mùa vụ, căn cứ vào điều kiện tự nhiên để có những loại cây
trồng thích hợp. Chỉ có sống định cư, người dân mới chờ đợi được hoa màu
sinh trưởng và phát triển cho thu hoạch nhằm phục vụ đời sống của mình.
Cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên này đã góp phần hình thành
một cách tự giác trong tâm thức của người dân ý thức tôn trọng tự nhiên, sống
hòa mình với thiên nhiên, không làm hại tự nhiên một cách quá đáng.
Trong nhận thức của người dân. Do lối sống và phương thức sản xuất
được hình thành trên cơ sở văn minh nông nghiệp lúa nước, phụ thuộc vào tự
nhiên đã tạo cho con người nơi đây một thứ tư duy tổng hợp giúp cho việc
nhận thức các yếu tố đơn lẻ trong tự nhiên và mối quan hệ qua lại giữa chúng
để phục vụ công việc lao động sản xuất (“Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,
cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”, v.v.). Nói cách khác, do tư duy của người
làm nông nghiệp bị phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nên đã hình thành trong
con người tư duy tổng hợp và biện chứng [58, tr.23].
Cũng chính dưới sự ảnh hưởng của môi trường nước cộng với lối tư
duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo, cân nhắc của người làm nông
nghiệp với nguyên tắc trọng tình, nên trong hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiễn, con người Việt Nam hình thành một khả năng ứng biến
với môi trường mềm mại, linh hoạt như nước, luôn biến báo, thay đổi cho
thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Điều này dẫn tới một lối sống, hay một
triết lý sống “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, tuy nhiên, đây không phải là một
thế ứng xử mang tính chất cơ hội. Sống trong một môi trường luôn biến động,
thay đổi thường xuyên, con người ta phải có khả năng thích nghi nếu không
sẽ bị đào thải. Điều quan trọng là thích nghi như thế nào để bảo vệ được cái
23
bản sắc của mình, không tự đánh mất mình trước những biến động của môi
trường bên ngoài. Chính vì vậy, trong nhận thức của người Việt Nam, biến
đổi để thích nghi với môi trường cũng có nghĩa là biết “gạn đục khơi trong”
chứ không phải mang ý nghĩa “gió chiều nào che chiều ấy” một cách thụ
động.
Bên cạnh đó, người Việt kéo xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ
trong khi vùng đồng bằng này về cơ bản chưa hình thành xong. Tràn xuống
đồng bằng với kỹ thuật sản xuất thấp kém, với những thói quen, tập quán của
cư dân vùng cao, cha ông ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh sinh tử, dai dẳng
và quyết liệt với thiên nhiên, từng bước quai đê lấn biển, đắp đập ngăn sông
để giành từng tấc đất về tay mình nhằm kéo đồng bằng Bắc Bộ từ dưới biển
lên. Với một điều kiện khắc nghiệt như vậy, để tồn tại và phát triển người
Việt phải biết đoàn kết lại với nhau, và thực sự nếu không tạo nên được
những cộng đồng đoàn kết, thống nhất, mọi người khi khó khăn hoạn nạn đều
có nhau thì người Việt không thể tồn tại được. Điều này góp phần quan trọng
tạo nên trong con người Việt Nam tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, lối
sống ưa tình nghĩa, trọng tình làng nghĩa xóm - lối sống tạo thành nền tảng
của văn hóa truyền thống Việt Nam, văn hóa làng xã, một thứ văn hóa mà
như tác giả Trần Quốc Vượng nhận định: “văn hóa Việt Nam cổ truyền, về
bản chất là một nền văn hóa xóm làng (culturevillageoise). Là sức mạnh
(grandeur) vừa là điểm yếu (faiblesses) của truyền thống Việt Nam cũng là ở
đó” [70, tr.71]. Chính vì thế, trong tổ chức cộng đồng của người Việt, con
người trong xã hội sống với nhau dựa trên cơ sở tình nghĩa làm đầu “một bồ
cái lý không bằng một tí cái tình”, trọng tình nghĩa đến mức duy tình. Lối
sống trọng tình cảm và cách cư xử của người dân trong sinh hoạt đã tạo nên
tâm lý coi trọng cộng đồng, coi trọng tập thể, bởi vì người làm nông nghiệp
làm gì cũng phải tính đến tập thể, đến cộng đồng của mình. Do vậy, tổ chức
24
cộng đồng của người Việt lấy tổ chức làng xã với quan hệ họ hàng thân thích
trên cơ sở tình nghĩa và tình đoàn kết cộng đồng làm nền tảng. Mối quan hệ
giữa con người với con người trong xã hội chủ yếu dựa trên tình cảm này đã
buộc mỗi người trong cộng đồng đều phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau.
* Xét về điều kiện xã hội.
Việt Nam nằm ở ngã ba đường, nơi giao lưu của các nền văn hóa lớn
như Trung Hoa, Ấn Độ, điều này đã tạo ra nhiều cơ hội cho sự giao lưu, tiếp
biến của văn hóa bản địa với các nền văn hóa khác nhau. Điều kiện địa lý, khí
hậu cùng với lối sống của cư dân nông nghiệp đã hình thành nên một thứ tư
duy tổng hợp, linh hoạt và biện chứng tuy còn thô sơ, mộc mạc trong con
người Việt Nam. Lối tư duy này đã giúp cho dân tộc Việt Nam chủ động tiếp
nhận các loại hình tư tưởng, văn hóa khác nhau để ứng phó với sự thâm nhập,
ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình giao lưu văn hóa với các nền văn hóa lớn
trong khu vực nhằm làm giàu văn hóa của bản thân mình, đồng thời bảo vệ
các giá trị văn hóa truyền thống trước sự đồng hóa mạnh mẽ của các nền văn
hóa ngoại lai. Bên cạnh đó, với sự cố kết cộng đồng mạnh mẽ, với một truyền
thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau được hình thành trong quá trình
khai phá tự nhiên, mở rộng bờ cõi đã tạo nên một tinh thần yêu nước, một ý
thức tự lực, tự cường sâu sắc trong mỗi con người Việt Nam. Chính vì vậy,
đứng trước nguy cơ bị xâm lược, bị đồng hóa về văn hóa từ các dân tộc khác,
trong mỗi con người Việt Nam cũng như trong nền văn hóa Việt Nam xuất
hiện những cách thức ứng phó hiệu quả để một mặt, tránh được sự đồng hóa
một cách cưỡng bức đó, và mặt khác, lợi dụng cơ hội đó để tiếp thu, lĩnh hội,
thậm chí bản địa hóa những giá trị văn hóa tích cực từ bên ngoài nhằm làm
giàu chính kho tàng văn hóa của mình. Điều này được thể hiện một cách rõ
nét trong các sự kiện như: sự bản địa hóa (phù hợp với tư tưởng và cách sinh
25
hoạt của người dân Việt Nam) của tín ngưỡng dân gian đối với các loại tín
ngưỡng tôn giáo bên ngoài như Phật, Đạo, Nho; sự hỗn dung giữa các tôn
giáo với nhau, trong đó chủ yếu nhất là Nho, Phật, Đạo ở Việt Nam ; sự đối
phó mềm dẻo, hòa hiếu trong đường lối ngoại giao, trong các cuộc chiến tranh
chống quân xâm lược bảo vệ Tổ quốc, v.v Và những điều này là cơ sở xã hội
trực tiếp góp phần hình thành nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa Việt
Nam nói chung, của tính nhân văn độc đáo của văn hóa Việt Nam nói riêng.
Hình thành trong những điều kiện địa lý và xã hội như đã nói ở trên,
đồng thời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh lúa nước, tính nhân văn của
văn hóa Việt Nam cũng mang đậm tính chất nông nghiệp lúa nước, tức là
mang trong mình tính chất “nước” rõ rệt. Nếu như ở trên chúng ta quan niệm,
tính nhân văn của văn hóa là tổng hòa của sự khoan dung, lòng nhân ái của cá
nhân cũng như của cộng đồng trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục, bồi dưỡng nhân tính
cho các cá nhân nhằm hướng tới xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định mang
đậm tính chất người, thì trong văn hóa Việt Nam, tính nhân văn thể hiện rõ
nét trên một số khía cạnh như: sự khoa dung, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng
đồng, tinh thần yêu nước, sự bình đẳng, dân chủ trong cộng đồng, tôn trọng cá
nhân, v.v
1.2.1. Sự khoan dung
Khoan dung là một khái niệm rất rộng bao trùm mọi lĩnh vực từ đời
sống kinh tế - xã hội cho đến văn hóa. Khoan dung có thể được hiểu là sự
thừa nhận sự khác nhau giữa các cá nhân, các cộng đồng, là sự tôn trọng sự đa
dạng của văn hóa, của thế giới con người. Khoan dung còn có thể được hiểu
là sự cởi mở, sự học hỏi lẫn nhau, là sự đối thoại, sự giao lưu lẫn nhau của các
cá nhân, các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Đó còn được hiểu là sự