ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******
NGUYỄN THỊ THỦY
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ
VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 602280
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Chí Bảo
Hà Nội - 2009
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI
1.1 - Vấn đề con ngƣời trong hệ thống Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.1.1 - Vị trí và vai trò của vấn đề con ngƣời trong hệ thống Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.1.2 - Nguồn gốc Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.2 - Nội dung Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.2.1 - Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.2.2 - Quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng con ngƣời
1.2.3 - Quan niệm của Hồ Chí Minh về ngƣời cách mạng
1.2. 4 - Quan niệm của Hồ Chí Minh về chiến lƣợc xây dựng con ngƣời mới xã
hội chủ nghĩa
Chƣơng 2: XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1 - Vai trò của con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới
và phát triển ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 - Đổi mới và những vấn đề đặt ra về chất lƣợng con ngƣời
2.1.2 - Con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa - mục tiêu, động lực của công cuộc
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2 - Những định hƣớng và những giải pháp chủ yếu vận dụng Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về con ngƣời vào việc xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 - Những định hƣớng cơ bản
2.2.2 - Những giải pháp chủ yếu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
8
8
8
13
23
23
29
38
47
59
59
59
69
73
73
75
95
97
2
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam ở thế
kỷ XX. Tƣ tƣởng của Ngƣời là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tƣ tƣởng
Việt Nam. Ngƣời để lại những dấu ấn đặc biệt sâu đậm trong tiến trình phát
triển của cách mạng Việt Nam. Đối với thế giới, đặc biệt là cách mạng giải
phóng dân tộc, cống hiến của Ngƣời đã đi vào lịch sử, đƣợc thế giới thừa
nhận và tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh thống nhất hữu cơ và kết hợp nhuần nhuyễn
“giữa phƣơng pháp và phong cách với đạo đức, lối sống và nhân cách của
Ngƣời“[7; tr.29]. Cuộc đời, sự nghiệp, tƣ tƣởng và nhân cách của Ngƣời là
một mẫu mực hiếm có đã để lại tấm gƣơng sáng cho nhiều thế hệ cách mạng
ở nƣớc ta, đồng thời đã có tác động và ảnh hƣởng to lớn không chỉ đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn đối với cách mạng thế giới.
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng lấy
Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Việc nghiên cứu
làm sáng tỏ hơn nữa tính khoa học, tính cách mạng sâu sắc và những giá trị to
lớn của Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng trƣớc đây cũng nhƣ trong
giai đoạn hiện nay là đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Trong hệ thống Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng con ngƣời và giải
phóng con ngƣời chiếm một vị trí quan trọng nổi bật, thể hiện sâu sắc bản
chất khoa học, cách mạng và nhân văn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là
sự tiếp nối và nâng cao những giá trị tinh tuý nhất tƣ tƣởng nhân văn của
truyền thống Văn hoá Việt Nam; kế thừa và phát triển sáng tạo tƣ tƣởng con
ngƣời của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, của
kinh tế tri thức cũng nhƣ xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang
3
tác động rất lớn đến chiến lƣợc phát triển của hầu hết các quốc gia. Con ngƣời có
vai trò là nguồn lực nội sinh quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của
mỗi nƣớc. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc nhằm xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, việc khai thác, sử dụng
và phát triển con ngƣời với tính cách là mục tiêu và động lực của phát triển đƣợc
Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt coi trọng. Do đó, việc nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về con ngƣời không chỉ nhằm làm rõ những giá trị của di sản tƣ tƣởng quý
báu mà còn góp phần vào việc tìm ra biện pháp, giải pháp đúng đắn trong việc
xây dựng, phát triển và hoàn thiện con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa. Đó là vấn đề
cấp thiết hiện nay trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn.
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài
Với tƣ cách là nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng,
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung, tƣ tƣởng về con ngƣời nói riêng đã đƣợc
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nƣớc nghiên cứu. Đặc biệt là sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991), lần đầu tiên ở nƣớc ta đã có một chƣơng
trình khoa học cấp Nhà nƣớc (mã số KX.02) nghiên cứu Tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh. Nhiều cuộc hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và tƣ tƣởng của
Ngƣời đã đƣợc tổ chức ở các cấp độ quốc gia và quốc tế.
Có thể nói, vấn đề con ngƣời đã có một lịch sử phát triển liên tục trong
lịch sử tƣ tƣởng Triết học. Triết học Mác - Lênin đã giải thích con ngƣời trên
cơ sở khoa học. Trƣớc sự phát triển của lịch sử, vấn đề con ngƣời cũng có
bƣớc phát triển mới. Từ những năm 80 của thế kỷ XX ở Liên xô và các nƣớc
xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có những đổi mới nhận thức về con ngƣời thể
hiện trong công trình: "Con nguời - những ý kiến mới về một đề tài cũ", gồm 2
tập, Nxb Sự thật, 1987, do tập thể tác giả Liên xô và Cộng hòa Dân chủ Đức
(cũ) biên soạn. Ở nƣớc ta, Viện Triết học cũng đã có công trình: "Về vấn đề
xây dựng con người mới" do Giáo sƣ Phạm Nhƣ Cƣơng chủ biên, Nxb Khoa
học xã hội, 1978. Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng các hƣớng
nghiên cứu mới về con ngƣời đã toàn diện và sâu sắc hơn. Có nhiều công
4
trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ: Giáo sƣ Vũ Khiêu: “Trồng cây và trồng
người”, Tạp chí Triết học, số 4/1990; Lê Văn Dƣơng: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, 3/1995; Nguyễn Tuấn Dũng:
“Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong cách mạng Việt Nam”, Tạp chí
Xây dựng Đảng 5/2000; Thành Duy: “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”, Nxb Chính trị quốc gia
(năm 2001); Mạch Quang Thắng: “Một số vấn đề Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/2004; Phạm Bá Lƣợng: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về lấy dân làm gốc”, Tạp chí Triết học số 2/2005
Trong các công trình trên, các tác giả đã tập trung phân tích Tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nƣớc. Các tác giả đã kiến giải về
vai trò của quần chúng nhân dân là lực lƣợng cách mạng đồng thời là động
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Vấn đề xây dựng con ngƣời, phát huy nhân tố con ngƣời và phát triển
con ngƣời toàn diện trong Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
bàn đến. Trong đó có các bài: Giáo sƣ Nguyễn Trọng Chuẩn: “Nguồn nhân
lực trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí triết học, 4/1990;
Nguyễn Hữu Công: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện”, Luận án tiến sỹ Triết học (năm 2001); Lê Quang Hoan: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học
(năm 2001); Nguyễn Huy Quý: “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội trước hết
cần có con người xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, 1/2002;
Nguyễn Văn Tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố
con người”, Tạp chí Triết học, số 2/2004
Các tác giả của các công trình nêu trên đã tập trung nghiên cứu Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và vai trò của trí tuệ con
ngƣời đối với công cuộc đổi mới, và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
5
đất nƣớc. Một số công trình đã nêu bật tầm quan trọng của việc xây dựng con
ngƣời xã hội chủ nghĩa, con ngƣời toàn diện trong công cuộc đổi mới và sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta hiện nay.
Nghiên cứu Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời và vận dụng vào giải
quyết các vấn đề chính trị xã hội vì mục tiêu phát triển con ngƣời, Giáo sƣ,
Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo cũng đã có những công trình tiêu biểu nhƣ:
- Bước đầu tìm hiểu những luận đề triết học - xã hội về dân chủ và dân
chủ hoá ở nước ta, Tạp chí Triết học, 4/1990.
- Xác định quan niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Báo chí và
tuyên truyền, 3/1995.
- Hồ Chí Minh, biểu tượng văn hoá làm người, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, 5/1995.
- Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề triết học về con người và xã hội,
Tạp chí Lịch sử Đảng, 10/1998.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người trong sách “Hồ Chí Minh -
anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới”, Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
- Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb lý luận Chính trị, 2005.
- Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, 2006.
- Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2007.
Trong các công trình nêu trên Giáo sƣ, Tiến sĩ Hoàng Chí Bảo đã nghiên
cứu một số nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời nhƣ: sự thống nhất về
giáo dục và tự giáo dục, quan hệ giữa đạo đức và năng lực, vai trò của nêu
gƣơng đạo đức, vai trò và ý nghĩa của văn hóa, giáo dục đối với việc hình thành
nhân cách thế trẻ Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa… Tuy nhiên, việc
nghiên cứu, vận dụng Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào xây dựng con ngƣời mới xã
6
hội chủ nghĩa thì còn ít các công trình đề cập tới một cách trực tiếp và hệ thống.
Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu luận văn.
3 - Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Luận văn nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con
ngƣời và sự vận dụng vào việc xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nội dung rộng lớn, bao quát nhiều vấn đề,
lĩnh vực. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một nội dung nổi bật thể
hiện sâu sắc tính khoa học, cách mạng và nhân văn Hồ Chí Minh đó là tƣ
tƣởng về con ngƣời.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời có ý nghĩa rất lớn đối với thực tiễn
cách mạng Việt Nam trƣớc đây và giai đoạn hiện nay. Trong giới hạn của đề
tài, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu sự vận dụng tƣ tƣởng đó vào việc xây dựng
con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4 - Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở phân tích, khái quát nội dung cơ bản Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về con ngƣời, luận văn nêu rõ định hƣớng và giải pháp vận dụng tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về con ngƣời vào việc xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận của Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời.
- Nêu lên những nội dung cơ bản Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời.
7
- Vận dụng Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời vào việc xây dựng con
ngƣời mới xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
5 - Phƣơng pháp
Luận văn vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nƣớc về con
ngƣời. Đồng thời luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học đi trƣớc có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn.
Cơ sở phƣơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin. Tác giả luận văn còn
sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành Triết học nhƣ: phƣơng
pháp phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, phân tích, so sánh…
6 - Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá những nội dung cơ bản của Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về con ngƣời .
- Luận chứng sự cần thiết, tầm quan trọng và những giải pháp để vận
dụng Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời vào việc xây dựng con ngƣời mới
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7 - Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời và các lĩnh
vực khác có liên quan.
8 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chƣơng, 4 tiết.
8
Chƣơng 1
NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƢỜI
1.1 - Vấn đề con ngƣời trong hệ thống Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.1.1 - Vị trí và vai trò của vấn đề con người trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không bao giờ tự nhận mình là một nhà triết học và
Ngƣời cũng không có một tác phẩm nào bàn riêng về con ngƣời, nhƣng trong
hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng về con ngƣời là một tƣ tƣởng xuyên
suốt, thâm nhập toàn bộ hệ thống, đƣợc biểu hiện thật đa dạng và phong phú.
Vấn đề con ngƣời và giải phóng con ngƣời luôn luôn đƣợc nhắc đến nhƣ một
mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Ngƣời theo đuổi.
Nó thấm đƣợm trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Ngƣời, đƣợc tỏa sáng
trong từng việc làm, cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đến mỗi con ngƣời.
Vấn đề con ngƣời có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh ta nhận thấy tƣ tƣởng và
triết lý của Ngƣời, coi con ngƣời là trung tâm của quá trình phát triển.
Từ trƣớc đến nay, vấn đề con ngƣời thƣờng thu hút nhiều sự bàn luận,
nhiều kiến giải. Những sự bàn luận, kiến giải ấy thƣờng xoay quanh chủ đề:
cốt cách, bản chất của con ngƣời là gì? Con ngƣời có vị trí và vai trò nhƣ thế
nào trong quá trình sinh tồn và phát triển?
Những kiến giải đó xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau trong
nghiên cứu về con ngƣời, thể hiện quan điểm triết học, tâm lý học, sinh học, xã
hội học, chính trị học, kinh tế học, văn hóa học … Trong đó, có quan điểm coi
con ngƣời sinh thành và phát triển từ sự chi phối, quyết định có sẵn bởi một lực
lƣợng nằm bên ngoài thế giới thực tại. Có quan điểm tuyệt đối hóa đặc trƣng
sinh vật để xem xét bản chất con ngƣời. Có quan điểm nhấn mạnh về “con ngƣời
kỹ thuật”, lấy tiêu chí phát triển từ công cụ sản xuất để xét đoán bản chất con
ngƣời. …
9
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét con ngƣời là sinh vật có
tính xã hội - bản chất của con ngƣời không phải là cái trừu tƣợng cô lập ở
từng cá nhân; trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa tất
cả các quan hệ xã hội. Con ngƣời sinh thành, trƣởng thành vừa từ những đặc
điểm sinh học, chịu sự tác động của các quy luật tự nhiên, vừa chịu ảnh
hƣởng quyết định của sự tƣơng tác các quan hệ xã hội. Đó là, trong quá trình
lao động sản xuất con ngƣời hình thành và phát triển tình cảm đạo đức và
những xúc cảm thẩm mỹ. Do đó, con ngƣời đối xử có tính ngƣời đối với tự
nhiên, đối với những ngƣời khác và đối với bản thân mình. Triết học Mácxít
coi con ngƣời vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển. Mục
tiêu của quá trình phát triển xã hội là hƣớng vào việc đáp ứng nhằm thỏa mãn
các nhu cầu của con ngƣời xã hội nói chung, mỗi con ngƣời cá thể nói riêng.
Đồng thời, quá trình phát triển đó đạt tới sự tăng trƣởng và phát triển bền
vững lại do sức mạnh của chính con ngƣời, của tập thể những con ngƣời đó
trong đời sống cộng đồng. Mỗi con ngƣời không thụ động hƣởng sự phát triển
mà là chủ thể và động lực của quá trình phát triển.
Lý tƣởng của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con ngƣời, nhằm đáp ứng
một cách hài hòa các nhu cầu của con ngƣời về đời sống vật chất, đời sống
tinh thần, nâng cao chất lƣợng tổng thể của đời sống, đồng thời thƣờng xuyên
giáo dục cho mỗi con ngƣời có đủ năng lực phẩm chất sáng tạo trong quá
trình phát triển xã hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong cuộc đời mình, đã có những chỉ dẫn sâu sắc và những việc
làm thiết thực về con ngƣời. Đây là một di sản vô giá mà Ngƣời để lại cho đất
nƣớc và dân tộc. Sinh thời, những lời dạy của Ngƣời đã chỉ ra cho dân tộc ta
một đƣờng lối đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng con ngƣời, đem lại
độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho con ngƣời.
Hồ Chí Minh có một lý tƣởng và hoài bão mà Ngƣời gọi là sự ham
muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho Tổ quốc đƣợc hoàn toàn độc lập,
10
dân tộc đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào mình ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng đƣợc học hành. Ngay từ khi ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc và trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ngƣời luôn coi trọng và đặt công việc
đầu tiên là công việc với con ngƣời. Ngƣời từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”.
“Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho
ích quốc lợi dân” [36; tr.240]
Đây cũng là tƣ tƣởng lớn, nhất quán trong suốt cuộc đời của Hồ Chí
Minh. Ngƣời đã khắc họa sâu sắc vấn đề con ngƣời trong nội dung bản Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hoà Việt Nam: chế độ mới đảm
bảo cho ngƣời dân Việt Nam quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung
sƣớng, quyền tự do.
Thể hiện sự quan tâm và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trong thƣ
gửi các đồng chí cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy chính quyền mới
(10 - 1945), Ngƣời nhấn mạnh: “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Nhƣng nếu độc lập mà dân không hƣởng hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng
sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc …Việc gì lợi cho dân phải hết sức
làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh” [36; tr.56 - 57]
Sau ngày tuyên bố độc lập, cùng với nhiệm vụ củng cố chính quyền
cách mạng, xây dựng chính quyền nhân dân, Hồ Chí Minh chú trọng thực
hiện những việc cần làm ngay là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, xây dựng đời
sống mới. Trƣớc mắt, phải xoá đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho
ngƣời nghèo thì đủ ăn, ngƣời đủ ăn thì khá giàu và ngƣời khá giàu thì giàu
thêm"[37; tr.65]. Kinh tế có phát triển đời sống đồng bào có ấm no thì đất
nƣớc mới cƣờng thịnh.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trƣớc sau nhƣ một, là chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải
phóng con ngƣời một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện đƣợc đầy đủ
11
các quyền của con ngƣời, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mƣu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi ngƣời.
Khi tình thế cách mạng khó khăn, lâm nguy, bị bao vây bốn phía, đe
dọa nền độc lập của Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện sách lƣợc hòa
hoãn với Pháp cũng nhằm tranh thủ thời gian củng cố lực lƣợng, kiến thiết đất
nƣớc. Ngày 30 - 5 - 1946, trƣớc khi sang Pháp với tƣ cách là thƣợng khách
của Chính phủ Pháp, Hồ Chí Minh đã nói chuyện với đồng bào Thủ đô,
Ngƣời khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền
lợi tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”. [36;
tr.240]
Trong cuộc kháng chiến trƣờng kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp của
cả dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì mục tiêu đã vạch ra, Ngƣời xác định
nhiệm vụ nội chính của Chính phủ kháng chiến trong thƣ gửi đồng bào và
kháng chiến Nam Bộ ngày 24/1/1947:
“Sau hết chƣơng trình nội chính của Chính phủ và của quân dân ta chỉ
có ba điều mà thôi:
a - Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc đủ ăn.
b - Mở mang giáo dục để cho ai nấy đều biết đọc biết viết.
c - Thực hành dân chủ để làm cho dân ta ai cũng đƣợc hƣởng quyền
dân chủ tự do”. [36; tr.30]
Vào cuối đời, trƣớc khi đi xa, trong Di chúc để lại, Ngƣời nhấn mạnh:
“Đầu tiên là công việc đối với con ngƣời”.
Ngƣời dặn dò chu đáo nhƣ sau: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi
cũng nhƣ miền núi đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị các chế độ phong kiến
và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy nhân
dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta
luôn luôn đi theo Đảng.
12
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. [44; tr.511]
Ngƣời nhắc nhở Đảng và Chính phủ, mọi ngƣời phải tìm mọi cách giúp
đỡ cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong, những ngƣời đã
dũng cảm hy sinh xƣơng máu để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, mở những lớp
dạy nghề thích hợp để họ dần dần tự lực cánh sinh. Cũng ở trong Di chúc,
Ngƣời căn dặn phải làm nhiều hơn trong cuộc cách mạng đem quyền bình
đẳng cho phụ nữ, miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân, phát triển
công tác vệ sinh, y tế, sửa đổi chế độ giáo dục sao cho hợp với hoàn cảnh của
nhân dân, có kế hoạch đào tạo tiếp các chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lƣợng vũ
trang nhân dân và thanh niên xung phong thành những cán bộ và công nhân
có kỹ thuật giỏi, tƣ tƣởng tốt, lập trƣờng cách mạng vững chắc, trở thành
những ngƣời xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Nhƣ vậy, suốt đời Hồ Chí Minh đã làm việc, đã đấu tranh vì hạnh phúc
của nhân dân, của con ngƣời. Trong khi đặt niềm tin vào con ngƣời, Hồ Chí
Minh cũng tìm mọi cách phát huy mọi tiềm năng trí tuệ và phẩm chất đạo đức
của con ngƣời. Đó là hai mặt hợp thành nhân cách, tính cách ở một con ngƣời,
có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chính hai mặt đó đã đặt con ngƣời vừa ở vị
trí mục tiêu của sự nghiệp cách mạng vừa ở vị trí chủ thể của cách mạng. Cho
nên, nói đến tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề con ngƣời, cần phải thấy con
ngƣời ở đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Coi con ngƣời là
mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa, của mọi chƣơng trình kiến thiết của chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh xác định, mọi công việc đều liên quan đến con
ngƣời, hƣớng vào phục vụ con ngƣời, làm cho con ngƣời đƣợc phát triển mọi
năng lực sẵn có, con ngƣời làm chủ, có tự do và hạnh phúc. Đồng thời, coi
con ngƣời là động lực của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt niềm
tin vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của con ngƣời.
13
1.1.2 - Nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
* Nhân tố khách quan:
Tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về con ngƣời có ý nghĩa quan trọng để hiểu bản chất tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh trong mối quan hệ với những tinh hoa giá trị của dân tộc và nhân loại.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: mọi học thuyết tƣ tƣởng
ra đời, một mặt là sự kế thừa những tƣ tƣởng, học thuyết trƣớc đó, mặt khác
là sự phản ánh quy luật vận động của hiện thực, đồng thời là kết quả hoạt
động nhận thức, sáng tạo của một con ngƣời gắn với phẩm chất, nhân cách cá
nhân, phản ánh ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc trong một
thời đại nhất định. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời là kết quả của sự tích
hợp truyền thống văn hóa Việt Nam với những giá trị tƣ tƣởng về con ngƣời
của triết học phƣơng Đông, phƣơng Tây đặc biệt là triết học Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đề cao truyền thống yêu nƣớc, yêu độc lập tự do, coi đó là
giá trị cao nhất của con ngƣời. Yêu nƣớc là một truyền thống quý báu, đƣợc
hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất, tự lực, tự cƣờng,
thông minh, sáng tạo, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập của dân tộc và bảo
tồn nền văn hiến của đất nƣớc, chống mọi âm mƣu đồng hóa của ngoại bang.
Tinh thần yêu nƣớc đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một
nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con ngƣời Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xƣa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lƣớt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nƣớc
và cƣớp nƣớc … Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang
thời đại Bà Trƣng, Bà Triệu, Trần Hƣng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung … Chúng
ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu
của một dân tộc anh hùng.
Có thể nói chủ nghĩa yêu nƣớc là sợi chỉ đỏ xuyêt suốt các giá trị
truyền thống, là cội nguồn đời sống tinh thần của ngƣời Việt Nam. Nó thể
14
hiện ý thức về chủ quyền đất nƣớc, khẳng định cái chung về nòi giống, kinh
tế, tiếng nói, lãnh thổ, văn hóa, phong tục tập quán, đặt lợi ích dân tộc lên cao
nhất, coi dân tộc, nhân dân, quốc gia làm trọng. Truyền thống ấy đƣợc Hồ Chí
Minh nâng lên một tầm cao mới, yêu nƣớc là “Thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nƣớc, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”.
Trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, nhân dân ta luôn đề cao vai trò
của con ngƣời. Nhấn mạnh vai trò chủ thể của con ngƣời, vai trò sức mạnh của
con ngƣời, trong các kế sách dựng nƣớc và giữ nƣớc, tƣ tƣởng phải tin vào dân,
dựa vào sức dân đã đƣợc Trần Quốc Tuấn thể hiện ở việc “phải khoan thƣ sức
dân, để làm kế sâu rễ, bền gốc”, hay Nguyễn Trãi cho rằng “sức dân mạnh nhƣ
nƣớc, chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Đó là tƣ tƣởng trọng dân,
tin dân, dựa vào dân, coi dân là gốc của nƣớc. Giá trị truyền thống đặc sắc đó
của dân tộc ta sau này đƣợc Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và nâng lên một
tầm cao mới: “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Những giá trị đạo đức nhân sinh, đạo đức làm ngƣời của dân tộc ta
đƣợc hình thành từ rất sớm. Đó là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức trong lối sống, nếp sống, giao tiếp của ngƣời Việt Nam, đƣợc
biểu hiện chủ yếu ở nền văn hóa dân gian, hành vi đạo đức. Nội dung đạo làm
ngƣời rất phong phú: đạo thờ cúng tổ tiên, thờ ngƣời có công với nƣớc, “uống
nước nhớ nguồn”, nhân ái, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, tiết kiệm, cần cù,
hiếu học, thủy chung, tình nghĩa giữa vợ chồng, anh em, bạn bè, hiếu thảo với
cha mẹ; trung thực, mƣu trí, dũng cảm. Tất cả những giá trị truyền thống đó
đã đƣợc tiếp thu và phát huy trong tƣ tƣởng Hồ chí Minh về con ngƣời. Ngƣời
coi trọng việc nêu những tấm gƣơng lịch sử, những gƣơng ngƣời tốt, việc tốt
trong cuộc sống đời thƣờng. Đặc biệt, Ngƣời quan tâm đến việc thực hành
đạo đức, nêu gƣơng không chỉ để giáo dục nhân dân mà còn đối với cả bản
thân.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức truyền
thống theo yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Ngƣời là một nhân cách tiêu
biểu, một tấm gƣơng mẫu mực về ý chí cách mạng kiên cƣờng, tinh thần độc
15
lập tự chủ, lòng nhân ái, đạo đức chí công vô tƣ, tác phong khiêm tốn, giản dị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Ngƣời đã đào tạo, dìu dắt nhiều thế hệ
lớp ngƣời tận trung với nƣớc, tận hiếu với dân, có đạo đức cách mạng, có lý
tƣởng cộng sản… là hình mẫu con ngƣời xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh truyền thống văn hóa Việt Nam, truyền thống quê hƣơng, xứ
sở, gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh nói chung và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời nói riêng.
Mảnh đất Nghệ Tĩnh - nơi sản sinh ra nhiều phong trào yêu nƣớc,
phong trào cách mạng chống xâm lƣợc, chống phong kiến nhƣ khởi nghĩa
Hƣơng Khê, nổi dậy của binh lính Đô Lƣơng, công nhân Bến Thủy, khởi
nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh. Quê nghèo nuôi những anh hùng hào kiệt, danh
nhân, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” đời này qua đời khác, Nghệ Tĩnh cũng là
quê hƣơng của nhiều nhà cách mạng tài ba, nhiều anh hùng và nhiều nhà văn
hóa lớn nhƣ Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…
Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nƣớc gần
gũi với nhân dân, một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Cha, anh, chị
đều là những ngƣời yêu nƣớc, tham gia các phong trào chống Pháp và đã bị tù
đầy, giam cầm. Cha của Nguyễn Tất Thành là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc,
một nhà Nho cấp tiến có tinh thần yêu nƣớc, thƣơng dân. Năm 1901, sau kỳ
thi Hội, đậu Phó bảng, năm 1906, cụ vào Huế nhận chức tri huyện Bình Khê.
Nhận chức chƣa đƣợc bao lâu, vốn có tƣ tƣởng, vì yêu nƣớc, thƣơng dân, luôn
lên tiếng bênh vực ngƣời dân thấp hèn nên cụ bị cách chức. Sau đó, cụ vào
Nam làm nghề bốc thuốc, chữa bệnh cho dân. Trong thời gian làm quan, cụ
luôn mang nặng một tâm tƣ “Quan trƣờng thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô
lệ” (làm quan là nô lệ, trong đám nô lệ lại càng nô lệ hơn). Khi sinh thời, cụ
Nguyễn Sinh Sắc cũng đã nhiều lần đƣa Nguyễn Tất Thành đi thăm các di
tích lịch sử của các phong trào yêu nƣớc, nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa
chống giặc ngoại xâm của các bậc tiền bối vừa đau thƣơng vừa hào hùng.
Hơn ai hết, lòng yêu nƣớc, thƣơng dân và tƣ tƣởng của cha đã ảnh hƣởng đến
Nguyễn Tất Thành nhiều hơn.
16
Hai ngƣời phụ nữ gần gũi và thân thiết nhất đã có ảnh hƣởng rất lớn đối
với Nguyễn Tất Thành đó là mẹ và chị gái. Mẹ của Nguyễn Tất Thành, bà
Hoàng Thị Loan sinh ra trong một gia đình Nho học, là một ngƣời có đầy đủ
những đức tính ƣu việt của ngƣời phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, đảm đang,
điềm đạm, có bản lĩnh, biết hy sinh cho chồng con. Chị của Nguyễn Tất
Thành là bà Nguyễn Thị Thanh có trình độ Hán học, hiểu biết rộng; bà tham
gia phong trào chống Pháp của Phan Bội Châu, Đội Quyên, Đội Cấn và từng
bị án tù khổ sai 9 năm. Hai ngƣời phụ nữ: mẹ và chị đã để lại trong lòng
Nguyễn Tất Thành những nỗi cảm thƣơng sâu sắc về thân phận ngƣời phụ nữ
nói chung ở những nƣớc bị xâm lƣợc và đã ảnh hƣởng rất lớn đến tƣ tƣởng
đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho ngƣời phụ nữ. Khi Nguyễn Sinh Cung mới
10 tuổi đã phải chứng kiến mẹ qua đời và để lại một đứa em nhỏ mới mấy
tháng tuổi đang khóc vì khát sữa. Trong căn nhà nhỏ sau cổng Đông Ba thuộc
khu thành nội Huế, Nguyễn Sinh Cung bồng bế nuôi nấng em Nguyễn Sinh
Xin và đón Xuân Tân Sửu trong nỗi đau buồn mất mẹ, vắng cha, vắng anh,
vắng chị. Những điều bất hạnh ấy của gia đình đã góp phần làm sâu đậm lòng
nhân ái của Ngƣời.
Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc, quê hƣơng, gia đình, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Đông (Nho
giáo, Lão giáo, Phật giáo), đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tƣ tƣởng dân
chủ, nhân văn của văn hóa Phục hƣng, của cách mạng tƣ sản phƣơng Tây.
Ngay từ thuở ấu thơ, Hồ Chí Minh đã đƣợc học chữ Hán với các nhà
Nho yêu nƣớc, tiếp thu triết lý và đạo đức Khổng - Mạnh qua các sách kinh
điển của Nho giáo. Đạo đức Nho giáo thấm vào tƣ tƣởng, tình cảm của Ngƣời
không phải những tƣ tƣởng “tam cƣơng”, “ngũ thƣờng” nhằm bảo vệ tôn ti
trật tự phong kiến mà là tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học
hỏi, đức khiêm tốn, “ôn hòa”, cách xử thế “có tình có lý”. Kế thừa tƣ tƣởng
thân dân, coi dân là gốc nƣớc, dân là quý của Nho giáo, sau này, trong tác
phẩm “Dân vận” (1949), Hồ Chí Minh viết: “Nƣớc ta là một nƣớc dân chủ:
bao nhiêu lợi ích là vì dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lƣợng đều ở nơi
dân” [37; tr.698]
17
Bên cạnh những nội dung tích cực nhất định, Nho giáo phản ánh tình
trạng xã hội phong kiến, phân biệt “quân tử” với “tiểu nhân”, coi thƣờng lao
động chân tay; đặc biệt coi khinh phụ nữ,… Trong khi tiếp thu, sử dụng
những yếu tố tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã phê phán, loại bỏ những
yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này. Ngƣời đã chỉ rõ: “Đạo đức cũ và
đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ nhƣ đầu ngƣợc xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới nhƣ ngƣời hai chân đứng vững đƣợc dƣới đất,
đầu ngửng lên trời” [38; tr.320 - 321]. Và chính Ngƣời đã đảo lại thế đứng đó
nhƣ Mác - Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, và đặt
lại phép biện chứng đó trên cái nền duy vật.
Đối với tƣ tƣởng triết học của Lão - Trang, Hồ Chí Minh đã kế thừa
học thuyết vô vi, nghĩa là con ngƣời sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần
phác, không giả tạo, không gò ép trái với bản tính tự nhiên của mình. Điều
này đƣợc Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ràng trong phong cách, nếp sống, xử
thế, đó là sự chân thành, nhã nhặn, thân ái, tự nhiên. Theo Lão Tử, sống phải
từ ái, cần, kiệm, khiêm tốn, khoan dung. Điều đó đƣợc Hồ Chí Minh tiếp thu
và thể hiện trong cuộc sống đời thƣờng của Ngƣời. Đó là cuộc sống thanh tao,
thanh đạm, tự tại, hòa đồng với tự nhiên. Ngƣời khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên
không ham muốn công danh phú quý chút nào… Riêng phần tôi thì làm một
cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nƣớc biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều
làm bạn với các cụ già, em nhỏ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh
lợi” [36; tr.161]
Ngoài Nho giáo, Lão giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu những mặt tích
cực của Phật giáo, đó là: từ bi, hỉ xả, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn, khuyên
con ngƣời tu nhân, tích đức, tránh cái ác, trau dồi cái thiện.
Nền văn minh phƣơng Tây nói chung và chủ nghĩa nhân văn phƣơng
Tây nói riêng có ảnh hƣởng tới Ngƣời ngay từ khi còn học ở trƣờng tiểu học
Pháp - Việt và trƣờng quốc học Huế. Nền văn minh phƣơng Tây với những tƣ
tƣởng về tự do, dân quyền, dân ƣớc, dân chủ, bác ái có sức hấp dẫn đặc biệt
với Ngƣời. Ngƣời nhớ lại: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên nghe tới ba chữ
18
Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái … và từ thƣở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền
văn minh Pháp, muốn tìm hiểu những gì ẩn sau những chữ ấy”[33; tr.477].
Trong gần 10 năm bôn ba, khảo sát ở các nƣớc tƣ bản lớn nhƣ Mỹ,
Anh, Pháp và thuộc địa của họ, Ngƣời đã tìm hiểu qua sách, báo, tài liệu, qua
tiếp xúc với các nhà chính trị - xã hội nổi tiếng, … và xem xét thực tế của dân
chúng, trực tiếp hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội ở các nƣớc đó,
rút ra những nhận xét, đánh giá, để tìm ra những gì là “tinh hoa” tốt đẹp cần
tiếp thu và những gì còn hạn chế cần khắc phục.
Thời gian dừng chân ở Mỹ khoảng cuối năm 1912 đến cuối 1913,
Nguyễn Ái Quốc đã ở Brúclin, đến thăm khu da đen Hacslem, đã chiêm
ngƣỡng tƣợng nữ thần tự do, … Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, trong đó đề cập đến “quyền bình đẳng”, “quyền
sống, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc” của con ngƣời, quyền của nhân
dân kiểm soát chính phủ… Ngƣời đã kế thừa tƣ tƣởng này, tôn trọng con
ngƣời, nâng niu các giá trị làm ngƣời, đề cao dân chủ. Ngƣời viết: “Hễ chính
phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ chính phủ ấy đi,
và gây nên chính phủ khác”. [34; tr.270]
Pari, thủ đô nƣớc Pháp - nơi Ngƣời sống dài ngày nhất, đã để lại cho
Ngƣời nhiều ấn tƣợng và bài học sâu sắc trên hành trình tìm đƣờng cứu nƣớc.
Chủ nghĩa nhân văn, tƣ tƣởng tự do - bình đẳng - bác ái trong các tác phẩm
của thời kỳ Phục hƣng, của thế kỷ Ánh sáng, của các nhà văn nổi tiếng nhƣ
Vônte, Điđrô, Môngtétxkiơ, J.J. Rútxô và những tƣ tƣởng mới mẻ của Đại
Cách mạng Tƣ sản Pháp năm 1789 đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc những
thu hoạch bổ ích. Những tƣ tƣởng của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền đã đƣợc Nguyễn Ái Quốc đi sâu nghiên cứu và phân tích rất thấu đáo.
Điều đó đã có ảnh hƣởng quan trọng tới sự hình thành tƣ tƣởng của Ngƣời sau
này, đặc biệt là tƣ tƣởng về tự do, dân chủ, về giải phóng con ngƣời khỏi mọi
áp bức và nô dịch.
Trong khi khẳng định những giá trị chân chính, những nhân tố tích cực,
tiến bộ của cách mạng dân chủ tƣ sản, nhất là tƣ tƣởng tự do - bình đẳng - bác
ái, tƣ tƣởng nhân văn, giải phóng con ngƣời khỏi thần quyền và thống trị của
19
những quan hệ Phong kiến, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời phê phán những
hạn chế của nó. Ngƣời xem những cuộc Cách mạng Tƣ sản là những cuộc
cách mạng không đến đến nơi, không triệt để, “trong thì nó tƣớc lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Chính vì không thỏa mãn với con đƣờng
cách mạng tƣ sản, Ngƣời đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tuy không để lại
những tác phẩm chuyên nghiên cứu về con ngƣời, nhƣng ba bộ phận hợp
thành chủ nghĩa Mác: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa
học đều xuất phát từ những vấn đề của con ngƣời và nhằm mục tiêu cuối cùng
là giải phóng con ngƣời. Tiếp thu có phê phán những tƣ tƣởng về con ngƣời
trong lịch sử Triết học, Mác - Ăngghen đã dần dần hoàn chỉnh những vấn đề
lý luận hết sức cơ bản, đặt cơ sở vững chắc cho một thế giới quan và phƣơng
pháp luận khoa học nghiên cứu vấn đề con ngƣời.
Học thuyết Mácxít về con ngƣời bao gồm nhiều nội dung, song, điểm
nổi bật nhất là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Mác - Ăngghen đã đƣa ra hai quan niệm có tính chất điều kiện cho sự
giải phóng con ngƣời trong “Hệ tƣ tƣởng Đức” (1845 - 1846).
Một là, khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Do đó, giải
phóng con ngƣời bắt đầu từ giải phóng các điều kiện của tồn tại xã hội, qua đó
giải phóng tinh thần, tƣ tƣởng con ngƣời. Các ông xuất phát từ những con
ngƣời đang hành động hiện thực và cũng chính là xuất phát từ quá trình đời
sống hiện thực của họ. [52; tr.277]
Hai là, Mác - Ăngghen đã phân tích mối quan hệ giữa phân công lao
động với chế độ sở hữu tƣ nhân tƣ liệu sản xuất, làm xuất hiện các mâu thuẫn
xã hội. Quá trình xuất hiện các hình thức sở hữu tƣ nhân khác tƣơng ứng với
sự phân công lao động và sự phát triển của nền sản xuất cho thấy mâu thuẫn
giữa sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và quan hệ xuất là nguyên nhân xét
đến cùng quyết định mâu thuẫn xã hội. Giải phóng con ngƣời trong xã hội tƣ
bản chính là giải phóng giai cấp công nhân. Tƣ tƣởng này đƣợc khẳng định
trong tác phẩm “Sự khốn cùng của Triết học” (1846 - 1847). Mác viết: “điều
kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xóa bỏ mọi giai cấp” [52; tr.410]
20
Chủ nghĩa xã hội khoa học về thực chất là một học thuyết về giải phóng
con ngƣời, là giải phóng giai cấp công nhân, thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân cách mạng. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ sự khác nhau giữa
chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lƣu xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ: nó
đặt lên hàng đầu việc xóa bỏ chế độ sở hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa và
phƣơng thức thực hiện nó là bằng bạo lực cách mạng. Cơ sở lý luận cho tƣ
tƣởng đó, theo Mác - Ăngghen chính là việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử và học thuyết giá trị thặng dƣ của Mác, nhờ đó chủ nghĩa xã hội từ
không tƣởng trở thành khoa học. Giải phóng con ngƣời trong xã hội hiện đại
đƣợc đặt trên cơ sở của sự giải phóng giai cấp. Việc giải phóng tất cả các giai
cấp trong xã hội hiện đại đƣợc quy vào giải phóng giai cấp vô sản, vì giai cấp
vô sản là biểu hiện tập trung những mâu thuẫn thời đại. Giai cấp vô sản chỉ có
thể đƣợc giải phóng khi nó giải phóng toàn thể nhân loại.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy trong đó những
chân lý của thời đại. Luận cƣơng của Lênin đã đem lại cho Ngƣời sự “giác
ngộ”, tìm ra lời giải đáp cho cách mạng Việt Nam. Vấn đề con ngƣời và giải
phóng con ngƣời phải đƣợc đặt trong mối quan hệ với giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, đó chỉ có thể là con đƣờng cách mạng vô sản. Trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo đất nƣớc, Hồ Chí Minh và những
ngƣời cộng sản chân chính ở Việt Nam đã tin tƣởng tuyệt đối vào vai trò của
quần chúng nhân dân, thƣờng xuyên giác ngộ, giáo dục và tổ chức quần
chúng nhân dân. Đó là nguồn sức mạnh vô cùng to lớn trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, một nƣớc phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu, bị chủ nghĩa thực dân xâm lƣợc và nô dịch từ cuối thế XIX.
Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết, nhân ái, có
nền văn hiến lâu đời. Từ khi thực dân Pháp xâm lƣợc, phong trào đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân của các tầng lớp nhân dân diễn ra liên tục, sôi nổi
nhƣng con đƣờng cứu nƣớc đang bế tắc, chƣa có lối ra.
Thời đại Ngƣời lớn lên và hoạt động cũng là thời đại chủ nghĩa đế quốc
thực dân bành trƣớng mạnh mẽ, tranh cƣớp thuộc địa, thị trƣờng, dẫn đến hai
21
cuộc chiến tranh thế giới, tàn sát hàng trăm triệu ngƣời. Mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản với giai cấp tƣ sản càng mở rộng; mâu thuẫn giữa các nƣớc và tập
đoàn đế quốc với nhau càng phát triển; mâu thuẫn giữa nhân dân bị áp bức ở
các nƣớc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc, thực dân ngày càng gay
gắt. Từ sau thắng lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga, đã xuất hiện mâu thuẫn
mới: mâu thuẫn giữa nƣớc xã hội chủ nghĩa đầu tiên với hệ thống tƣ bản chủ
nghĩa. Thế giới bƣớc vào thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản
lên chủ nghĩa xã hội, thời đại của cách mạng vô sản, của phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, sau khi phân tích cách mạng Mỹ,
cách mạng Pháp, cách mạng Nga, Ngƣời nhận thấy “chỉ có cách mạng Nga là
đã thành công, thành công đến nơi” và rút ra kết luận là phải học tập cách
mạng Nga: “Cách mệnh Nga đã dạy ta rằng muốn cách mệnh thành công thì
phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tƣ
và Lênin” [34; tr.280] (Chủ nghĩa Mã Khắc Tƣ là chủ nghĩa Mác).
* Nhân tố chủ quan:
Tƣ tƣởng bao giờ cũng là sản phẩm của con ngƣời, là mặt hoạt động
tinh thần, ý thức của con ngƣời, do con ngƣời sáng tạo trên cơ sở những nhân
tố khách quan. Do đó, tƣ tƣởng xem xét từ phƣơng diện chủ quan, phụ thuộc
vào các yếu tố của nhân cách, nhƣ tƣ chất, tính cách, bản lĩnh, phẩm chất tƣ
duy,… Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa tƣ tƣởng và tình cảm về con
ngƣời. Đó là hoài bão, lý tƣởng yêu nƣớc, thƣơng dân, xúc động trƣớc mọi
nỗi đau của đồng bào và nhân loại cần lao bị áp bức, bóc lột. Yêu thƣơng con
ngƣời gắn liền với ý chí đấu tranh giải phóng con ngƣời đã trở thành động cơ,
mục đích, thành khát vọng mãnh liệt của cả cuộc đời: “Tự do cho đồng bào
tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả
những điều tôi hiểu” [59; tr.34]
“Hồ Chí Minh là nhà tƣ tƣởng lớn với trí tuệ sâu sắc, uyên bác, với tƣ
duy độc lập sáng tạo mà những học giả tiêu biểu trên thế giới cũng phải ngạc
22
nhiên, đến kẻ thù cũng phải nể trọng. Trí tuệ ấy đƣợc kết hợp với vốn sống,
kinh nghiệm phong phú mà Ngƣời đã trực tiếp nếm trải trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng trên sáu thập kỷ” [7; tr.172 - 173]. Trong 30 năm hoạt
động ở nƣớc ngoài, Ngƣời đã đi nhiều nơi, đến nhiều nơi, phải hoạt động
trong điều kiện bí mật hết sức khó khăn, gian khổ và nguy hiểm. Ngƣời đã
phải làm nhiều nghề: phụ bếp, chạy bàn, xúc tuyết, làm ảnh, viết báo… để
kiếm sống. Ngƣời đắm mình trong lao động và tranh đấu, vừa làm vừa học,
bằng con đƣờng tự học mà thâu thái những tinh hoa văn hóa cổ, kim, Đông,
Tây. Chính thực tiễn phong phú, sinh động đó đã đem lại cho Ngƣời vốn
sống, vốn hiểu biết về con ngƣời hết sức sâu sắc. Ngƣời luôn quan tâm, gần
gũi với nhân dân. Hàng trăm lần Ngƣời đi thăm nhà máy, công trƣờng, hợp
tác xã, bệnh viện, trƣờng học, đơn vị quân đội; tiếp xúc với nhiều tầng lớp
ngƣời: trí thức, công nhân, nông dân, chiến sỹ, cụ già, thanh niên, phụ nữ,
khách quốc tế; dấu chân Ngƣời đã để lại ở nhiều địa phƣơng, từ thành phố
đến nông thôn, từ đồng bằng đến trung du, từ miền núi đến hải đảo…
“Đặc điểm chủ yếu và cũng là một trong những giá trị chủ yếu của tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn. Quá trình hình thành và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con
ngƣời là quá trình đi từ thực tiễn đến lý luận, từ lý luận đến thực tiễn. Tức là
lý luận hóa thực tiễn và thực tiễn hóa lý luận” [31; tr.51]. Trƣớc và sau khi
đến với học thuyết mácxít về con ngƣời, Hồ Chí Minh vẫn luôn tìm tòi, khảo
sát các học thuyết, tƣ tƣởng khác để làm phong phú thêm nhận thức của mình
và kết hợp nhuần nhuyễn trong hoạt động thực tiễn. Đó là một quá trình tiếp
thu, gạn lọc, bổ sung, phát triển gắn liền với nhu cầu thực tiễn cách mạng.
Tóm lại, nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời bao
gồm nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trong đó, nhân tố khách quan
đóng vai trò là điều kiện Cần, còn nhân tố chủ quan đóng vai trò là điều kiện
Đủ. Để có những kiến giải toàn diện và sâu sắc về con ngƣời, Hồ Chí Minh đã
kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam nhƣ lòng yêu nƣớc, tinh
thần đoàn kết, lòng nhân ái, bao dung … cũng nhƣ các giá trị tinh hoa văn hóa
về con ngƣời của nhân loại. Đặc biệt lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con ngƣời, giải phóng con ngƣời và ánh sáng của cách mạng Tháng Mƣời
23
Nga và thời đại mới đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc hơn về con ngƣời, về vị trí và vai trò của con ngƣời trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Do đó, nhân tố khách quan đƣợc coi là điều kiện
Cần, là tiền đề, cơ sở của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời.
Những giá trị tƣ tƣởng về con ngƣời của dân tộc và nhân loại muốn hợp
lƣu đƣợc phải thông qua yếu tố nội sinh, đó là tƣ duy kiệt xuất và sự cống
hiến toàn tâm, toàn lực vì con ngƣời Việt Nam của Hồ Chí Minh. Từ những
cơ sở, tiền đề khách quan đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển và làm sáng
tỏ hơn trong hoạt động thực tiễn cách mạng. Xuất phát từ tấm lòng yêu
thƣơng con ngƣời và ý chí nghị, lực phi thƣờng, Ngƣời đã dâng hiến cả cuộc
đời mình cho mục tiêu độc lập của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Chính từ chủ nghĩa yêu nƣớc, ngƣời đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính
nhờ có tƣ duy mẫn tiệp, trí tuệ uyên bác, Ngƣời đã kế thừa, thâu thái các giá
trị tƣ tƣởng về con ngƣời trong di sản tƣ tƣởng văn hóa nhân loại đƣa ra
những quan điểm, tƣ tƣởng về con ngƣời và vận dụng chúng phù hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là những nỗ lực sáng tạo của Hồ Chí Minh,
thuộc về nhân tố chủ quan tạo nên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Nhƣ vậy, sự kết
hợp biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan đã tạo nên tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời. Tƣ tƣởng đó có lịch sử hình thành, phát
triển và trải qua thử thách hơn sáu thập kỷ trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Ngƣời. Tƣ tƣởng đó đã chứng tỏ sức sống, tính khoa học, tính cách
mạng sáng tạo và trở thành một trong những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, nền tảng tƣ tƣởng của Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam.
1.2 - Nội dung Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời
1.2.1 - Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Nhƣ đã nói ở trên, trong hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng về
con ngƣời là một tƣ tƣởng xuyên suốt, thâm nhập toàn bộ hệ thống, đƣợc biểu
hiện thật đa dạng và phong phú.
24
Dƣới ánh của chủ nghĩa Mác - Lênin và bằng thực tiễn cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh quan niệm con người vừa là con
người xã hội vừa là con người sinh vật.
Trƣớc hết, con người sinh vật là một thực thể tự nhiên nên luôn chịu sự chi
phối của các quy luật của tự nhiên. Hồ Chí Minh nói: “Con ngƣời ta đẻ ra, ai
cũng lớn lên, già đi và chết” [42; 469]. Đó là quy luật sinh học của con ngƣời,
cho nên “ngƣời ta ai cũng ham muốn sung sƣớng mạnh khỏe” [37; 106]. Con
ngƣời chỉ có thể sinh tồn khi con ngƣời đƣợc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu,
chính đáng nhƣ ăn, mặc, ở, học tập, việc làm và đƣợc khám chữa bệnh khi đau
ốm. Ngƣời đề cao trƣớc tiên việc đáp ứng nhu cầu vật chất cho con ngƣời: “Tục
ngữ có câu: Dân dĩ thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là
không có trời. Lại có câu: có thực mới vực đƣợc đạo; nghĩa là không có ăn thì
chẳng làm đƣợc việc gì cả” [38; 572]. Vì vậy, trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đề cao vấn đề đảm bảo đời sống vật chất
cho nhân dân.
Trong đƣờng lối lãnh đạo phong trào kháng Nhật cứu nƣớc, Hồ Chí
Minh và Trung ƣơng Đảng đã chủ trƣơng phá kho thóc của Nhật, cứu đói cho
dân. Ngƣời nói: “Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân đƣợc
ăn no mặc đủ” [36; tr.152].
Sau ngày tuyên bố độc lập, Ngƣời đề ra những việc cần làm ngay. Trong
đó, việc trƣớc tiên có vai trò quan trọng hàng đầu là phát động tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm để giải quyết nạn đói, làm cho dân “ai cũng đủ mặc,
đủ ăn”.
Giải thích chủ nghĩa xã hội là gì, Ngƣời đã nêu rõ, chủ nghĩa xã hội “tất
cả mọi ngƣời, các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng
sung sƣớng” [42; tr.317]. Điều đó cho thấy, Ngƣời rất quan tâm đến việc nâng
cao đời sống vật chất cho con ngƣời.
Sinh thời, với cƣơng vị là chủ tịch nƣớc, khi đi thăm các nhà máy, xí
nghiệp, bệnh viện, trƣờng học, Ngƣời bao giờ cũng đi thăm nhà bếp, khu nhà