Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tư tưởng hồ chí minh về dân tộc và vận dụng của đảng ta trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay (từ 1986- 2006)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.36 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn kết là một truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam. Nhờ đoàn kết mà
có sức mạnh, bảo đảm cho dân tộc tồn tại và phát triển trong suốt quá trình lịch sử
dụng nước và giữ nuớc.
Kế thứa và phát huy truyền thống của dân tộc, từ khi ra đời và lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao chiến lược đại đoàn kết toàn
dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Với sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, xóa bỏ chế độ
thuộc địa nừa phong kiến ở nước ta, giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa cả nuớc đi lên chủ nghĩa
xã hội. Hiện nay đất nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, nhất là
khi chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Dưới sự lãnh đạo của mình Đảng đã đề ra đường
lối đổi mới trong quá trình hội nhập đã thu được những thành tựu rất quan trọng, tăng
them niềm tin sự phấn khởi trong nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc vượt qua khó khăn thử thách, giành thắng lợi
trong sự nghiệp đổi mới từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Tuy
nhiên cũng nảy sinh nhiều vấn đề mới các tệ nạn xã hội như: tham nhũng, lãng phí,…
làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân Bên cạnh đó các thế lực thù địch không ngừng
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, nhất là âm
mưu “diễn biến hòa bình” đa7c5 biệt là nhằm vào vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Dưới ngọn cờ đoàn kết toàn dân của chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu để tăng
cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức làm nền tảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là lí do mà tôi chọn đề
tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta trong thực hiện
chính sách dân tộc hiện nay (Từ 1986- 2006)” cho bài niên luận của mình.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của Đảng ta
trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, những kết quả đạt được cũng như những
hạn chế gặp phải từ đó đưa ra nhũng giải pháp trong việc đoàn kết các dân tộc ít
người ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong tiến trình hội nhập.
1
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng của Đảng ta vào việc đoàn kết các
dân tộc ít người ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới ,thành tựu và hạn chế, từ đó đề ra
các giải pháp cơ bản trong viêcđoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề:
- Khái quát chung về vấn đề dân tộc ở Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết dân tộc ở Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết các dân tộc ít người ở Việt Nam
- Quan điểm và chủ trương của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc
- Thành tựu và hạn chế về việc đoàn kết các dân tộc ít người ở nước ta trong sự
nghiệp đổi mới
- Những giải pháp chủ yếu và một số bài học kinh nghiệm trong việc đoàn kết
các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ thời gian cho phép, đề tải chỉ giới hạn
trong việc nghiên cứu “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vận dụng của đảng ta
trong thực hiện chính sách dân tộc hiện nay ”.(1986- 2006).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng ta về vấn đề đoàn kết.
5. Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục tài liệu tham khảo nội

dung gồm có 2 chương và 7 tiết
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2
1.1 Khái quát chung về vấn đề dân tộc ở Viêt Nam
Việt Nam hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, Trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau, có dân tộc có số dân
trên một triệu người như Tày, Thái nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người
như PuPéo, Rơ-măm, Brâu Trong đó, dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng nòng cốt, đóng
vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp
phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh
em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân
tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có
tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển
mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống
tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất. Các dân tộc có cùng
nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó
với nhau. Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu,
càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm nhẹ
thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu tranh
chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân
tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn

bó chặt chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc
ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao
thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị
trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược
luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam
là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc đấu tranh
chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất thế giới. Chính
vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên
chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của
các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách
mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát
3
huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào
cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách mạng
nước ta ngày càng được tăng cường.
Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va
chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc.
Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia rẽ dân
tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm
mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi
người dân Việt Nam.
Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau:
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn
chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số
nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và

trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao,
một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các dân
tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực
riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các
bản mường. Hiện nay dân tộc Kinh cư trú ở Ðắc Lắc chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với
người Kinh, các dân tộc ít người miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào khu vực này
( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số lượng khá lớn. Tới nay, ở
miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có
tới trên 20 dân tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang,
Lâm Ðồng Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-
4 dân tộc cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều
kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề
phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất
hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa
những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư
trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân
tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh
niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện
đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em.
Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có vị trí
quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái:
4
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định.
Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm
lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Rừng núi
đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. Trong giai
đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc của Tổ quốc, là địa bàn
chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia,
chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp hoà bình, xây dựng

chủ nghĩa xã hội.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước
láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà
nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước, không
chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả về chính trị,
quốc phòng, an ninh quốc gia.
Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau:
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở Việt
Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở vùng
thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở vùng
sâu, vùng xa, vùng cao. Nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết
sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống
của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo,
bệnh tật.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân chủ
yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước
phải liên tục đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là những nguồn
gốc của sự không bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả lịch sử
này phải có quá trình phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân tộc từng
bước tiến kịp trình độ chung.
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc
anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng:
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều
có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và
niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh
thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình
cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm phong phú
nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét

riêng, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát
5
triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng cường
sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Ðồng thời phải
khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các dân tộc, đáp ứng nhu
cầu văn hoá tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc.
6
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam
1.2.1.Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành từ những cơ
sở quan trọng sau đây:
Thứ nhất là truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam:
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt
Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với
mỗi người Việt Nam, yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng
chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất
nhiều chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu
nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước" [6.tr 172]
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam
là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ ChíMinhvềđạiđoàn kếtdân
tộc.
Thứ hai: Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của

quần chúng:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng
lực lượng to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ
ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên
minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng vô sản, rằng nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản
không thể thực hiện được.
7
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh công nông trong cách
mạng vô sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ
sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế
trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba là tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới:
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đã
luôn chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt
Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài
học của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của
việc đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí

Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt
Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành
cách mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào
dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ
sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.
1.2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn
kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành
công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành
công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết,
quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành
vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng.
8
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách
mạng vô sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa,
trong đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp
cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng
khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề
sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế: “ Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[10.tr
22, 154]; “Đoàn kết là điểm mẹ; điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt;

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.”
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan
điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân
bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo,
do đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được
việc đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn,
phù hợp với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân
thì không thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy
rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là
mục tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt
trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt
của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-31951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên
bố trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8
chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc.
9
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn
kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ
Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn
kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng
có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
- Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng

các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không
phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín
ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc
cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức,
có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ"1. Với tinh thần
đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho
việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi
giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn
dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
10
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là
đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn
như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những
lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên
minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất"1. Về sau, Người nêu
thêm: lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng

được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết
dân tộc.
- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm
cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không
thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó
phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó
chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu không, quần
chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đông không
có sức mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó,
chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức
mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại.
11
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú
ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng
giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó là các
già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội, đoàn thanh niên,
hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo
yêu nước, các nghiệp đoàn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt
trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân
nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước,
về Tổ quốc Việt Nam
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã

xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở
nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo
Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh cho rằng,
Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì. Sự đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân
dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh
công - nông - lao động trí óc. Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở
rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn
dân, kết thành một khối vững chắc.
12
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu
cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi
ích chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt
hoặc dân chủ hình thức. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác
Mặt trận (tháng 8-1962), Người yêu cầu: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp
nhân dân Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.

13
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự,
chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giữa các thành viên của khối đại đoàn
kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải
bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu
cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
phương châm "cầu đồng tồn dị", lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt
khác, Người nêu rõ: "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn
kết". Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải
nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa
tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân
tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ
việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ đ-ược; đồng thời chống khuynh
hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ
Mặt trận. Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội,
toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không phải chỉ vì lợi ích của giai
cấp mình mà vì "phải trở thành dân tộc" mới có thể giải phóng được dân tộc và giai
cấp. Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho
mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt
trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng

đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt
trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân
sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ
thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết các dân tộc ít người ở Việt Nam
14
Một trong những nội dung nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đại
đoàn kết. Trong quá trình xây dựng và vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc, tiến hành
đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh thường xuyên dành tâm sức thực hiện đoàn kết giữa
đồng bào dân tộc đa số với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các
dân tộc còn lại như: Tày, Nùng.Thái, Mông, Dao, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khơ Me…là
dân tộc thiểu số. Đồng bào các dân tộc thiểu số thường sống xen kẽ nhau ở khu vực
miền núi và trung du – những địa bàn rộng lớn có vai trò trọng yếu đối với chính trị,
kinh tế, quốc tế, quốc phòng , an ninh,đất nước. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài,
đồng bào các dân tộc thiểu số đã kề vai, sát cánh cùng đồng bào dân tộc Kinh đấu
tranh khắc phục thiên tai, địch họa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở đó,
truyền thống đoàn kết gắn bó giữa đồng bào các dân tộc được hình thành . Khi xâm
chiếm Việt Nam, với âm mưu thâm độc “chia để trị ”, thực dân Pháp đã dùng mọi thủ
đoạn phá hoại sự đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc.
Từ đó, chúng đặt ách thống trị tàn bạo đối với đồng bào các dân tộc làm cho
đồng bào các dân tộc rơi vào tình trạng hiềm khích, nghèo đói và lạc hậu,
Ý thức sâu sắc những điểm trên, trong quá trình cùng Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới công tác tuyên truyền,
giác ngộ, tổ chức đồng bào dân tộc thiểu số gia nhập khối đoàn kết đại gia đình các
dân tộc Việt Nam cùng đấu tranh vì độc lập tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của mỗi
người. Ngay từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, trong tác phẩm Đường Kách

Mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu rõ tình trạng chia rẽ của nhân dân Việt Nam và chỉ rõ yêu
cầu: “ sức cách mệnh phải tập trung” [4.tr 267], điều này đã bao hàm ý nghĩa: phải
thực hiện đoàn kết đồng bào các dân tộc ở nước ta và đồng bào các dân tộc thiểu số là
lực lượng quan trọng trong khối đoàn kết toàn dân tộc. Nội dung này càng được thể
hiện rõ hơn sau ngày Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam
(1941). Người đã sang lập ra Mặt trân Việt Minh, nơi quy tụ sức mạnh đoàn kết của
quần chúng nhân dân, trong đó có sự tham gia hăng hái và đông đảo của đồng bào các
dân tộc thiểu số. Nhờ được nhìn nhận và đánh giá đúgn vai trò trong khối đoàn kết
toàn dân tộc, đi theo cờ nghĩa đại đoàn kết Hồ Chí Minh, “ các dân tộc thiểu số đã sát
cánh với an hem đa số chiến đấu chống kẻ thù chung, đưa Cách mạng Tháng Tám và
kháng chiến đến thắng lợi”[8.tr 587].
15
Sự cần thiết đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số được Hồ Chí Minh thể hiện
đặc biệt sinh động và có sức truyền cảm lớn qua Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số
Miền Nam tại Plâycu, viết ngày 19-4-1946. Trong thư, Người nêu rõ: “ đồng bào Kinh
hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xa Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là an hem ruột thịt. Chúng ta sống chết
có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
nhưng long đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”.[5.tr 217].
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, xét về bản chất, đoàn kết được tạo lập trên
cơ sở sự tương đồng, đặc biệt là tương đồng về lợi ích. Có xuất phát từ những điểm
tương đồng thì “mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng,
tâm mới đồng” [4.tr 261]. Do vậy, muốn xây dựng lực lượng đoàn kết thì điều kiện
tiên quyết là phải tìm ra được những điểm tương đồng, tìm ra bội số chung của hoàn
cảnh, tâm tư, nguyện vọng, lợi ích mỗi giai cấp, tầng lớp hoặc nhóm người. Xuất phát
trên cơ sở quan niệm này, Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết và tính khả thi của
việc thực hiện đoàn kết giữa đồng bào dân tộc đa số với đồng bào các dân tộc thiểu
số. Hồ Chí Minh chỉ ra 3 điểm tương đồng lớn giữa đồng bào các dân tộc ở Việt Nam.
Trước hết, đồng bào các dân tộc ở Việt Nam, từ đồng bào dân tộc đa số tới
đồng bào dân tộc thiểu số đều trải qua quá trình sinh sống, gắn bó lâu đời, đều góp

chung công sức vào việc hình thành một quốc gia chung, một Tổ quốc chung là Việt
Nam. Dưới chế độ mới do Đảng lãnh đạo, đồng bào các dân tộc còn có một nhà nước
chung, một chính phủ chung đại biểu trung thành lợi ích của đồng bào các dân tộc. Hồ
Chí Minh nhắc nhở đồng bào các dân tộc: “…nước Việt Nam là nước chung của
chúng ta. Trong quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN
TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là
giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc phải đoàn kết
chặc chẽ giữ gìn non nước ta, để ủng hộ Chính phủ ta” [5.tr 217].
Thứ hai, đồng bào các dân tộc Việt Nam là những người trong cùng đại gia
đình, hơn nữa lại “đều là an hem ruột thịt ”. Đã là anh em ruột thịt thì “sống chết có
nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau ”. trong những bức thư hay trong những
bài nói chuyện với đồng bào các dân tộc, Hồ Chí Minh thường gợi về nguồn gốc
chung của các dân tộc, sự gắn kết của tình ruột thịt. Trong cách gọi, Người thường sử
dụng từ “đồng bào ” – hình ảnh biểu trưng có sức truyền cảm lớn về nguồn gốc
chung. Người hay nói: “đồng bào Kinh”, “đồng bào Thái ” , “ đồng bào Mèo”, “đồng
bào Mường”, …mà ít khi nói: “dân tộc Kinh”, “dân tộc Thái”, “dân tộc Mèo”, “dân
tộc Mường”…
16
Thứ ba, đồng bào các dân tộc nước ta có chung một kẻ thù, chung một mục
tiêu đấu tranh. Trong thời kỳ đất nước đấu tranh giành độc lập thống nhất, kẻ thù
chung của đồng bào các dân tộc là thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Có
đánh đuổi được kẻ thù này, đập tan ách thống trị tàn bạo của chúng, đồng bào các dân
tộc mới thực sự giành được quyền sống trong hạnh phúc, no ấm và được hưởng các
quyền tự do dân chủ khác. Hồ Chí Minh chỉ ra cho đồng bào các dân tộc thấy một
thực tế: “Tây, Mĩ, Diệm và bọn phản động khác chúng có muốn đồng bào đoàn kết
không? Chúng có muốn đồng bào sung sướng không? Không, chúng không muốn như
thế” [8.tr 442].
Trong thời kỳ đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù chung của
đồng bào các dân tộc là đói nghèo, lạc hậu, Hồ Chí Minh xác định: “ Đồng bào tất cả
các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp giúp đỡ lẫn nhau, phải

đoàn kết chặc chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc, ấm no” [9.tr282]
Đoàn kết và thực hiện đoàn kết có yêu cầu rất cao về nghệ thuật vận động, tổ
chức, chỉ đạo. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện xã hội Việt Nam -
một xã hội nông nghiệp lạc hậu, dân cư thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau,
trình độ dân trí thấp, nhất là khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số. Để thực hiện đoàn
kết đồng bào các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh nêu bốn nguyên tắc cơ bản sau:
17
Thứ nhất là đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam thì việc
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc luôn luôn mang tính chiến lược và có ảnh
hưởng sâu sắc tới sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh coi đoàn kết các dân tộc
thiểu số không chỉ là vấn đề được đặt ra trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn là
vấn đề cần được chú trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh đoàn kết
đồng bào các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam không những phát huy
vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai,
giành độc lập, thống nhất đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong công cuộc xây
dựng xã hội mới, hướng tới xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu và sự ngăn cách giữa các dân
tộc, đồng thời mang lại hạnh phúc, ấm no và sự tiến bộ, văn minh cho tất cả đồng bào
các dân tộc. Rõ ràng khi Hồ Chí Minh nêu: “ trước Cách mạng Tháng Tám và trong
kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số được
mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập…
Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ba là đáu tranh thống nhất nước nhà ”[10.tr 130] thì điều này cũng có ý
nghĩa: đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam
là yêu cầu xuyên suốt trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đây là điều thật sự có ý nghĩa khi chúng ta nghiên cứu bài học giải quyết
chưa thành công vấn đề dân tộc ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
trước đây. Đồng thời, điều này có ý nghĩa thời sự đặc biệt đối với việc phát huy sức

mạnh đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh ở nước ta hiện nay.
Thứ hai là đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số phải xuất phát từ tình cảm
yêu thương của những người ruột thịt. Tình yêu thương ruột thịt là tình cảm đặc biệt
mạnh mẽ và sâu nặng của con người. Nó gắn kết con người một cách chặc chẻ và sâu
đậm về tình cảm và trách nhiệm trên cơ sở ý thức về sự chung một huyết thống. Trong
quan niệm Hồ Chí Minh, đồng bào các dân tộc Việt Nam đều là anh em một nhà và
tình cảm giữa các đồng bào dân tộc là tình yêu thương ruột thịt. Để xứng đáng với
tình cảm cao quý này, đồng thời để giữ gìn và phát huy cơ sở thuận lợi của việc thực
hiện đoàn kết đồng bào các dân tộc, theo Hồ Chí Minh, đồng bào “ phải thương yêu
nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của
chúng ta và con cháu chúng ta ” [5. tr217].
Thứ ba là đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số phải được thực hiện dựa trên
cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các dân tộc. Khi coi đồng bào các dân
tộc là anh em một nhà, Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các dân tộc, Người coi đó là chất men gắn kết các đồng bào dân tộc với
nha. Hồ Chí Minh khẳng định: “ Đảng và chính phủ ta luôn luôn kêu gọi các dân tộc
18
xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên
cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [8. tr 587]
Theo Hồ Chí Minh quyền lợi lớn nhất mà các dân tộc được hưởng đó là sau khi
thoát khỏi gong xiềng của thực dân đế quốc được sống dưới chế độ dân chủ mới “
đồng bào các dân tộc đều là người chủ nước nhà” [9. tr 326] đồng thời đồng bào các
dân tộc cũng có nghĩa vụ: trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ đoàn kết và tích
cực đấu tranh để giành quyền độc lập dân tộc và quyền tự do dân chủ; trong thời kỳ
cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội đoàn kết và hăng hái tham gia xây dựng nước nhà,
cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội
Tuy nhiên theo quan điểm của Bác, điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội và lịch sử
cụ thể , nói bình đẳng giữa các dân tộc nghĩa là phải ưu tiên, giúp đỡ đồng bào các
dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, văn hóa nâng cao đời sống vật chất và tình thần của

đồng bào tạo điều kiện để các đồng bào các dân tộc thiểu số hào nhập, cùng tiến bộ
với đồng bào cả nước.
Thứ tư là đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số phải thực hiện một cách rông
rãi với những tầng nất thích hợp. Tháng 3-1964, nói chuyện tại hội nghị tiến bộ phụ
nữ miền núi, Người nêu rõ “đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải
đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đõ lẫn nhau. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên
phát triển kinh tế miền núi. Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi phải đoàn kết
như an hem, chị em một nhà” [ 10. tr 215].
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân
tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kêu ngạo. Cán bộ địa
phương, dân dân địa phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho
mình không làm được, rồi không cố gắng” [10.tr 134-135].
Đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp, Hồ Chí Minh
chỉ ra rẳng “ Trung ương Đảng và chính phủ, mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy
ban địa phương, các cô các chú phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của đồng bào các dân tộc”[10.tr 136]. Đây là trách nhiệm của các tổ chức đảng và
đồng bào các cấp, xuất phát từ phương châm: chế độ ta là chế độ dân chủ, và cán bộ
từ trung ương cho đến tỉnh, huyện , xã là đày tớ của nhân dân, không phải là quan
caxhs mạng . có quan tâm chăm lo và mang lại lợi ích cho đồng bào các dân tộc thì
mơi thuyết phục và đoàn kết được đồng bào
Khi xác định trách nhiệm của tổ chức đảng và chính quyền các cấp, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh ba nội dung:
Thứ nhất đội ngũ cán bộ các cấp mà trực tiếp là ở địa phương phải trực tiếp
chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách
mangjchoongs các biểu hiện quan liêu mệnh lệnh, lãng phí tham ô…
19
Thứ hai, trong tuyên truyền , vận động phải đảm bảo phù hợp với trình độ nhận
thức của đồng bào mỗi dân tộc, phải nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng chổ để đồng
bào hiểu được, cán bộ phải học tiếng dân tộc thì công tác tuyên truyền mới đạt hiệu
quả

Thứ ba, cần phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên người
dân tộc.
Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đã mang lại cho Đảng ta cơ sở và phương
hướng để tập hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tháng 1-2003 hội nghị trung ương Đảng lần thứ 7 ( phần 2 khóa IX ), Đảng ta xác
định: “ thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ , giúp nhau cùng phát
triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; chống kỳ thị, hẹp hòi , chia rẽ dân tộc.
Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiến nói, chữ
viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. nêu cao ý thức tự lực tự cường của đồng
bào các dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường sự hổ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và
cộng đồng. thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo, bội dưỡng cán bộ, nhân sĩ tri thức
dân tộc thiểu số. Động viên phát huy vài trò của mọi tầng lớp nhân dân trong việc
đảm bảo an ninh chính trí và trật tự xã hội” [1.tr 19 ]. Đây là những quan điểm chỉ đạo
để chúng ta hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng tốt yêu cầu, phát huy cao độ sức mạnh
vật chất và tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
Chương 2 : VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO
VIỆC ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở NƯỚC TA TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hòa thuận, trong đó
dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trên dưới
một triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer cho đến vài trăm người như
dân tộc Ơ Đu và Brâu. Dân tộc Kinh sống rải rác ở trên khắp lãnh thổ, nhưng tập
trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. Họ là chủ nhân của nền
văn minh lúa nước. Đa số các dân tộc còn lại sinh sống ở miền núi và trung du, trải
dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đồng
dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số có trình độ phát

triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như
Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy,
chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá
tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Trừ người Chăm, Hoa và
20
Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung, Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn,
phần lớn các dân tộc còn lại ở Tây Nguyên sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống
dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền
văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt.
Do đó vấn đề đoàn kết các dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới đất nước ta hiện nay. Trước những vấn đề trên đòi hỏi Đảng ta cần phải có những
chính sách cụ thể trong công tác đoàn kết dân tộc.
2.2. Quan điểm của Đảng
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo, nơi có vị trí chiến lược về kinh tế,
chính trị, an ninh - quốc phòng và giao lưu quốc tế. Bởi thế, vấn đề dân tộc và đoàn
kết dân tộc luôn là vấn đề chiến lược của cách mạng nước ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khoá IX khẳng
định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng
thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng nước ta”.
Thực tế lịch sử dân tộc qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã minh
chứng: Vận nước thịnh hay suy, phần quan trọng tuỳ thuộc vào việc giải quyết thành
công hay không thành công vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc,
nên từ ngày thành lập đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm
xây dựng và thực hiện tốt chính sách dân tộc, củng cố và phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân. Nhờ vậy, cách mạng nước ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nước nhà độc lập, thống nhất cả nước
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau hai mươi năm tiến hành đổi mới, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to

lớn và có ý nghĩa lịch sử; tư duy mới của Đảng về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
ngày càng được hoàn thiện và từng bước đi vào cuộc sống.
Tại Đại hội X, tư duy mới của Đảng ta về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
đã được khẳng định và được cuộc sống kiểm nghiệm. Nội dung của tư duy mới đó
được thể hiện trên những điểm sau:
Thứ nhất, trong mọi giai đoạn phát triển của cách mạng, nhất là trong thời kỳ
đổi mới, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Sự nhất quán
trong tư tưởng, quan điểm được thể hiện qua các kỳ đại hội:
Đại hội VI (1986), Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định chính sách
dân tộc là bộ phận của chính sách xã hội, Đảng ta khẳng định: “Trong việc phát triển
kinh tế, xã hội ở những nơi có đồng bào dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính
sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần
21
đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể… Sự phát triển mọi mặt của
từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước
ta”.
Đại hội VII (1991), Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục khẳng định chính sách nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn, phát huy
bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông
qua trong Đại hội VII cũng khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con
đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam”.
Đại hội VIII, sau 10 năm tiến hành đường lối đổi mới, cùng với việc khẳng
định vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc Đảng ta còn đặt ra yêu cầu phải xây dựng và
thực thi trên thực tế Luật dân tộc: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện

“bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng luật dân tộc”.
Đến Đại hội IX, Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, nhận thức mới của Đảng về
vấn đề dân tộc được thể hiện khi gắn vấn đề dân tộc với đoàn kết dân tộc và xem đây
là vấn đề có vị trí chiến lược của cách mạng nước ta: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân
tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách dân
tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, Đảng
không chỉ tiếp tục khẳng định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược,
cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta: “Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng
nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Đấu
tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo
làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước”.
Vậy là, qua các kỳ đại hội, thông qua việc chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn nhất
quán và từng bước cụ thể hoá quan điểm coi trọng vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Hai là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc được Đảng ta xem là vấn đề chiến
lược cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng.
Thực ra, không phải tới Đại hội X, Đảng ta mới xem vấn đề dân tộc và đoàn
kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản và lâu dài. Đại hội lần thứ VIII của
22
Đảng đã xem vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Tới Hội nghị Trung ương 7 khoá
IX, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc đã được khẳng định là vấn đề chiến lược cơ
bản, lâu dài và đồng thời là vấn đề cấp bách. Đến Đại hội X, sau 20 năm đổi mới, vấn
đề dân tộc và đoàn kết dân tộc tiếp tục được xem là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài
của cách mạng. Điều đó, một mặt thể hiện sự nhất quán của Đảng ta trong việc luôn
coi trọng và đánh giá đúng vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc;
mặt khác, cũng khẳng định vấn đề dân tộc ở nước ta trong 20 năm qua đã được giải

quyết một cách cơ bản. Vấn đề dân tộc, mặc dù còn tiềm ẩn những phức tạp, bởi các
thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân, song về cơ bản việc thực hiện chính sách dân tộc đã thu được những kết quả
quyết định; các dân tộc thiểu số đã có nhận thức ngày càng sâu sắc và thực hiện có kết
quả hơn chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, giải quyết thành công hơn những
vấn đề kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; những điểm nóng đã được
đồng bào các dân tộc giải quyết.
Thứ ba, nội dung chính sách dân tộc ngày càng được nhận diện rõ ràng hơn,
đầy đủ hơn: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mặc dù có thời
kỳ Đảng ta xác định nội dung chính sách dân tộc chủ yếu là thực hiện đoàn kết và
bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, song đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định nội
dung chính sách dân tộc là: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đã đến lúc cần khẳng định, dù trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội giữa đồng bào
dân tộc thiểu số và đa số còn chênh lệch, thậm chí có nơi còn chênh lệch khá lớn,
song nội dung, yêu cầu bình đẳng, tôn trọng giữa các dân tộc là thực tế khách quan.
Trong việc thực hiện chính sách dân tộc, trên thực tế có chính sách ưu tiên đối với
đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, hải đảo hoặc những nơi khó khăn, song
không có nghĩa thực hiện chính sách dân tộc là ban ơn cho đồng bào dân tộc thiểu số,
mà là, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Bởi vậy, chủ trương:
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt lõi của
tư duy mới của Đảng về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, thực hiện chính sách dân tộc phải gắn với việc thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn
giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Trên thực tế,
vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền luôn là vấn đề nhạy cảm. Các thế lực thù địch
của cách mạng luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền để kích động,
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo, làm phương hại lợi ích chung của
đất nước. Bởi vậy, thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo chính là góp

phần khắc phục sự kỳ thị, chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo; khắc phục tư tưởng tự ti,
23
mặc cảm dân tộc, mặc cảm tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hướng
tới thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Thứ năm, đổi mới và thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giải quyết tốt vấn
đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Việc mở rộng và phát huy dân chủ là đòi hỏi khách quan.
Xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả
hệ thống chính trị mà hạt nhân là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách
dân tộc nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải mở rộng
và phát huy hơn nữa dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản
của cộng đồng dân cư), đồng thời phải giữ vững kỷ cương xã hội và đạo lý dân tộc.
Tóm lại, nhận thức về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc của Đảng ta là một
quá trình, song việc khẳng định vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc là nhất quán. Tùy
theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng,
nội dung chính sách dân tộc có những điều chỉnh nhất định. Điều đó phản ánh tư duy
biện chứng của Đảng ta. Sau 20 năm đổi mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đến nay tư
duy mới của Đảng ta về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc và đoàn kết dân tộc là:
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3. Kết quả
2.3.1. Thành tựu
Qua điều tra, nghiên cứu, tổng hợp và phân tích, chúng ta ngày càng hiểu rõ
đặc điểm và đặc thù, số dân và chất lượng cuộc sống của từng dân tộc, mối quan hệ
giữa các dân tộc, thế mạnh, thế yếu, cũng như những thuận lợi và khó khăn của từng
vùng, từng dân tộc, trong đó quan trọng nhất là biết được tâm tư nguyện vọng của

đồng bào. Trên cơ sở đó tham mưu, đề xuất với Trung ương Đảng và Nhà nước giải
quyết một số vấn đề về dân tộc có hiệu quả, nhất là về đường lối và chính sách dân
tộc hợp với lòng dân, ý Đảng; vận động và tổ chức được đồng bào các dân tộc đi theo
Đảng và Bác Hồ làm cách mạng…
Xây dựng và phát huy được truyền thống đại đoàn kết các dân tộc, bằng cách
góp phần khắc phục những nguyên nhân gây mất đoàn kết dân tộc từ ngày đầu cách
mạng cho đến nay. Không chỉ đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng đại đoàn kết của Bác
Hồ mà còn làm nhiều việc cụ thể, lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng
của đồng bào, đem lại lợi ích cho các dân tộc để cán bộ và đồng bào các dân tộc thấy
và tin. Đồng bào các dân tộc thừa nhận: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết”.
24
Đặc biệt là đã thường xuyên đấu tranh làm thất bại những âm mưu “chia để trị”
của các thế lực thù địch trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống đế quốc
Pháp và Mỹ xâm lược, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, cơ bản giữ được ổn định chính
trị, xã hội ở vùng dân tộc, không có đấu tranh dân tộc và sắc tộc như một số nước trên
thế giới.
Sau khi Bác Hồ tuyên bố nước nhà độc lập, đồng bào các dân tộc từ người dân
nô lệ có quyền sống và làm chủ đất nước; cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp kết
hợp hoàn thành cải cách dân chủ, đem lại ruộng đất cho nông dân các dân tộc và đưa
họ từ người làm ăn riêng lẻ trở thành người làm chủ tập thể với hình thức thích hợp;
rồi đến thời kỳ đổi mới đất nước, đồng bào các dân tộc rất phấn khởi, vừa ra sức giữ
nước, vừa xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá.
Các cơ quan chuyên trách công tác dân tộc cũng đã tham mưu với Đảng và
Nhà nước giải quyết những việc chủ yếu về chăm lo đời sống của đồng bào các dân
tộc, vận động đồng bào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, giúp đỡ nhau
vượt qua đói nghèo… Mặc dù một số dân tộc ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn, nhưng đời sống vật chất và tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc được ổn
định, cải thiện và nâng cao, tiến bộ so với trước; bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân
tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy; xây dựng thêm chữ viết cho một số dân tộc
có nhu cầu, phát triển hệ thống phương tiện thông tin đại chúng ở các vùng dân tộc.

Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể ở Trung ương và địa phương chú trọng
xây dựng và củng cố được cơ sở chính trị, lực lượng cách mạng ở các vùng dân tộc
ngày càng vững mạnh, một số vùng dân tộc là căn cứ địa của cách mạng và kháng
chiến. Đặc biệt là góp phần đào tạo, bồi dưỡng hình thành một đội ngũ cán bộ và đảng
viên người dân tộc; tuy chưa đồng đều giữa các vùng và các dân tộc nhưng đã có số
lượng và chất lượng khá mạnh so với trước, tạo điều kiện để thực hiện tốt chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong từng giai đoạn cách mạng, đưa cách mạng đến
thành công.
2.3.2. Một số hạn chế
Đảng cộng sản Việt Nam đã có chính sách dân tộc, chính sách đó là hoàn toàn
đúng đắn và sáng tạo. Song mới thể chế vào Hiến pháp, chưa được cụ thể hoá bằng
pháp luật Tuy có những thành tựu đáng kể nhưng so với đồng bằng, vùng đã phát
triển tương đối thì miền núi và vùng dân tộc thiểu số còn là vùng khó khăn nhất, hãy
còn nhiều kẽ hở để bọn phản động dễ lợi dụng, khoảng cách còn khá xa, tỷ lệ đói
nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; đã xuất hiện những hiện tượng chệch
hướng, nếu trong thời gian tới không có những giải pháp hữu hiệu có thể khoảng cách
đó còn xa hơn nữa sẽ không có lợi cho sự ổn định phát triển bền vững của đất nước.
Nguyên nhân chủ yếu là từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có
25

×