Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Phép biện chứng siêu nghiệm của I.Kant trong Phê phán lý tính thuần túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.77 KB, 98 trang )


i
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU i
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của đề tài 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 8
8. Kết cấu của luận văn 8
NỘI DUNG 9
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
PHÉP BIỆN CHỨNG SIÊU NGHIỆM CỦA I. KANT 9
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và tiền đề khoa học, lý luận
cho sự hình thành phép biện chứng siêu nghiệm của I.Kant 9
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội 9
1.1.2. Tiền đề khoa học tự nhiên 14
1.1.3. Tiền đề lý luận 20
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của I.Kant 34
1.3. Tổng quan về triết học siêu nghiệm của I.Kant 40
1.4. Về tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” của I. Kant 46
Chương 2: NỘI DUNG CĂN BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
SIÊU NGHIỆM TRONG “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY”
CỦA I. KANT 52
2.1. Xuất phát điểm của phép biện chứng siêu nghiệm 52

ii
2.2. Các dạng suy luận (suy lý) biện chứng siêu nghiệm 61


2.2.1. Suy luận biện chứng paralogism (ngộ biện tiên nghiệm) 61
2.2.2. Suy luận biện chứng Antinomi (Antinomi của lý tính thuần túy
hay luật tương phản). 69
2.2.3. Suy luận biện chứng ideal (Lý tưởng của lý tính thuần túy) 80
2.3. Nhận xét bước đầu về giá trị và hạn chế trong phép biện chứng
siêu nghiệm của I. Kant. 84
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn phát triển rực rỡ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, gắn với nhiều triết gia vĩ đại như I.Kant, Hêghen,
Phoiơbắc… Thành tựu quan trọng nhất của triết học thời kỳ này là xây dựng
nên phép biện chứng với tư cách là lý luận về sự phát triển, về nhận thức và
lôgíc. Trên phương diện đó, Kant được tôn vinh là người sáng lập nền triết
học cổ điển Đức với đóng góp vĩ đại - tư tưởng biện chứng siêu nghiệm -
thành tựu đã đưa lịch sử sự hình thành và phát triển phép biện chứng trở thành
công cụ hữu hiệu đối với sự công phá quyết liệt quan điểm siêu hình cả trong
triết học lẫn khoa học.
Công lao vĩ đại của Kant là làm sống lại phép biện chứng thời cổ đại
mà các nhà siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII đã lãng quên, thừa nhận phép
biện chứng như là một “thuộc tính” tất yếu của lý tính con người, giải thoát
nó khỏi “cái vẻ bề ngoài độc đoán”, khiến cho nó không còn là một thứ nghệ
thuật tranh luận, hùng biện, một thứ triết lý hão huyền như các nhà triết học
cổ đại Hy Lạp quan niệm. Ông đã sáng tạo ra một hình thức mới của phép
biện chứng - phép biện chứng siêu nghiệm. Những tư tưởng biện chứng siêu
nghiệm của Kant chính là con đường trung gian giữa chủ nghĩa duy tâm và

chủ nghĩa duy vật, giữa khuynh hướng duy lý và kinh nghiệm, giữa hoài nghi
luận và chủ nghĩa tự nhiên khoa học. Tư tưởng biện chứng siêu nghiệm của
Kant được thể hiện tập trung, sâu sắc trong “Phê phán lý tính thuần túy” - tác
phẩm cùng với “Phê phán lý tính thực hành” và “Phê phán năng lực phán
đoán” làm nên bộ ba tác phẩm “Phê phán” vĩ đại của Kant và đem lại tiếng
vang, tầm ảnh hưởng lớn lao cho triết học Kant đối với đương đại và sau này.

2
Ngay từ khi “Phê phán lý tính thuần túy” xuất hiện, tư tưởng biện
chứng siêu nghiệm của Kant đã phải đối mặt với nhiều quan điểm, đánh giá,
nhận xét khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau của nhiều trường phái trong
tiến trình phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Điều đó chứng tỏ tư tưởng
biện chứng siêu nghiệm của Kant có sức thu hút, tầm ảnh hưởng không nhỏ.
Và quả thực, công lao vĩ đại của Kant với việc làm sống lại phép biện chứng
đã ngủ quên suốt thời Trung cổ là điều không thể phủ nhận. Và sau Kant, các
nhà triết học đã tiếp tục con đường mà ông gợi mở, đặc biệt là Hêghen -
người đã đi đến tận cùng của phép biện chứng với quan điểm duy tâm. Đó là
một trong những nguồn gốc dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện
chứng sau này.
Triết học Kant đã có ảnh hưởng rất lớn đối với các trào lưu triết học
phương Tây. Sự thu hút của “Phê phán lý tính thuần túy” không hẳn chỉ bởi
những luận điểm phức tạp, đầy mâu thuẫn của Kant, cũng không phải bởi có
quá nhiều ý kiến đánh giá trái ngược nhau về tư tưởng triết học này. Có thể
khẳng định, một trong những nguyên nhân quan trọng của sự trở lại đối với
triết học Kant qua bao năm tháng đó chính là khả năng gợi mở, ý nghĩa thời
sự của tư tưởng biện chứng duy tâm siêu nghiệm. Tính tích cực của chủ thể
nhận thức, năng lực, giới hạn và cấu trúc của lý tính, mâu thuẫn trong quá
trình nhận thức, sự tồn tại của linh hồn, Thượng đế, sự tự do luôn là những
nan đề có rất nhiều sự kiến giải khác nhau xoay quanh và luôn tìm về với triết
học Kant như những luận điểm khai phá có tính lịch sử. Kant đã phân biệt

lĩnh vực mà con người có thể nhận thức - thế giới hiện tượng với lĩnh vực mà
lý tính của con người bất lực, không thể nhận thức được - thế giới vật tự nó.
Với những tư tưởng đó, Kant đã phê phán mạnh mẽ sự bất lực của siêu hình
học truyền thống, khi nó sử dụng phương pháp, cách tiếp cận của khoa học tự
nhiên để nhận thức vật tự nó. Theo Kant, triết học với sứ mệnh cao cả là cứu

3
nguy cho siêu hình học truyền thống, cần phải tiến hành phê phán chính lý
tính. Lý tính đã mắc phải những mâu thuẫn không thể giải quyết được của
chính nó. Các mâu thuẫn không thể khắc phục trong lý tính thuần túy chính là
động lực để Kant chuyển sang giải quyết chúng trong lĩnh vực thực hành.
Những tư tưởng biện chứng siêu nghiệm của Kant đã đặt nền móng cho triết
học cổ điển Đức, mở ra một thời đại mới - thời đại huy hoàng với những
khám phá lớn lao của triết học Đức nói riêng, tư tưởng nhân loại nói chung.
Có thể khẳng định, nghiên cứu những tư tưởng biện chứng siêu nghiệm
của Kant là hết sức cần thiết, là một yêu cầu nội tại của chủ nghĩa duy vật
khoa học. Qua đó, lịch sử phát triển của phép biện chứng thể hiện như một
quá trình đầy phức tạp. Nghiên cứu sự phát triển ấy giúp chúng ta có cách
nhìn khái quát, chính xác và khoa học về phép biện chứng duy vật.
Với những suy nghĩ đó, chúng tôi chọn “Phép biện chứng siêu nghiệm
của I. Kant trong “Phê phán lý tính thuần tuý”” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay từ khi ra đời, phép biện chứng siêu nghiệm của Kant đã chiếm
một vị trí quan trọng, thu hút nhiều sự quan tâm với những ý kiến, đánh giá
trái ngược nhau của nhiều nhà triết học, đặc biệt là Hêghen. Một mặt Hêghen
đã nêu bật công lao của Kant: ông đã làm sống lại phép biện chứng, đã phát
triển một vấn đề quan trọng của nhận thức luận là ý niệm về “sự thống nhất
tiên nghiệm của tổng giác”, tức là sự thống nhất của ý thức trong đó hình
thành khái niệm [27, 107; 176]. Mặt khác, Hêghen cũng phê phán Kant một
cách triệt để. Nói như Ph.Ăngghen, “những gì có tính chất quyết định nhằm

bác bỏ quan điểm đó thì đã được Hêghen đưa ra, trong chừng mực quan điểm
duy tâm chủ nghĩa cho phép” [29, 406]. Qua đó, Hêghen đã chỉ ra tất cả
những hạn chế trong triết học Kant: chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tâm lý,
tính hai mặt, không triệt để.

4
Từ lập trường duy vật, Phoiơbắc đã phê phán sai lầm của Kant trong
vấn đề nguồn gốc của cái tiên nghiệm, trong sự phân biệt siêu hình giữa cảm
năng và giác tính. Theo Phoiơbắc, Kant đã không biết đến quá trình tổng hợp
những tri thức kinh nghiệm trong khái niệm chung rồi từ đó nâng lên thành
những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm, không hiểu được “lý tính là thực thể
tối cao, là kẻ thống trị thế giới, nhưng chỉ ở tên gọi, chứ không phải trên thực
tế” [22, 85;87;88].
Ở Liên Xô, triết học Kant và những tư tưởng biện chứng siêu nghiệm
của ông được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trước hết, đó là hai tác phẩm
của V. Ph. Axmut: “Phép biện chứng của Kant” và “I. Kant”. Theo tác giả,
những mầm mống của phép biện chứng, mặc dù đó là phép biện chứng chủ
quan, biện chứng của khái niệm được thể hiện trước hết qua học thuyết phạm
trù của Kant.
Tiếp thu truyền thống của Axmut, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô
trong cuốn “Lịch sử phép biện chứng. Giai đoạn triết học cổ điển Đức” đã
trình bày khá đầy đủ và rõ ràng về phép biện chứng siêu nghiệm của Kant.
Các tác giả đã chỉ ra một cách cụ thể các ảo tưởng sai lầm trong nhận thức của
lý tính và đánh giá mặt tích cực, tiêu cực của phép biện chứng siêu nghiệm
của Kant.
Ở nước ta, triết học Kant cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Về
phương diện lịch sử, người đề cập đến triết học Kant sớm nhất là GS. Trần
Đức Thảo trong tác phẩm: “Lịch sử tư tưởng trước Marx”. Ở đây, GS. Trần
Đức Thảo đã trình bày lần lượt các võng luận của phép biện chứng siêu
nghiệm theo kết cấu của tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”. Tuy nhiên, sự

trình bày còn chưa được sâu sắc, sơ lược. Song, đó là một quan niệm đánh giá
khá đúng đắn, khách quan đối với những tư tưởng triết học của Kant.

5
Năm 1962, Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đã cho dịch cuốn “Giáo trình
lịch sử triết học - Giai đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện Triết học thuộc
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn. Bản dịch đã đem đến cho độc giả
những nét khái lược về triết học cổ điển Đức, trong đó triết học Kant chiếm
một vị trí quan trọng. Các tác giả đã nghiên cứu quan niệm của Kant về nhận
thức theo ba giai đoạn: cảm tính, giác tính và lý tính. Trong đó, các tác giả
cũng đã chỉ ra các mâu thuẫn trong tư tưởng biện chứng siêu nghiệm của
Kant, nêu bật lên những đóng góp và hạn chế của triết học Kant đặc biệt là
phép biện chứng siêu nghiệm của ông.
Trần Thái Đỉnh, trong cuốn “Triết học Kant”, đã nêu lên một cách khá
toàn diện các vấn đề trong triết học Kant. Riêng đối với triết học lý luận, tác
giả cũng đưa ra các luận giải khá sâu sắc. Ông cho rằng khi phê phán lý tính
thuần túy, Kant không nhằm phá hủy siêu hình học mà trái lại cố gắng xây
dựng một siêu hình học mới. Tác giả dành khá nhiều tâm huyết trình bày các
võng luận trong lĩnh vực nhận thức của triết học Kant. Có thể nói đây là một
công trình khá đầy đủ và phong phú về triết học Kant tuy nhiên các từ ngữ,
thuật ngữ tác giả sử dụng có phần khó hiểu.
Năm 1996, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho ra mắt bạn đọc cuốn
“Triết học Immanuen Kant” của PGS. TS Nguyễn Văn Huyên. Trong cuốn
sách này tác giả đã trình bày những nét tổng quát về triết học nhận thức và
triết học thực tiễn của Kant. Tác giả đã nêu lên những Antinomien của lý tính
con người trong quá trình nhận thức, phân tích cách giải quyết các
Antinomien đó và tính biện chứng còn được thể hiện ở mặt hình thức của các
mối liên hệ các phạm trù, các nhóm phạm trù.
Năm 1997, Viện Triết học và Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã xuất
bản cuốn sách: “I. Kant - người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”. Công

trình tập hợp 29 bài viết của 14 tác giả nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau

6
của triết học Kant. Trong đó các tác giả đánh giá cao công lao của Kant trong
việc đặt ra phép biện chứng siêu nghiệm, khẳng định tính tích cực, năng động
của chủ thể nhận thức, đặc biệt khi chủ thể đó được trang bị bằng một hệ
thống phạm trù tiên nghiệm.
Tại Hội thảo khoa học: “Triết học cổ điển Đức: nhận thức luận và đạo
đức học” (do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội tổ chức, tháng 12 năm 2004), đã có rất nhiều tác giả nghiên
cứu về nhận thức luận của Kant. Những nghiên cứu theo nhiều hướng khác
nhau nhưng đều thừa nhận công lao to lớn của Kant trong lĩnh vực nhận thức
luận, đặc biệt là tư tưởng biện chứng siêu nghiệm của ông với rất nhiều vấn
đề mà cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau và có tính gợi mở
phong phú, sâu sắc.
Trong luận án tiến sỹ triết học “Vấn đề tự ý thức trong lịch sử triết học
phương Tây” (Hà Nội, 2003), tác giả Nguyễn Văn Sanh xem triết học Kant là
sự tự ý thức của lý tính. Tác giả cũng đã làm rõ ý nghĩa các khái niệm như
“tổng giác tiên nghiệm”, “cái Tôi tư duy”, “tự ý thức thuần túy” là gần gũi về
mặt ý nghĩa.
Năm 2004, PGS. TS Đặng Hữu Toàn với bài viết: “Phép biện chứng
tiên nghiệm của I. Kant - học thuyết về lý tính con người” (đăng trên Tạp chí
Khoa học xã hội số 5, tr 35 - 45) đã phân tích khá đầy đủ, sâu sắc về phép
biện chứng siêu nghiệm của Kant. Tác giả đã khẳng định: “Lý tính với tư cách
là khả năng trí tuệ cao nhất của con người được I. Kant xác định là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng tiên nghiệm” [53, tr 37]; với quan niệm này
I. Kant đã phê phán quan niệm của siêu hình học truyền thống về năng lực lý
luận của lý tính, đưa ra nhiệm vụ của lý tính thuần túy, và luận giải ý niệm
tiên nghiệm trong các lĩnh vực tâm lý học, vũ trụ học và thần học. Đặc biệt,
trong bài viết này, tác giả đã trình bày cụ thể sự luận giải của I.Kant về các


7
Antinomi của lý tính con người, đánh giá những giá trị và hạn chế trong phép
biện chứng siêu nghiệm của Kant.
Trong cuốn sách “Học thuyết phạm trù trong triết học I. Kant” (2007),
TS. Lê Công Sự đã cho rằng, “luận điểm xuất phát hay thực chất bước ngoặt
mà Kant muốn thực hiện không phải là cái gì khác ngoài chủ nghĩa duy tâm
tiên nghiệm”. [48, tr 45]. Nguyên nhân dẫn tới điều đó là do Kant đã không
hiểu được ý nghĩa và vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức nói
chung.
Có thể nói, nghiên cứu về triết học Kant luôn thu hút được sự chú ý của
nhiều học giả. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu riêng về phép biện
chứng siêu nghiệm của Kant chưa thực sự nhiều và còn có khá nhiều quan
điểm khác nhau. Do đó, phép biện chứng siêu nghiệm của Kant vẫn luôn là
đối tượng nghiên cứu, luôn là vấn đề có ý nghĩa lý luận cấp bách trong việc
khẳng định tính khoa học, bản chất cách mạng của phép biện chứng duy vật
do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin sáng lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Phân tích phép biện chứng siêu nghiệm của Kant được thể
hiện qua các dạng suy luận biện chứng trong “Phê phán lý tính thuần túy” để
trên cơ sở đó, bước đầu nhận xét những giá trị và hạn chế của nó.
Nhiệm vụ:
- Phân tích những điều kiện và tiền đề hình thành phép biện chứng siêu
nghiệm của Kant trong “Phê phán lý tính thuần túy”.
- Phân tích phép biện chứng siêu nghiệm của Kant được thể hiện qua
các dạng suy luận biện chứng trong “Phê phán lý tính thuần túy”.
- Bước đầu nhận xét về những giá trị và hạn chế trong phép biện chứng
siêu nghiệm của I. Kant.



8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: phép biện chứng siêu nghiệm của I. Kant.
- Phạm vi nghiên cứu: phép biện chứng siêu nghiệm của I. Kant trong
“Phê phán lý tính thuần túy”.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của triết học Mác - Lênin
về triết học như một hình thái ý thức xã hội. Đồng thời luận văn dựa trên
những nghiên cứu của các nhà kinh điển Mác - Lênin về lịch sử triết học nói
chung, về triết học I. Kant nói riêng; các sách, bài nghiên cứu của các tác giả
về triết học cổ điển Đức, triết học Kant như những chỉ dẫn quý báu về mặt
phương pháp luận.
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và so sánh, phân tích
tổng hợp, kết hợp lôgíc và lịch sử, diễn dịch, quy nạp…
6. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở phân tích nội dung căn bản của phép biện chứng siêu
nghiệm trong “Phê phán lý tính thuần túy” của I.Kant, luận văn đánh giá
những giá trị và hạn chế của nó.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đáp ứng phần nào yêu cầu nghiên cứu ngày một tăng đối với
triết học I. Kant ở nước ta. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết.




9

NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
PHÉP BIỆN CHỨNG SIÊU NGHIỆM CỦA I. KANT

1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và tiền đề khoa học, lý luận
cho sự hình thành phép biện chứng siêu nghiệm của I.Kant
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội, là sự kết tinh những tinh hoa tinh thần của một thời đại. Do đó, sự ra
đời và phát triển của mỗi học thuyết triết học luôn luôn chịu sự chi phối và
phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nhất định. Đó chính
là tính quy định lích sử, là cánh cửa đầu tiên vô cùng cần thiết và quan trọng
để bước vào nghiên cứu nguồn gốc, nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của
một hệ thống triết học.
Lịch sử các nước châu Âu thế kỳ XVII – XVIII đã bước sang một giai
đoạn mới. Đặc biệt là vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những
thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã phá tan dần các quan hệ kinh tế phong kiến, làm xuất hiện nhiều
ngành sản xuất mới với các nhu cầu xã hội và cá nhân mới.
Cách mạng công nghiệp Anh như một biến cố kinh tế quan trọng nhất
trong đời sống kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy
vọt của sản xuất, làm tăng trưởng mạnh mẽ trình độ, khối lượng và nhịp độ
sản xuất. Bên cạnh đó, các cuộc Cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở
đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng
Tư sản Pháp (1789 - 1794).

10
Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại.
“Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong

nhận thức thế giới, cách mạng Cách mạng Tư sản Pháp thể hiện khả năng cải
tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn
minh công nghiệp” [16, 8].
Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, hai cuộc cách mạng đó đã có những ảnh
hưởng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, được đánh dấu
bằng một loạt các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra: cách mạng tư sản ở Anh,
Hà Lan, Pháp, Italia…chấm dứt sự thống trị của chế độ phong kiến hàng
nghìn năm gắn với hệ thống thần quyền và giáo luật khắt khe, mở đầu cho sự
ra đời và phát triển của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra đời đem lại một
nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với
tất cả các chế độ xã hội trước đó. Bước chuyển đó đã đem lại cho châu Âu
một diện mạo mới với những thành tựu khổng lồ về kinh tế - xã hội và văn
hóa mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ bình minh đầy tích cách mạng của
chủ nghĩa tư bản. Đó là những tiền đề quan trọng thúc đẩy khoa học nói
chung và triết học nói riêng phát triển. Đặc biệt, đối với triết học, sự chuyển
biến được thể hiện rất rõ. Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, hệ thống thần học
như một chiếc áo được khoác lên, che đậy cho chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa
kinh viện giáo điều với những lý luận hoàn toàn hướng con người tới một thế
giới ảo tưởng, xa rời hiện thực cuộc sống đã bị cởi bỏ và được thay thế bằng
chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy lý. Triết học thâm nhập khám
phá cuộc sống, tìm hiểu những bí ẩn trong lý tính của con người. Các nhà tư
tưởng tư sản đòi trả lại cho con người những quyền mà hệ tư tưởng phong
kiến đang phủ nhận: quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sở hữu riêng của
mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Con người phải vươn tới trí tuệ và
tự do đích thực.

11
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt
công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và nước Pháp nhờ
Cách mạng Tư sản 1789, giai cấp tư bản đã tiêu diệt được chế độ phong kiến,

đang tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, cả châu Âu đang phát triển
nhanh và mạnh mẽ, thì nước Đức vẫn triền miên trong giấc ngủ mùa Đông -
vẫn còn là một nước phong kiến lạc hậu, với chế độ quân chủ chuyên chế
phân quyền, bị phân hóa cả về kinh tế lẫn chính trị. Triết học Kant ra đời
trong điều kiện nước Đức hết sức phức tạp với những mâu thuẫn chồng chéo,
gay gắt không thể dung hòa. Sau khi thất bại trong chiến tranh nông dân
(1525), thế kỷ XVII, nước Đức lại trải qua cuộc chiến tranh 30 năm kéo theo
hậu quả nghiêm trọng là sự tàn phá ghê gớm, nặng nề cả về con người và của
cải. Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một nước nghèo nàn, lạc hậu, phát
triển trì trệ so với các nước Tây Âu chung quanh. Tập đoàn phong kiến Đức
đang thống trị độc đoán và ngoan cố. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức,
thực tế đất nước còn phân thành nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau với
hàng trăm cát cứ phong kiến. Đứng đầu mỗi cát cứ là một chúa đất có quyền
lực vô hạn đối với thần dân của mình. Trong mỗi lãnh địa đều có quân đội,
cảnh sát, tiền tệ và thuế quan riêng. Sự phân tán về kinh tế chính trị cùng với
sự bảo thủ độc đoán của triều đình Phổ là lực cản lớn của nước Đức trên con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Về kinh tế, nền kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến
lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ, những tàn dư của chế độ
nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự phụ thuộc lẫn nhau của nhiều cát cứ
nhỏ bé với các thể chế chính trị phản động đã kìm hãm sự phát triển kinh tế,
làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước phát triển tư bản
chủ nghĩa. Đời sống của nhân dân nghèo nàn, khổ sở. Toàn cảnh kinh tế của
nước Đức bị kìm hãm, manh mún, phân tán với sức phát triển hết sức trì trệ.

12
Về chính trị, đứng đầu triều đình Phổ là Vua Friedrich Wilhem II rất
bảo thủ và độc đoán, tăng cường quyền lực, duy trì chế độ quân chủ phong
kiến hà khắc, ngăn cản đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Giai cấp
tư sản Đức còn non nớt, yếu đuối, chưa có đủ điều kiện để giành chính quyền.

Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng.
Về tư tưởng, hệ tư tưởng thần học chiếm địa vị độc tôn trên vũ đài lý
luận. Khoa học còn bị sa lầy trong thần học. Chủ nghĩa duy vật mới bắt đầu
phát triển nhờ vào thành tựu của vật lý học, sinh học và y học thì đột nhiên bị
chững lại. Thần học được giảng dạy trong các trường đại học tổng hợp. Các
khoa học khác và triết học chỉ là công cụ biện hộ và bảo vệ cho thần học. Các
nhà triết học cổ điển Đức - “các giáo sư chính thức trong các trường đại học
của Vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thỏa hiệp với giai cấp tư
sản, tư tưởng của họ không thể hiện ra thực tiễn cách mạng, họ đã phải phủ
ngoài triết học của mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tư biện nặng nề, xa rời
hiện thực” [16,24]. Triết học thỏa hiệp với tôn giáo, nhượng bộ tôn giáo.
Có thể khái quát bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức đương thời thật u
ám, đen tối như lời đánh giá của Ph. Ăngghen: “Đó là thời kỳ nhục nhã về
mặt chính trị và xã hội…Không ai cảm thấy mình dễ chịu…Mọi cái đều tồi tệ
và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nước. Không có giáo dục,,,không có tự do
báo chí, không có dư luận xã hội – không có gì cả ngoài sự đê tiện và tự tư tự
lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót thảm hại, đã xâm nhập toàn
dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn
lấy một tia hi vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm chí không còn đủ sức
vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi ”. [24, 754].
Trước ảnh hưởng như vũ bão của các cuộc cách mạng tư sản trên thế
giới, đặc biệt là Cách mạng tư sản Pháp (1789), cùng với bối cảnh kinh tế - xã
hội phức tạp, rối ren và đầy mâu thuẫn của nước Đức lúc bấy giờ đã tác động

13
mạnh tới tư tưởng của giai cấp tư sản Đức. Họ đã đặt ra vấn đề cách mạng
nhưng không phải trong thưc tế mà chỉ trong tư tưởng mà thôi. Giai cấp tư sản
non yếu đang trong quá trình tích lũy tư bản vẫn phải dựa vào sự bảo hộ của
quý tộc nên cuộc đấu tranh chính trị mạnh mẽ với giới quý tộc là điều mà họ
chưa thể nghĩ tới. Trước thực tại xã hội đương thời, tầng lớp trí thức Đức đã

xuất hiện tình trạng bi quan, bất mãn và bất lực. Đó chính là nguyên nhân dẫn
tới tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, xuôi chiều, phủ nhận sự cải tạo xã hội cũ
bằng bạo lực cách mạng, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước Phổ và xã hội
đương thời. Họ không dám làm cách mạng trong hiện thực như các nhà tư
tưởng khai sáng Pháp, họ chỉ có thể làm cách mạng trong lý luận trừu tượng,
trong tư tưởng, suy nghĩ. Điều đó thể hiện khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách
mạng về triết học với sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị. Họ lấy
triết học làm vũ khí phê phán và chuyển tải tư tưởng cách mạng. Triết học là
nơi gửi gắm, thể hiện khát vọng cải tạo hiện thực của con người. Sự tìm lối
thoát trong triết học ấy đã được Mác nhận xét: “Giống như các dân tộc cổ đại
đã trải qua thời kỳ tiền sử của mình trong tưởng tưởng, trong thần thoại,
những người Đức chúng ta cũng vậy, chúng ta đang trải qua lịch sử tương lai
của chúng ta trong tư tưởng, trong triết học…Triết học Đức là sự tiếp tục của
lịch sử Đức trong ý niệm” [24, 557]. “Cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ
XVIII, cách mạng triết học Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước cuộc cách mạng
chính trị” [29, 391], nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách
mạng, giai cấp tư sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong
kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc
giải quyết những vấn đề phát triển đất nước.
Tính chất cải lương và thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí
thức Đức đương thời đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Kant. Kant là một người
chỉ nghiên cứu khoa học và triết học, bận rộn với công việc giảng dạy, sống

14
khép kín, ít quan tâm tới chính trị và ngại sự đụng chạm đến chính quyền nhà
nước. Nhưng ông lại có một tấm lòng nhân đạo cao cả, có thiện cảm với quần
chúng lao động nghèo khổ. Trong suy nghĩ của nhà triết học diễn ra mâu
thuẫn với câu hỏi: cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được hai mục
đích: 1) nói lên tư tưởng khoa học, đề cao vai trò của lý tính, phản ánh nguyện
vọng muốn thay đổi chế độ quân chủ chuyên chế hà khắc bằng một xã hội dân

chủ tư sản, đem lại quyền lợi đích thực cho mọi công dân xã hội; 2) làm vừa
lòng chính thể nhà nước hiện tồn. Mâu thuẫn tâm lý đó chuyển thành mâu
thuẫn tư tưởng và biểu hiện một cách cụ thể trong học thuyết triết học của
Kant, đúng như lời nhận xét của Giáo sư Trần Đức Thảo: “Sự bất lực trong tư
tưởng của Kant phản ánh sự bất lực của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ
thống châu Âu đã tiến bộ nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản”
[50,390]. “Tư tưởng của Kant biểu hiện những ưu và khuyết điểm của cách
mạng tư sản một cách đúng đắn” [50, 419]. Dưới sự tác động của cả hai sức
ép: một bên là sự cổ vũ mạnh mẽ của các nhà khai sáng, cách mạng tư sản
Pháp - những tư tưởng tiến bộ; một bên là sức ép chính trị của chính quyền
chuyên chế Phổ đương nhiệm với các chính sách trừng trị hà khắc đối với
những học giả có tư tưởng chống đối nhà nước, Kant cũng đã chọn con đường
cải lương, thỏa hiệp với luận điểm: “Tôi phải dẹp bỏ nhận thức đi để dành chỗ
cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu hình học” [17, 55].
Tóm lại triết học Kant là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã
hội Đức đầu thế kỷ XVIII, nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội
Đức với những mâu thuẫn phát sinh khó có thể điều hòa trong lòng xã hội đó.
1.1.2. Tiền đề khoa học tự nhiên
Bất kỳ một học thuyết triết học nào không bao giờ ra đời trên mảnh đất
hiện thực trống không, mà nó còn là sự kế thừa, tiếp tục phát triển những tư
tưởng trước đó của nhân loại. Triết học Kant không chỉ hình thành trong bối

15
cảnh lịch sử rối ren, phức tạp của nước Đức thế kỷ XVIII mà còn là sự tiếp
thu những tinh hoa tư tuởng của thời đại. Trước hết, cần phải đề cập tới
những thành quả trong khoa học tự nhiên - những yếu tố tác động trực tiếp tới
sự hình thành thế giới quan, phương pháp luận, quan điểm của các nhà triết
học. Triết học và khoa học tự nhiên luôn gắn bó song hành với nhau, tác động
qua lại với nhau một cách biện chứng, cùng phát triển. Những thành tựu,
những phát minh, sáng tạo trong khoa học tự nhiên đã cung cấp cho triết học

những tư liệu sinh động, những bằng chứng cụ thể làm cơ sở để từ đó triết học
khát quát thành những khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý, đồng thời
khoa học tự nhiên cũng tạo tiền đề để triết học xây dựng những phương pháp
nhận thức: siêu hình, biện chứng, quy nạp, diễn dịch…Trong quá trình phát
triển, những khám phá, phát hiện mới của khoa học tự nhiên đã đặt triết học
trước những vấn đề lý luận mới, yêu cầu phải có những lý giải phù hợp với
những phát minh khoa học trong nhận thức và giải thích thế giới. Có thể nói,
Kant là một minh chứng điển hình cho điều đó. Kant nghiên cứu về vật lý
học, khoa học tự nhiên và địa chất, ông dạy môn địa lý tự nhiên trong suốt 4
thập niên. Nhưng Kant không phải là nhà nghiên cứu khoa học mà là một triết
gia về khoa học tự nhiên. Hệ thống triết học của ông chịu ảnh hưởng trực tiếp
của sự phát triển vượt bậc của khoa học tự nhiên, như chính ông từng khẳng
định: “Con đường triết học phải đi là con đường của sự minh triết, đồng thời
cũng là con đường của khoa học mà một khi đã được khai phá sẽ không bao
giờ để cho bị vùi lấp lại và làm ta lạc hướng” [17, 1185].
“Sự tiến bộ của khoa học tự nhiên, kỹ thuật và y học cũng như sự vén
mây ảo thuật của thiên nhiên qua những thành tựu khoa học” [17, XXXII]. Sự
phát triển của khoa học tự nhiên được mở đầu bởi các nhà thông thái Hy Lạp
như Talet, Pitago, Ơclit, Acsimet với các khám phá thiên tài về lĩnh vực toán
học, thiên văn học, vật lý học. Nhà thông thái đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ

16
đại đã phát minh ra các định lý hình học rất có giá trị và được Pitago tiếp tục
phát triển. Tư duy toán học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao trong 13 cuốn “Cơ sở
hình học” của Ơclit đã tạo nên cả một thời đại phát triển rực rỡ của hình học.
Đó là những chuẩn mực tri thức có giá trị cho quá trình xây dựng và phát triển
khoa học toán học sau này. Acsimet là người đã áp dụng những tri thức toán
học vào hành động thực tiễn và thấy rằng toán học có vai trò vô cùng to lớn,
là chìa khóa vạn năng giải quyết được mọi vấn đề. Những tư tưởng ấy đã đặt
nền móng cho toàn bộ hệ thống toán học cũng như khoa học tự nhiên phương

Tây. I.Kant trong quá trình nghiên cứu toán học đã rất lưu ý đến những tri
thức toán học nói trên. Ông nhận xét: “Từ thời rất xa xưa mà lịch sử của lý
tính con người có thể vươn tới, toán học đã đi con đường vững chắc của một
khoa học nơi dân tộc Hy Lạp đáng ngưỡng mộ…một ánh sáng đã lóe lên
trong đầu óc người đầu tiên (đó là Thales hay có thể một tên tuổi nào khác)
khi ông chứng minh tam giác cân. Đó là khi ông thấy rằng không thể dựa vào
những gì ông nhìn thấy trong hình tam giác, hay dò theo khái niệm đơn thuần
về nó để từ đó rút ra các đặc điểm, trái lại phải tạo ra hình tam giác từ những
gì tự ông nghĩ ra một cách tiên nghiệm dựa theo các khái niệm, và diễn tả nó
(bằng sự cấu tạo - Konstruktion); và thấy rằng để nhận thức chắc chắn về cái
gì một cách tiên nghiệm, ông không cần phải gán cho sự vật những thuộc tính
nào khác ngoài những gì được tất yếu rút ra từ cái mà bản thân ông đã đặt vào
trong sự vật, phù hợp với khái niệm của ông về nó” [17, 40-41]. Nhận xét
trên của Kant đã cho thấy ông tin rằng những định lý, tiên đề toán học cũng
giống như các khái niệm, phạm trù triết học không phải được khái quát lên từ
những kết quả của sự nghiên cứu, khảo sát trong thực tế, từ kinh nghiệm cảm
tính, mà ngược lại đó là những điều tiên nghiệm có sẵn trong giác tính của
con người. Kant đã trượt sang con đường của chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm,
xa rời tính chất duy vật được thể hiện trong toán học thời Hy Lạp.

17
Sự phát triển của khoa học tự nhiên thời kỳ tiếp theo có ảnh hưởng sâu
sắc tới tư tưởng của Kant. Những phát minh vạch thời đại của khoa học đã tạo
nên những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhận thức nhân loại. Năm
1543 tại Ba Lan, nhà thiên văn học Copernic đã đưa ra tác phẩm “Về sự vận
động của các thiên thể” với thuyết nhật tâm trực tiếp công kích, phản bác lại
thuyết địa tâm do Arixtốt khởi xướng, Ptomele phát triển ở thời cổ đại. Thay
vì trái đất là trung tâm, mặt trời và các thiên thể quay quanh trái đất như
chúng ta quan sát thấy; thì Copernic đảo ngược lại với quan niệm dựa vào
những nghiên cứu khoa học của ông là mặt trời đứng yên và là trung tâm của

vũ trụ, trái đất và các thiên thể khác quay xung quanh mặt trời. Phát hiện đó
không chỉ có ý nghĩa trong khoa học tự nhiên mà còn làm nền tảng cho bước
ngoặt trong sự phát triển của triết học. “Trong lịch sử triết học triết học gọi đó
là “cuộc cách mạng Copernic về lề lối tư duy” [17, 41]. Kant cho rằng
phương pháp của Siêu hình học “đến nay chỉ là sự mò mẫm đơn thuần, và
càng tệ hại hơn, chỉ là sự mò mẫm giữa những khái niệm suông mà thôi” [17,
43]. Do đó, tư duy triết học cần phải tiến hành một cuộc đảo lộn như Copernic
đã từng làm. Ông viết: “Siêu hình học như là các tri thức lý tính, ít ra cũng
nên thử mô phỏng điểm cốt yếu này. Lâu nay người ta giả định rằng mọi
nhận thức của ta phải hướng theo các đối tượng; thế nhưng mọi nỗ lực
dùng các khái niệm để xử lý đối tượng một cách tiên nghiệm hầu qua đó mở
rộng nhận thức của ta đều đi đến thất bại cũng tại vì giả định này. Vì thế hãy
thử nghiệm để biết đâu chúng ta có thể tiến lên tốt hơn trong việc giải quyết
các vấn đề của Siêu hình học bằng cách giả định rằng các đối tượng phải
hướng theo nhận thức của ta; nhận thức ấy sẽ phù hợp tốt hơn với khả thể
được đòi hỏi của một nhận thức tiên nghiệm về đối tượng, tức loại nhận thức
xác định một cái gì đó về đối tượng trước khi đối tượng được mang lại cho ta.
Đó cũng chính là tình hình đã xảy ra với ý tưởng đầu tiên của Copernic”[17,

18
44]. Kant thực sự đã thực hiện một cuộc đảo lộn Copernic trong triết học của
mình, đặt nền móng cho sự chuyển hướng trong triết học cổ điển Đức sau
này.
Sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên tới triết học nói chung và sự lựa
chọn đi theo chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Kant nói riêng đã được ông
đề cập tới trong “Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai (1787)” cho cuốn “Phê
phán lý tính thuần túy”: “Khi Galilei cho những viên bi có trọng lượng do ông
tự lựa chọn trượt xuôi theo một mặt phẳng nghiêng, hay Torricelli để cho
không khí mang một trọng lượng mà ông tự nghĩ ra từ trước ngang bằng với
trọng lượng của một cột nước đã biết, hay muộn hơn, khi Stahl chuyển hóa

kim loại thành vôi và lại chuyển hóa vôi thành kim loại bằng cách rút bớt đi
và cho thêm trở lại một cái gì đấy nơi chúng, thì cũng có một tia sáng lóe lên
trong đầu óc của mọi nhà nghiên cứu tự nhiên. Họ hiểu ra rằng lý tính chỉ
nhận ra những gì do bản thân nó tạo ra theo phác họa của nó…bắt buộc tự
nhiên phải trả lời cho các câu hỏi của nó, chứ không chỉ chịu để cho tự nhiên
dẫn dắt” [17, 41-42].
Bức tranh văn hóa - khoa học châu Âu cuối thế kỷ XVIII đã có nhiều
khởi sắc, nhiều phát minh khoa học mới ra đời. Những tiến bộ đáng kể của
khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVII - XVIII. Năm
1687, nhà toán học, triết học người Anh Niutơn với cuốn “Nguyên tắc toán
học” đã đề cập tới sự vận động của các thiên thể trên phương diện toán học,
đặc biệt là sự áp dụng động lực học và định luật vạn vật hấp dẫn vào hệ thống
mặt trời. Điều đó đã ảnh hưởng tới Kant. Ông cho rằng, phương pháp của
Niutơn là một phương pháp đáng tin cậy - dựa vào kinh nghiệm và hình học.
Kant nhận thấy triết học cũng giống khoa học tự nhiên phải dựa vào những
kinh nghiệm cảm tính, quan sát thực nghiệm và cả lý tính trong đó lý tính

19
đóng vai trò quan trọng nhất. Niutơn (Anh), Đềcáctơ (Pháp), Lepnit (Đức) đã
đưa toán học vận dụng vào sản xuất và đời sống xã hội, đối tượng của toán
học vượt ra khỏi dạng tĩnh, vươn sang dạng động.
Các nhà khoa học đã chỉ ra một cách hệ thống những hình thức vận
động của vật chất vượt lên trên cách hiểu cơ học, lý học, hóa học, sinh học.
Việc phát minh ra điện và sử dụng điện năng đã góp phần tạo ra bước nhảy
vọt của phát triển sản xuất từ công trường thủ công tới công trường cơ khí,
đồng thời chứng thực những phát triển đầu tiên của khoa học về sự bảo toàn
và biến hóa năng lượng và vật chất của vũ trụ. Lômônôxốp chứng minh bằng
thực nghiệm luật “Bảo toàn và chuyển hóa năng lượng”. Nhà hóa học Pháp
Lavoarê, dựa vào những phát minh hóa học, bác bỏ quan niệm về sự tồn tại

của một vật chất đặc biệt: chất cháy không trọng lượng, đặt nền móng cho sự
cháy và ôxy hóa nói chung. Sau sự sụp đổ của thuyết chất cháy, khoa học tự
nhiên dù chưa bác bỏ hết những “chất không có trọng lượng” khác như “chất
nhiệt”, “chất ánh sáng”, “chất âm thanh”… nhưng đã khám phá ra rằng, nhiệt,
ánh sáng, âm thanh… đều là những hình thức vận động khác nhau của vật
chất. Với nguyên lý cấu tạo hóa học khác nhau của vật thể do Đantơn khám
phá ở Anh, người ta đã giải thích được rằng những thay đổi về chất của vật
thể đều phụ thuộc vào cấu tạo lượng của nó. Sự phân tích quá trình hóa học đã
làm thay đổi quan niệm máy móc coi vận động chỉ là sự chuyển dịch đơn giản
của sự vật.
Gơtơ nêu lên nhiều quan niệm tiên tiến về giải phẫu học so sánh và về
địa chất học. Nghiên cứu vật hóa thạch trong lòng đất, Cuviê chứng minh giới
thực vật và động vật đều có sự phát triển theo quá trình địa chất của trái đất.
Tiến hóa luận của Lamác và Vônphơ bác bỏ “dự thành luận” với quan niệm
cho rằng mọi sinh vật sinh ra đều có dự định sẵn, đều nhất thành, bất
biến,…cùng với việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhúc đòi hỏi phải có cách lý

20
giải mới về sự sống. Sau đó là thuyết tiến hóa của Đácuyn ra đời tạo nên một
bước ngoặt trong nhận thức về nguồn gốc các loài. Trong sinh học có dự báo
về sự phát triển trong sinh học - bào thai đã mang trong nó mọi dấu hiệu của
một sinh vật đã trưởng thành, do đó không có gì mới xuất hiện mà không có
nguồn gốc của nó.
Vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học một lần
nữa được Ph.Ăngghen đánh giá trong tác phẩm “Lútvich Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức”: “Trong suốt thời kỳ lâu dài từ Descartes
đến Hegel, từ Hobbes đến Feuerbach, cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên
hoàn toàn không phải là sức mạnh của tư duy thuần túy như họ tưởng tượng.
Trái lại cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ,
ngày càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của

công nghệ” [29,407].
Các phát minh trên như những đòn đánh mạnh vào siêu hình học thế kỷ
XVII - XVIII, dóng một hồi chuông báo hiệu cho ngày tận số của siêu hình
học cũ - mở đầu cho kỷ nguyên của phép biện chứng. Những thành tựu đó
chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chin muồi cho sự tổng kết biện chứng, nó cần
xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương pháp biện chứng
- để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan. Điều đó
được phản ánh vào trong tư tưởng, trong triết thuyết của các nhà triết học, và
là những tiền đề cho tư tưởng biện chứng thiên tài của Kant. Nếu ở thế kỷ
XVII, những nhà khoa học tự nhiên bắt đầu từ F.Bêcơn và G. Galilê xây dựng
một cách tự phát phương pháp siêu hình cho sự nhận thức khoa học, thì ở cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức bắt đầu từ Kant xây dựng
phương pháp biện chứng cho khoa học trên cơ sở duy tâm.
1.1.3. Tiền đề lý luận

21
Nằm trong lòng của thời Cận đại nước Đức với những điều kiện kinh tế
- xã hội kém phát triển nhưng “triết học Kant đã xuất hiện với ánh sáng tân kỳ
của một tư tưởng “tân tiến” [17, L - Dẫn luận, Thái Kim Lan]. Lịch sử tư
tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong
lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn, nếu nó biết tiếp thu thành tựu
mọi mặt của các nước tiến bộ khác. Ở Pháp vào thế kỷ XVIII, nền kinh tế
kém phát triển hơn Anh, nhưng lại hình thành chủ nghĩa duy vật F. H.
Honbach, C. A. Henvetiut, R. Điđrô…do dựa trên những thành tựu của chủ
nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII và chủ nghĩa duy vật Hà Lan (Xpinôza). Nước
Đức cũng nằm trong sự phát triển tư tưởng vượt thời đại ấy. Kinh nghiệm lịch
sử của cuộc Cách mạng Anh thế kỷ XVII, cũng như của Cách mạng Pháp thế
kỷ XVIII, đã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nước Đức cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Triết học cổ điển Đức đã tiếp thu di sản tư tưởng
phong phú của triết học nhân loại: sự thông thái trong triết học Hy Lạp, tư

tưởng của các nhà khai sáng Anh và Pháp, khắc phục những sai lầm về hàng
loạt phương diện vốn có ở họ. Chính điều này đã trở thành một trong những
tiền đề quan trọng nhất cho sự phát triển phép biện chứng trong triết học cổ
điển Đức mà người khởi xướng là Kant. Kant đã phát triển triết học của ông
như là kết quả của quá trình tiếp thu và phê phán nhiều trào lưu triết học trong
quá khứ và đương thời.
Triết học Hy Lạp cổ đại là điểm khởi nguồn, gợi mở ra nhiều vấn đề
làm cơ sở lý luận cho triết học phương Tây nói riêng và toàn bộ triết học sau
này. Đặc biệt là những tư tưởng biện chứng sơ khai đầu tiên đã được các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đưa ra tuy có tính tự phát nhưng thực sự là những tiền
đề lý luận quan trọng cho sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong tiến
trình lịch sử nhân loại.

22
Tư tưởng biện chứng có nguồn gốc lịch sử từ học thuyết của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại. “Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà
biện chứng tự phát bẩm sinh” [28, 34]. Có thể nói, phép biện chứng Hy Lạp
cổ đại phải là một giai đoạn mang tính xuất phát điểm đối với sự phát triển
của triết học Tây Âu trong quá trình lý giải về môn khoa học về các quy luật
phổ biến, về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Định
hướng biện chứng tự phát của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cũng thể hiện
rõ ở việc lý giải tự nhiên về thế giới con người với tư cách là kết quả của sự
kết hợp khác nhau giữa các mặt đối lập.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra các tư tưởng biện chứng sâu sắc nhất
trong suốt toàn bộ lịch sử triết học cổ đại. Đây là giai đoạn triết học tự nhiên
thấm đượm tinh thần của phép biện chứng ngây thơ, khi mà thế giới, giới tự
nhiên được xem như là một chỉnh thể không thể phân chia, tức là như nó đã
thể hiện ra qua sự quan sát trực tiếp…dường như đã chứa đựng những mầm
mống cho học thuyết cơ bản sau này về các bản nguyên và những yếu tố đầu
tiên của tự nhiên.

Platon (427 - 347TCN) là nhà triết học duy tâm khách quan, học thuyết
về ý niệm của ông chứa đựng những nội dung sâu sắc. Học thuyết về ý niệm
của Platon có những đóng góp cho tư tưởng biện chứng siêu nghiệm của I.
Kant. Platon đã thể hiện một bước vô cùng quan trọng trong bước chuyển triết
học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khái niệm Thế giới ý niệm và thế giới các sự
vật (hay thế giới có trước và thế giới có sau) trong triết học duy tâm khách
quan của Platon có những nét tương đồng so với thế giới vật tự nó và thế giới
hiện tượng trong triết học duy tâm chủ quan tiên nghiệm của Kant. Platon cho
rằng ý niệm là những tri thức vốn có sẵn của tư duy loài người và không phụ
thuộc vào kinh nghiệm cảm tính. Còn với Kant, ý niệm được hiểu là giai đoạn
phát triển cao nhất của khái niệm, ý niệm là các phạm trù của lý tính và ý

23
niệm cao nhất trong triết học Kant chính là Linh hồn, Thượng đế, Tự do -
thuộc về thế giới vật tự nó.
Aristote (384 – 322 TCN) - bộ óc toàn thư của triết học cổ đại Hy Lạp,
người đầu tiên khám phá ra những quy lật sơ đẳng của tư duy biện chứng.
Aristote phê phán mạnh mẽ học thuyết của Platon về các ý niệm. Ông cho
rằng các ý niệm của Platon không thể là công cụ để nhận thức thế giới bởi vì
chúng hoàn toàn biệt lập với quá trình sinh thành, vận động, phát triển của sự
vật cảm tính. Theo Aristote, thế giới hiện thực vốn rất phong phú và đa dạng
nhưng con người có thể khái quát, quy sự đa dạng đó thành các phạm trù
chung. Ông đã xây dựng hệ thống 10 phạm trù: bản chất, số lượng, chất
lượng, quan hệ, không gian, thời gian, tình trạng, sở hữu, hành động, chịu
đựng. Đặc biệt hai phạm trù không gian và thời gian sau này được Kant đề
cập tới rất nhiều và mang tính tiên nghiệm. Aristote đã tạo nên một bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử nhận thức. Dựa trên quan điểm duy vật, ông đã
nhận thấy mối quan hệ giữa hiện thực khách quan và phạm trù, coi phạm trù
như là công cụ và hình thức để nhận thức thế giới. Và chính điều đó đã được
Kant kế thừa và phát triển trong học thuyết của mình.

Thời kỳ Trung cổ, những yếu tố biện chứng sơ khai ban đầu dần bị bỏ
quên, triết học khoác lên mình chiếc áo siêu hình học, giáo điều. Vấn đề về
mối quan hệ giữa cái chung (khái niệm, phạm trù) - cái riêng (sự vật cảm tính)
đã tạo nên cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học duy danh và triết học
duy thực xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học Trung cổ. Đứng trước cuộc luận
chiến giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực, Tômát Đacanh (1225 -
1274) đã đứng trên lập trường chiết trung để giải quyết mối quan hệ giữa
khái niệm (cái chung) và các sự vật cảm tính (cái riêng). Theo ông, khái niệm
có trước các sự vật cảm tính trong ý tưởng của Thượng đế tồn tại như là
những khuôn mẫu có sẵn, lý tưởng của các sự vật cảm tính; khái niệm hiện

×