Xét về mặt tổng thể, việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo thêm thế và lực của nước
ta trên trường quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi hơn để nước ta mở rộng thị trường, nâng cao
kim ngạch XK; đã góp phần quan trọng giúp nước ta đạt được những thành tựu khá quan
trong trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu trình độ khoa học công nghệ, nâng
cao kỹ năng quản lý, đào tạo nguồn nhân lực... Điều này mang đến cho Việt Nam nhiều cơ
hội để phát triển nền kinh tế nói chung và thương mại nói riêng.
Tính đến nay, các cam kết của Việt Nam với WTO đã có hiệu lực được gần một năm.
Trong thời gian ngắn đó, "liều thuốc bổ WTO" chưa đủ ngấm để làm chuyển biến toàn bộ
nền kinh tế - thương mại Việt Nam; bởi vì sự phát huy tác dụng của bất kỳ chính sách nào
dù hiệu quả đến mấy cũng cần phải có thời gian; nhiều cam kết chưa có hiệu lực ngay mà
phải sau một thời gian nhất định mới có hiệu lực và nhiều cam kết chúng ta vẫn chưa có
quy định và hướng dẫn cụ thể.
I- Đánh giá tổng quát tình hình phát triển thương mại năm 2007 trên các lĩnh vực
xuất NK, thị trường nội địa,hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài:
Trong năm 2007, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự bất ổn chính trị kéo dài
tại khu vực Trung Đông, giá nguyên nhiên vật liệu như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất
dẻo, giấy, bông, sợi.v.v. liên tục thay đổi ở mức cao; đồng đô la Mỹ giảm giá mạnh, gây áp
lực làm tăng giá đầu vào của sản xuất trong nước, tăng giá tiêu dùng và có tác động tương
đối lớn đến XK. Trong nước, nền kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức
như thiên tai gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trong cả nước, dịch bệnh trên cây trồng và
gia súc, gia cầm; những biến động bất thường về giá cả.v.v.
Trong tình hình đó, Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương đã
tập trung mọi nỗ lực điều hành kinh tế, thương mại khắc phục mọi khó khăn, thúc đẩy
thương mại liên tục phát triển và đạt được mục tiêu đề ra, thể hiện như sau:
1. Xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Năm 2007, tổng kim ngạch XK hàng hoá đạt trên 48 tỷ USD, tăng 20,5 - 21% so
với năm 2006, trong đó XK vào khu vực thị trường châu Á và châu Đại Dương đạt khoảng
19,5 tỷ USD, tăng 14,0%; Khu vực thị trường châu Âu đạt khoảng 9,52 tỷ USD, tăng
19,0%; Khu vực thị trường châu Mỹ đạt khoảng 11,66 tỷ USD, tăng 28,0%; Khu vực thị
trường châu Phi, Tây Á và Nam Á đạt khoảng 1,824 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2006.
So với năm 2006, trong năm 2007, nhịp độ tăng trưởng kim ngạch XK tiếp tục
được duy trì ở mức cao, nhiều mặt hàng nông sản gặp thuận lợi về giá và thị trường XK.
Nhịp độ tăng kim ngạch XK của khu vực các DN có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục
tăng cao hơn so với mức tăng trưởng bình quân chung của cả nước và mức tăng trưởng của
khu vực các DN 100% vốn trong nước và trở thành động lực quan trọng đối với tăng
trưởng XK chung của cả nước.
Nhóm hàng có nhịp độ tăng trưởng XK cao và có giá trị XK lớn là nhóm hàng công
nghiệp và chế biến như: thuỷ sản, dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản
phẩm gỗ... Nhóm hàng cà phê, hạt tiêu, sản phẩm nhựa có nhịp độ tăng trưởng XK cao hơn
mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra từ đầu năm. Bên cạnh đó, tuy từ đầu năm Nhà nước đặt
mục tiêu giảm nhịp độ tăng trưởng, nhưng trong thực hiện nhóm hàng nguyên liệu và
khoáng sản vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Điều đáng chú ý, nhóm các mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD đã có 10 thành viên.
Ngoài 9 nhóm hàng quen thuộc thì đã xuất hiện thêm nhóm sảm phẩm cơ khí. Trong đó có
3 nhóm hàng trên 3 tỷ USD, 2 nhóm hàng trên 2 tỷ USD. Cụ thể, thủy sản đạt 3,75 tỷ
USD; gạo 1,48 tỷ USD; cao su 1,41 tỷ USD; dầu thô 8,4 tỷ USD; dệt may 7,7 tỷ USD; giày
dép 3,9 tỷ USD; điện tử và linh kiện máy tính 2,2 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,34 tỷ USD. Đặc
biệt, nhóm sản phẩm cơ khí đã có sự tăng trưởng rất mạnh từ xấp xỉ 1 tỷ USD năm ngoái
lên 2,2 tỷ USD trong năm nay.
Xét về tốc độ tăng trưởng thì sản phẩm cơ khí "vô địch" với mức tăng 120%. Đới
với cà phê, dù sản lượng xuất khẩu giảm 22,3% nhưng do được giá nên giá trị tăng 50%.
Dệt may cũng có mức tăng trưởng mạnh, tới 32%. Tuy nhiên, một số nhóm hàng chủ lực
như dầu thô lại giảm 7,4% so với năm ngoái.
Thị trường XK hàng hóa của nước ta có sự tăng trưởng không đều, trong khi thị
trường ASEAN, EU, Mỹ đạt nhịp độ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng
khác có nhịp độ tăng trưởng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Ôxtrâylia.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch NK hàng hóa cả năm 2007 dự kiến sẽ đạt mức khoảng 59 tỷ USD, tăng
khoảng 31,4% so với năm 2006. Kim ngạch NK từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng 20% và từ
ASEAN chiếm tỷ trọng 23%, làm cho Trung Quốc và ASEAN vẫn là những thị trường
nhập siêu lớn của nước ta, là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tổng nhập siêu năm 2007
khoảng 11 - 12 tỷ USD, bằng 22,9 - 25% tổng kim ngạch XK hàng hoá chung của cả
nước.
Nhịp độ NK có xu hướng tăng dần trong những tháng cuối năm. Các mặt hàng NK
có kim ngạch tăng mạnh đều là nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất và đầu tư trong
nước. Một số mặt hàng là nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, tuy trong nước đã sản xuất
được, nhưng vẫn có nhịp độ tăng NK lớn như linh kiện và phụ tùng xe gắn máy, thép thành
phẩm, thức ăn gia súc và nguyên liệu, lúa mì.
Nhập siêu tăng mạnh là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý. Nhập siêu cả năm
2007 đã lên đến 10 tỷ USD, tăng trên 70% so với cùng kỳ năm 2006. Bộ Công thương cho
biết, đây là mức nhập siêu cao nhất so với nhiều năm gần đây. Các mặt hàng nhập khẩu
lớn, có mức tăng mạnh bao gồm: ô tô nguyên chiếc tăng 132%, linh kiện ôtô tăng 64%,
thép tăng 56,4%, phôi thép tăng 37%, máy móc và thiết bị phụ tùng tăng 54%...
Theo Bộ Công thương, nhập siêu tăng mạnh trước hết là do nhu cầu nhập khẩu để
phục vụ sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển kinh tế tăng mạnh. Với một nền kinh tế tăng
trưởng cao đến 8,6%, thu hút đầu tư nước ngoài tăng mạnh thì việc nhập khẩu máy móc
thiết bị là rất lớn.
Bên cạnh đó là nhu cầu nhập khẩu phục vụ xây dựng các kế hoạch và công trình
trọng điểm như mua máy bay, nhập khẩu để phục vụ xây dựng các công trình dầu khí, nhà
máy điện, đóng tàu... Ngoài ra, giá các mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu tăng cao cũng
khiến cho kim ngạch nhập khẩu tăng lên đáng kể. Cụ thể, trong năm 2007, giá thép đã tăng
thêm bình quân 93 USD/tấn, chất dẻo tăng 1Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của việc cắt giảm
thuế, nhu cầu tiêu dùng và sức mua trong nước tăng cao. Điều này có thể nhìn thấy rõ ở tốc
độ gia tăng nhập khẩu các mặt hàng như nguyên liệu dệt may, giày dép, ô tô, điện tử... đã
góp phần khiến nhập siêu tăng mạnh hơn.
Về sâu xa, nhập siêu tăng cao có nguyên nhân là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp
hơn tốc độ nhập khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu phục vụ nhu cầu sản xuất và đầu tư
phát triển tăng cao thì khối lượng và giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực nhất là hàng
hóa thuộc nhóm nguyên nhiên liệu lại có xu hướng giảm, các nhóm hàng công nghiệp chế
tạo được kỳ vọng lại chưa có sự tăng trưởng bứt phá. Điều này cũng thể hiện một thực tế là
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Điều đang mừng là do đa số các mặt hàng tiêu dùng phổ thông đã được sản xuất
trong nước, đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu tiêu dùng của nước ta và còn dư thừa cho XK
NK, nên các mặt hàng tiêu dùng NK chỉ tăng với giá trị tuyệt đối nhỏ, chiếm tỷ trọng thấp
trong tổng kim ngạch NK.
2. Về thị trường nội địa:
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ toàn xã hội
năm 2007 ước đạt 708.480 tỷ đồng, tương đương 44 tỷ USD, tăng trên 22% so với năm
2006. Giá nhiều mặt hàng tiêu dùng ở thị trường nội địa chịu ảnh hưởng của diễn biến tăng
giá trên thị trường thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng CPI cả năm 2007 ước tăng trên 10 -
10,5%, cao hơn nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói, thị trường trong nước năm 2007 phát triển sôi động với nhiều chủng
loại hàng hoá đa dạng, phong phú, phương thức mua bán ngày càng phát triển theo hướng
văn minh, hiện đại, đang trở thành nguồn động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng của
nền kinh tế nước ta. Các mặt hàng trọng yếu bảo đảm cân đối cung cầu, hệ thống phân
phối phát triển khá.
Tuy nhiên, thị trường tiềm ẩn nhiều yếu tố tác động bất lợi đến nền kinh tế như giá
cả biến động cần phải có nhiều nổ lực để kiểm soát; công tác quản lý thị trường còn nhiều
hạn chế, nhiều khâu còn buông lỏng quản lý như lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, xử lý
việc kinh doanh hàng kém hoặc hàng mất phẩm chất, hàng nhái, hàng giả... chưa triệt để;
hạ tầng thương mại tuy đã được chú ý đầu tư nhưng còn manh mún, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển.
3. Về hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
a. Hội nhập kinh tế quốc tế:
Năm 2007 là năm đầu tiên thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), là điểm sáng trong hoạt động đối ngoại của Chính phủ, là năm tôn vinh
những đóng góp của các Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương trong tiến trình thực hiện
các cam kết của nước ta trong việc gia nhập WTO. Trong năm 2007 và những năm tiếp
theo, Bộ Công Thương và các cơ quan chức năng phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các chủ
đề quan trọng của WTO; phổ biến các quy định của WTO và thực thi các cam kết của Việt
Nam.
Trong hợp tác với ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức khác, Việt Nam đã có những
đóng góp tích cực, tương đối lớn về hội nhập kinh tế quốc tế, đã đẩy nhanh tiến trình hội
nhập trong và ngoài khối, nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế. nay.
b.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
Với việc coi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, sau 20 năm thu hút đầu tư
(1988-2007), VN đã gặt hái được những thành công ngoài mong đợi.
Đặc biệt cùng với việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết quốc tế, VN đã
chứng kiến một "làn sóng đầu tư thứ hai" hết sức mạnh mẽ kể từ năm 2006 đến nay, mà
đỉnh cao là 20,3 tỉ USD thu hút trực tiếp FDI trong năm 2007.
"Ngôi sao" đang lên"
Sau thời kỳ "bùng nổ" ĐTNN tại VN (1991-1996) được xem như "làn sóng ĐTNN"
đầu tiên vào VN, với tổng vốn đăng ký 28,3 tỉ USD, gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn,
nguồn vốn ĐTNN bị suy giảm vào năm 1997 do khủng hoảng tài chính khu vực và phục
hồi mạnh mẽ kể từ năm 2004 đến nay.
Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể
(32,3 tỉ USD), với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu vào những lĩnh
vực chúng ta chủ trương thu hút đầu tư như công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm
công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ
cao cấp v.v...), báo hiệu "làn sóng ĐTNN" thứ hai vào VN.