Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.54 KB, 5 trang )

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, quy
định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý; sự hình thành và phát của lý
luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và
phát triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.
Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển.
Thực tế lịch sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc
chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới
khách quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh,
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa để xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn
cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý
luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt
động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình hoàn thiện bản thân con người.
Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “
Từ
trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với
tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta
biến đổi tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã
phát triển song song với việc người ta người đã học cải biến tự nhiên
”[1].
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc
có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý luận khoa học ra đời vì chúng cần
thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách khác, thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý
luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành
động thực tiễn của quần chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, đáp ứng
được những đòi hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới


mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những
vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm
đổi mới, v.v Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác
viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải
là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý”
[2]
.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm.
Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một
cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là
tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác nhận được
chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im một chỗ mà biến đổi và phát
triển; thực tiễn là một qúa trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những chân vĩnh viễn, tuyệt
đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện
nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một
giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc
quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa
giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát
thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đôi với hành. Nếu
xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp cho thực
tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này,
hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải

nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn
đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn
lao của lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”
[3]
.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". Lý luận có thể dự kiến được sự
vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có
hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con ngươi nên chủ
động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mậm, tự phát. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái
quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra
đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví "không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi".
[4]
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực, do sự chi
phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học nên lý luậncó nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng,
giáo điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách
mạng không phải là giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động cách mạng; và lý luậnkhông lại là một cái gì
cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luậnluôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực
tiễn sinh động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì
sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có
lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luậnsuông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luậnvà
thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sự xã hội để xây dựng nên hệ thống lý
luận của mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn
mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và
Người nhận xét: “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”

[5]
.
Như vậy, sức mạnh của lý luậnlà ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát
triển trong thực tiễn.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA.
2.1 Thực trạng con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Nước ta đi lên CNXH xuất phát từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, từ một xã hội tiền tư bản, có những
yếu tố giai đoạn đầu tư bản chủ nghĩa (TBCN) với nền sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ TBCN. Ðặc điểm xuất phát này
quy định cả nội dung, hình thức, bước đi và thời gian của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Khi nói về đặc điểm xây dựng
CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Ðặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN" . Khái niệm "tiến thẳng" ở đây không có nghĩa là "quá độ trực tiếp" lên
CNXH mà chỉ có nghĩa là "không phải kinh qua chế độ TBCN" hay "bỏ qua chế độ TBCN". Mà "bỏ qua chế độ TBCN" tức là bỏ
qua việc xác lập vai trò thống trị của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng phải biết kế thừa và phát huy những
nhân tố tích cực được tạo ra trong lòng CNTB để xây dựng CNXH.
Do điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội nên chúng ta phải thực hiện kiểu "quá độ gián tiếp" từ xã hội tiền tư
bản, lên CNXH với nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ, đan
xen để thực hiện bước chuyển tiếp lên CNXH. Ðây cũng là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài, với nhiều chặng đường. Nếu nhân dân Trung Quốc đang xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà giai đoạn đầu dài
khoảng 100 năm, thì chúng ta mới hoàn thành giai đoạn tạo tiền đề cho công nghiệp hóa và đang trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sau
đó còn bao nhiêu giai đoạn nữa, là những giai đoạn gì và độ dài của thời kỳ quá độ là bao nhiêu năm thì cho đến nay chúng ta
vẫn chưa xác định rõ được. Ðể xác định được chắc chắn chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận.
2.2 Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của nước ta trong những năm qua.
Mục tiêu, lý tưởng của Ðảng ta là xây dựng thành công CNXH và CNCS, đó cũng là mục tiêu của con đường XHCN
ở nước ta. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH, có thời kỳ chúng ta đã mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và giáo điều
trong việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và mô hình CNXH Xô-viết. Trong những năm đổi mới, Ðảng ta đã có sự nhận thức
đúng hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít, đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên một
loạt các vấn đề, vận dụng phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam.

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và
không đơn giản. Trong quá trình đó Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo
kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ
đổi mới. Ðại hội X của Ðảng trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới đã có một bước tiến mới quan trọng trong
nhận thức về con đường đi lên CNXH của nước ta.
2.2.1 Kiên định con đường đã chọn
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy rằng con đường kết hợp độc lập dân tộc với
CNXH là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trong những năm đổi mới nhờ kiên định con đường XHCN, chúng ta vừa giữ vững thành quả cách mạng và mục
tiêu cách mạng, vừa kiên quyết đổi mới, dám từ bỏ những phương pháp và mô hình sai lầm, sáng tạo phương pháp mới, cách
làm mới, mô hình mới để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chúng ta vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội, vừa phát triển
kinh tế - xã hội với tốc độ tương đối cao; vừa giữ vững nền độc lập dân tộc vừa chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, sự kiên định con đường XHCN đòi hỏi phải dám đổi mới và biết đổi mới; đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và
đồng bộ hơn, cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ở đây có mối quan hệ biện chứng giữa kiên định và đổi mới: muốn kiên định con đường XHCN, phải đổi mới được
nhận thức và đưa được nhận thức đó vào thực tiễn, tạo ra được những thành quả của CNXH trong cuộc sống; trái lại, có kiên
định con đường XHCN thì mới đổi mới đúng hướng, mới bảo đảm độc lập dân tộc và CNXH cho đất nước. Chính trong quá trình
đổi mới, trên cơ sở kiên định con đường XHCN, Ðảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về CNXH ngày càng phù
hợp hơn, từng bước khắc phục những quan niệm giáo điều, đơn giản, ấu trĩ, duy ý chí về CNXH. Những nhận thức mới đó về
CNXH được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh năm 1991 và đã được bổ sung, phát triển về sau này, nhất là qua tổng kết lý
luận - thực tiễn hơn 20 năm đổi mới. Tất nhiên sự vận động, phát triển của thực tiễn và nhận thức đòi hỏi Ðảng ta phải tiếp
tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức đó.
Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, chúng ta đã nhận thức lại ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về
mục tiêu, bản chất, đặc trưng của CNXH. Cương lĩnh năm 1991 đã khái quát sáu đặc trưng của CNXH. Ðến Ðại hội X, Báo cáo
chính trị đã bổ sung một số điểm mới trong mô hình CNXH ở nước ta: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Ðây chính là đặc trưng tổng quát nhất của mô hình xã hội XHCN mà
chúng ta đang xây dựng. Cụ thể hóa đặc trưng tổng quát đó, Văn kiện Ðại hội X đã nêu lên những đặc trưng cụ thể, trong đó
có những đặc trưng mới chẳng hạn như "Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Ðảng Cộng sản" .
2.2.2 Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng

và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của mình.
Mở rộng giao lưu và tiếp thu thành tựu của các ngành khoa học khác là một yêu cầu của phát triển tư tưởng nền
tảng. Những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học-công nghệ vừa làm rõ thêm giá trị
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đặt ra những vấn đề mới cần được lý giải để phát triển lý luận, tư tưởng. Cuộc
đấu tranh chống các loại tư tưởng đối lập hiện đại đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận phải đứng ở thạch động nên phải vừa
hiểu đầy đủ những luận điệu của kẻ thù vừa phải tự nâng cao trình độ, mài sắc luận điểm mới có thể chiến thắng. Trình độ
dân trí ngày càng cao, việc tiếp nhận thông tin hàng ngày từ nhiều nguồn và đa đảng, Đảng phải đủ sức hướng dẫn nhận
thức. Cách mạng XHCN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tri thức của tất cả các ngành khoa
học đòi hỏi Đảng phải tiếp thu có chọn lọc để làm căn cứ, cơ sở cho việc xác định đường lối, chủ trương. Không làm giàu tri
thức bằng tiếp thu những thành tựu khoa học thì khó giữ vững nền tảng tư tưởng như đã tuyên bố. Nhưng việc làm giàu tri
thức ấy chỉ có thể vững chắc khi dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để chọn lọc. Vì vậy, nền tảng
tư tưởng không phải là sự đông cứng, đơn điệu mà phải có sức sống sinh động bằng việc cởi mở để tiếp nhận những thức tiên
tiến của khoa học. Các khó của vấn đề ở đây là không rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hay chủ nghĩa đa nguyên, tư tưởng
thực dụng. Đổi mới phát triển càng nhanh đòi hỏi sự nhạy bén và tỉnh táo càng cao trước mọi xu hướng tư tưởng. Mỗi bước đi
lên của đổi mới đều tăng thêm lòng tin và niềm phấn khởi, nhưng cũng kèm theo những băn khoăn trước những vấn đề mới
đang được đặt ra trong thực tiễn.
2.2.3 Khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh kinh nghiệm, giáo điều.
- Trong những năm qua nước ta đã khắc phục khá tốt bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Đảng ta đã không ngừng nâng
cao trình độ lý luận, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, không ngừng đổi mới,học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới và
đổi mới công tác lý luận dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên
cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo hành động lý luận của Đảng.
- Nước ta đã vận dụng lý luận vào thực tiễn của nước ta, cải thiện đời sống của nhân dân. Khởi đầu bằng đổi mới
tư duy để thực hiện đổi mới quá trình xây dựng XHCN, Đảng ta đã vượt qua chủ nghĩa giáo điều, chủ trương vừa vận dụng
sáng tạo, vừa phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh qua hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối chính sách xây dựng lý luận mới để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới.
- Trong những năm đổi mới Đảng ta đã có sự nhận thức đúng hơn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên
một loạt các vấn đề (chẳng hạn: Vấn đề mục tiêu của CNXH, Vấn đề Sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng XHCN vv… ). Nhờ đó tư duy lý luận của Đảng
ngày càng sâu sắc hơn, nhận thức đúng đắn hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển Mác xít, đồng thời có sự vận

dụng, phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam”. Với trình độ nhận thức hiện nay, nhìn lại những năm trước đổi mới,
chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự tiến bộ của mình. Đó là cơ sở của niềm tin vào chặng đường sắp tới.
2.2.4 Tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng XHCN
Cương lĩnh năm 1991 đã nêu lên 7 phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Qua thực
tiễn hơn 20 năm đổi mới, Ðảng ta đã có sự bổ sung, phát triển, cụ thể hóa những phương hướng đó. Văn kiện Ðại hội X khẳng
định: "Ðể đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế".
Dựa trên thành quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn những năm qua, Văn kiện Ðại hội X đã góp phần làm
sáng tỏ khái niệm "định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường", qua đó bác bỏ quan điểm phủ nhận định hướng XHCN
trong kinh tế thị trường.
Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là:
+ Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và
không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng
+ Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục , giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Ðể tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Đảng đã nhấn mạnh phải nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý
của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành
mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nhất thiết phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp. Muốn phát triển lực lượng sản xuất không có cách nào khác là phải tiến hành công nghiệp hóa và kết hợp ngay từ đầu
công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đồng thời gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế

tạo ra và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, trong đó
đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để làm nền tảng tinh thần của xã hội. Ðể văn hóa thật
sự làm nền tảng tinh thần của xã hội, phải nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ -
những lĩnh vực được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân là mục tiêu và bản chất của chế độ ta. Ðể thực hiện mục tiêu đó, vấn đề trung tâm là phải xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
chủ yếu bằng nhà nước, thông qua nhà nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
- Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện mới phải nhận thức sâu sắc mối quan hệ
này cũng như quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh; nhận
thức sâu sắc và toàn diện hơn khái niệm "an ninh quốc gia" và khái niệm "bảo vệ Tổ quốc", từ đó đề ra các chủ trương, chính
sách phù hợp.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Ðại hội X đã nêu bật đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác
- Ðổi mới, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn phải được coi là quy luật tồn tại và phát triển của Ðảng. Trên ý nghĩa đó, Văn kiện Ðại hội X đã nhấn mạnh 5 nhiệm
vụ trong công tác xây dựng Ðảng hiện nay là:
+ Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Ðảng.
+ Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Ðảng với
nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
+ Ðổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
+ Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng.

Tóm lại, dựa trên tổng kết lý luận - thực tiễn hơn 20 năm đổi mới của Ðảng đã góp phần làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở
nước ta. Con đường đó phản ánh tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những điều đã rõ vẫn
còn nhiều điều cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để tìm câu trả lời cho những vấn đề do cuộc
sống đặt ra, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững trong thế kỷ XXI.

×