Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Kế toán bán nhóm hàng thiết bị chiếu sáng tại công ty Cổ phần Khí cụ điện I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.21 KB, 55 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Về mặt lý thuyết: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của nhà nước theo
định hướng XHCN như hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải hạch toán
kinh doanh độc lập, tự chủ. Hoạt động của doanh nghiệp đã và đang phát triển
mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tính phức tạp của nó đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh hiệu quả nhằm đứng vững trên
thị trường. Trong đó, bán hàng là cơ sở, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển
không chỉ đối với doanh nghiệp thương mại mà còn đối với sự phát triển của
bất kỳ doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, kế toán
bán hàng là một đòi hỏi mang tính cấp thiết đặc biệt được quan tâm chú trọng
trong công tác kế toán.
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam như: VAS 02 “Hàng tồn kho”; VAS
14 “Doanh thu và thu nhập khác”; VAS 21 “Trình bày BCTC”,… đã tạo hành
lang pháp lý quan trọng cho việc hạch toán doanh thu bán hàng, xác định giá
vốn hàng bán và trình bày thông tin trên BCTC. Tuy nhiên, do tính chất phức
tạp việc vận dụng các chuẩn mực vẫn còn những bất cập cần được hưóng dẫn
và hoàn thiện. Ngày 20/3/2006 Bộ Tài Chính đã ban hành chế độ kế toán
doanh nghiệp theo quyết định 15/2006/QĐ/BTC thay thế cho quyết định
1141/2001/QĐ cho thấy sự hoàn thiện từng bước của chế độ kế toán Việt
Nam. Điều này đã thoả mãn và phục vụ tốt yêu cầu của giai đoạn phát triển
kinh tế thị trường, phù hợp cho việc Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới.
Công tác kế toán bán hàng tại doanh nghiệp còn tồn tại không ít sai sót
nghiêm trọng cần khắc phục như ghi nhận doanh thu sai thời điểm; chưa phản
ánh đúng nội dung, kết cấu của tài khoản sử dụng; hệ thống sổ kế toán sử
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B


1
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
dụng chưa đầy đủ, bố trí sổ chưa khoa học; thông tin cung cấp chưa đáp ứng
được nhu cầu của ban quản trị công ty và các đối tượng có liên quan, … Vì
vậy, việc tổ chức và hoàn thiện phương pháp kế toán bán hàng phù hợp với
chế độ kế toán hiện hành và yêu cầu quản lý của nền kinh tế là vấn đề cấp
thiết được đặt ra đối với những người làm công tác kế toán trong doanh
nghiệp.
Về mặt thực tế: Kế toán bán hàng là phần hành kế toán quan trọng
trong công tác kế toán của công ty Cổ phần Khí cụ điện I. Theo kết quả phiếu
điều tra tổng hợp cho thấy tồn tại một số vấn đề về kế toán bán hàng như:
phương thức tiêu thụ, lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, lập dự phòng phải
thu khó đòi, các thông tin cung cấp cho nhà quản trị, sổ kế toán,… chưa phù
hợp với chế độ kế toán hiện hành cần được nghiên cứu, phân tích và từ đó có
giải pháp hoàn thiện.
1.2. Xác lập và tuyên bố đề tài.
Qua quá trình thực tập, em nhận thấy công tác kế toán bán hàng tại
công ty đang còn nhiều tồn tại và những bất cập cần được giải quyết. Xuất
phát từ những vấn đề về lý luận và thực tế nêu trên, câu hỏi đặt ra là:
 Bộ máy kế toán của công ty phải được tổ chức như thế nào cho phù hợp
với chế độ kế toán hiện hành?
 Những vấn đề còn tồn tại trong công tác kế toán bán hàng là gì? Những
giải pháp nào cần phải đưa ra để giải quyết những vấn đề còn tồn tại đó?
Hoàn thiện công tác kế toán bán hàng là một yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công tác kế toán tại
doanh nghiệp, giúp cho kế toán thực hiện tốt chức năng cung cấp tông tin cho
việc ra quyết định quản lý.
Nhận thức được vai trò quan trọng đó và nhằm tìm ra câu trả lời cho
các vấn đề đã đặt ra ở trên, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kế toán bán

nhóm hàng thiết bị chiếu sáng tại công ty Cổ phần Khí cụ điện I”.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
2
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
1.3. Mục tiêu nghiên cứu.
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu của đề tài, em hi vọng sẽ hệ
thống hóa được lý luận về công tác kế toán bán hàng; tìm hiểu kỹ hơn về
chuẩn mực, chế độ kế toán và các quy định khác của Nhà nước có liên quan
đến nghiệp vụ bán hàng.
Về mặt thực tiễn: Đánh giá thực tiễn công tác kế toán bán hàng tại
công ty và đưa ra những giải pháp thiết thực giúp công ty Cổ phần Khí cụ
điện I tổ chức tốt hơn công tác kế toán bán nhóm hàng thiết bị chiếu sáng, phù
hợp với các quy định của nhà nước cũng như tình hình thực tế của doanh
nghiệp. Từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường,
nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo điều kiện để doanh nghiệp thực hiện tốt
nghĩa vụ của mình đối với các cổ đông góp vốn, với người lao động, với Nhà
nước và các đối tượng khác có liên quan.
1.4. Phạm vi nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, quy định về khung kết cấu luận
văn của trường đại học Thương Mại và kiến thức về vấn đề nghiên cứu nên
phạm vi nghiên cứu của đề tài có những giới hạn nhất định.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về kế toán bán nhóm hàng thiết bị chiếu
sáng.
Không gian nghiên cứu: Tại công ty Cổ phần Khí cụ điện I.
Thời gian nghiên cứu: Tháng 3 năm 2011.
1.5. Kết cấu.
Luận văn có kết cấu gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu đề tài.

Chương 2. Tóm lược một số vấn đề lý luận cơ bản về kế toán bán hàng
trong doanh nghiệp thương mại.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
3
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và thực trạng về Kế toán bán
nhóm hàng thiết bị chiếu sáng tại công ty Cổ phần Khí cụ điện I.
Chương 4. Các kết luận và đề xuất nhằm hoàn thiện Kế toán bán nhóm
hàng thiết bị chiếu sáng tại công ty Cổ phần Khí cụ điện I.

CHƯƠNG II
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN
BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
2.1. Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản về kế toán bán hàng trong
doanh nghiệp thương mại.
2.1.1. Doanh thu.
Theo đoạn số 03 trong VAS 14: “ doanh thu bán hàng là toàn bộ số tiền
thu được hoặc sẽ thu được từ các giao dịch và nghiệp vụ phát sinh doanh thu
như bán sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng bao gồm cả những khoản phụ
thu và thu phí thêm ngoài giá bán (nếu có) mà không căn cứ vào việc doanh
nghiệp đã thu được tiền từ các giao dịch đó hay chưa”.
2.1.2. Các khoản giảm trừ doanh thu.
Theo đoạn số 03 trong VAS 14:

 Chiết khấu thương mại: “Chiết khấu thương mại là khoản doanh nghiệp
bán giảm giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn”.
 Giảm giá hàng bán: “Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho người
mua do hàng hóa kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu”.
 Giá trị hàng bán bị trả lại: “Giá trị hàng bán bị trả lại là giá trị khối
lượng hàng bán đã xác định là tiêu thụ bị khách hàng trả lại và từ chối thanh
toán”.
 Chiết khấu thanh toán: “Chiết khấu thanh toán là khoản tiền người bán
giảm tiền cho người mua, do người mua thanh toán tiền mua hàng trước thời
hạn thanh toán của hợp đồng”.
2.1.3. Giá vốn hàng bán.
Theo VAS 02 hàng tồn kho thì giá vốn của hàng hoá tiêu thụ được hiểu
là toàn bộ chi phí thực tế cấu thành nên sản phẩm, hàng hoá và là biểu hiện về
mặt giá trị của thành phẩm, hàng hoá. Đối với các DNTM, giá vốn hàng bán
là trị giá vốn của hàng hóa, các chi phí khác như chi phí hao hụt mất mát của
hàng tồn kho sau khi trừ đi các khoản bồi thường, dự phòng giảm giá hàng
tồn kho phải trích lập trong kỳ.
2.2. Một số lý thuyết về kế toán bán hàng.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
2.2.1. Các phương thức bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
2.2.1.1. Phương thức bán buôn hàng hóa.
Khái niệm: Bán buôn hàng hóa là phương thức bán hàng cho các đơn vị
thương mại, các doanh nghiệp sản xuất … để thực hiện bán ra hoặc để gia
công chế biến rồi bán.
Đặc điểm: Khi thực hiện phương thức bán buôn hàng hóa, hàng hóa vẫn
nằm trong lĩnh vực lưu thông, chưa đi vào tiêu dùng nên giá trị và giá trị sử

dụng của hàng hóa chưa được thực hiện. Hàng hóa thường được bán theo lô
hoặc bán với số lượng lớn, giá bán biến động phụ thuộc vào khối lượng hàng
bán và phương thức thanh toán.
Phân loại: Trong bán buôn hàng hóa thường bao gồm các hình thức:
- Phương thức bán buôn qua kho: Là phương thức bán buôn trong đó hàng
bán phải được xuất ra từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Trong phương thức
này có hai loại:
+ Bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng tại kho: Theo hình thức này,
khách hàng cử người mang giấy giới thiệu đến kho của doanh nghiệp trực tiếp
nhận hàng và áp tải hàng về. Sau khi nhận hàng, đại diện bên mua ký nhận đã
nhận đủ hàng vào chứng từ bán hàng của bên bán đồng thời trả tiền hoặc chấp
nhận thanh toán, hàng được xác định đã bán.
+ Bán buôn qua kho theo hình thức gửi hàng: Bên bán căn cứ vào hợp đồng
kinh tế đã ký kết hoặc theo đơn đặt hàng của người mua, xuất kho gửi hàng
cho người mua bằng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài. Chi phí
vận chuyển hàng có thể do bên bán hay bên mua chịu tùy theo từng hợp đồng
kinh tế đã ký kết. Hàng gửi đi bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
đến khi nào bên mua nhận được hàng và chấp nhận thanh toán thì quyền sở
hữu hàng hóa mới được chuyển giao, hàng xác định là đã bán.
- Bán buôn vận chuyển thẳng: là phương thức bán buôn hàng hóa trong đó
hàng hóa bán ra khi doanh nghiệp mua từ nhà cung cấp không đem về nhập
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
kho của mình mà giao bán ngay hoặc chuyển bán ngay cho khách hàng.
Phương thức này có thể được thực hiện theo các hình thức sau:
+ Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp: DNTM sau
khi nhận được hàng từ nhà cung cấp của mình thì giao bán trực tiếp cho khách

hàng tại địa điểm do hai bên đã thỏa thuận. Sau khi giao hàng, đại diện bên
mua sẽ ký nhận vào chứng từ bán hàng và quyền sở hữu hàng hóa đã được
chuyển giao cho khách hàng, hàng hóa được xác định là tiêu thụ.
+ Bán buôn vận chuyển thẳng theo phương thức gửi hàng: DNTM nhận hàng
từ nhà cung cấp của mình gửi đi bán cho khách hàng mà không về nhập kho
của doanh nghiệp. Khi khách nhận được hàng sẽ ký vào chứng từ bán hàng,
hàng được xác định là bán, doanh thu được ghi nhận.
2.2.1.2. Phương thức bán lẻ hàng hóa.
Khái niệm: Bán lẻ hàng hóa là phương thức bán hàng trực tiếp cho
người tiêu dùng hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua
về mang tính chất tiêu dùng nội bộ.
Đặc điểm: Với phương thức bán lẻ thì hàng hóa đã ra khỏi lĩnh vực lưu
thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa đã
được thực hiện. Bán lẻ thường bán đơn chiếc hoặc với số lượng nhỏ, giá bán
thường ổn định.
Phân loại: Phương thức bán lẻ thường có các hình thức sau:
- Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Là hình thức bán lẻ trong đó việc thu
tiền ở người mua và việc giao hàng cho người mua tách rời nhau. Theo hình
thức này, mỗi quầy hàng có một nhân viên thu ngân làm nhiệm vụ thu tiền
của khách hàng rồi viết hóa đơn, tích kê giao cho khách hàng để họ đến nhận
hàng ở quầy hàng do mậu dịch viên bán hàng giao. Hết ca hoặc hết ngày, mậu
dịch viên căn cứ vào hóa đơn, tích kê giao cho khách và kết quả kiểm kê hàng
tồn quầy, xác định số lượng hàng đã bán trong ngày hoặc trong ca làm việc
làm cơ sở cho việc lập báo cáo bán hàng. Nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền
và nộp tiền cho thủ quỹ. Với hình thức này, việc mua hàng và thanh toán tách
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán

rời nhau nên sẽ tránh được những sai sót, mất mát hàng hóa và tiền, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc quản lý và phân bổ trách nhiệm đến từng cá nhân. Tuy
nhiên phương thức này lại gây phiền hà và mất thời gian của khách nên ít
được áp dụng, chủ yếu sử dụng cho các mặt hàng có giá trị.
- Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này, nhân viên bán hàng
trực tiếp thu tiền và giao hàng cho khách. Cuối ngày hoặc cuối ca bán hàng,
mậu dịch viên phải kiểm kê hàng hóa tồn quầy, xác định số lượng hàng đã
bán trong ca, trong ngày để lập báo cáo bán hàng đồng thời lập giấy nộp tiền
và nộp tiền cho thủ quỹ. Hình thức này khá phổ biến vì nó tiết kiệm được thời
gian mua hàng của khách hàng.
- Hình thức bán hàng tự phục vụ: Theo hình thức này, khách hàng sẽ tự chọn
những hàng hóa mà mình cần mua sau đó mang đến bộ phận thu tiền và lập
hóa đơn bán hàng. Khi tổ chức bán hàng theo hình thức này, doanh nghiệp có
thể tiết kiệm được chi phí nhân viên, tạo điều kiện cho khách hàng có thể lựa
chọn mặt hàng cần thiết nhưng phải tổ chức tốt khâu quản lý tránh tình trạng
mất mát và tổ chức đội ngũ nhân viên tư vấn thông tin về hàng hóa. Hình thức
này phù hợp với các doanh nghiệp có mặt hàng kinh doanh đa dạng, có giá trị
thấp như mặt hàng tiêu dùng, đồ gia dụng, thực phẩm….
- Hình thức bán hàng trả góp: Với hình thức này người mua sẽ trả một số tiền
nhất định tại thời điểm mua hàng, số tiền hàng còn lại được thanh toán thành
nhiều lần trong thời gian nhất định và phải trả một số tiền lớn hơn giá trị trả
ngay. Về bản chất, bán hàng trả góp chính là một hình thức doanh nghiệp hỗ
trợ tín dụng cho người tiêu dùng, giúp khách hàng có thể mua hàng ngay khi
điều kiện tài chính chưa cho phép. Với những mặt hàng có giá trị lớn, để có
thể mua hàng trả góp khách hàng cần có những giấy tờ xác nhận khả năng
thanh toán như giấy bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này thường do các
doanh nghiệp có khả năng tài chính hay có liên kết với các ngân hàng, tổ chức
tài chính thực hiện.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B

8
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
2.2.1.3. Phương thức bán hàng đại lý.
Là phương thức bán hàng trong đó DNTM giao hàng cho cơ sở nhận
bán đại lý, ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng.
Trong đó, bên có hàng gửi là bên giao đại lý còn bên nhận hàng gửi là
bên nhận đại lý. Thông thường giữa hai bên phải tiến hành ký hợp đồng đại lý
trong đó quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên, tỷ lệ phần trăm
hoa hồng của dịch vụ bán hàng đại lý. Số hàng chuyển giao cho các cơ sở đại
lý vẫn thuộc quyền sử hữu của DNTM, do đó hàng chưa thể xác định là hàng
bán. Sau khi bán được hàng, cơ sở nhận đại lý sẽ lập bảng kê hàng bán gửi
cho doanh nghiệp, đồng thời ghi nhận khoản hoa hồng bán hàng đại lý được
hưởng dựa trên số hàng đã bán và tỷ lệ phần trăm hoa hồng, tiền hàng nợ bên
giao đại lý. Khi đó doanh nghiệp mới được ghi nhận doanh thu.
2.2.1.4. Các phương thức bán hàng khác.
Một số trường hợp xuất hàng khác cũng được xác định là hàng bán
như:
- Xuất hàng hóa để trả lương cho cán bộ công nhân viên: Thực chất đây là
việc doanh nghiệp bán hàng cho nhân viên và thực hiện bù trừ tiền lương.
- Xuất hàng để đổi lấy hàng hóa khác không cùng bản chất (trao đổi hàng hóa
có giá trị, giá trị sử dụng khác nhau).
- Xuất hàng tiêu dùng nội bộ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp hay xuất hàng hóa để khuyến mãi.
2.2.2. Các phương thức thanh toán.
Trong quá trình tiêu thụ hàng hóa, việc xác định hình thức thanh toán,
thời điểm thanh toán có ý nghĩa rất lớn. Một phần nó đảm bảo quyền lợi của
người bán thu tiền được sau khi đã giao hàng, bù đắp được chi phí bỏ ra và
mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, điều khoản thanh toán còn là
một biện pháp kích thích tiêu thụ, đẩy mạnh tốc độ lưu chuyển vốn, nâng cao

khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các phương thức thanh toán phổ
biến hiện nay là:
2.2.2.1. Phương thức thanh toán trực tiếp.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
Là phương thức thanh toán mà quyền sở hữu về tiền tệ sẽ được thực
hiện trước hoặc ngay sau khi chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa. Sự vận
động của hàng hóa gắn liền với sự vận động của tiền tệ.
Việc thực hiện thanh toán trực tiếp có thể bằng tiền mặt, ngân phiếu,
sec, hoặc có thể bằng hàng hóa (nếu là phương thức hàng đổi hàng). Tuy
nhiên, theo quy định của luật thuế GTGT, một trong những điều kiện để được
thực hiện khấu trừ thuế GTGT thì các hóa đơn mua hàng có giá trị từ 20 triệu
đồng thì việc thanh toán phải được thực hiện thông qua ngân hàng bằng cách
chuyển khoản hoặc séc thanh toán.
Phương thức thanh toán trực tiếp đảm bảo cho doanh nghiệp thu hồi
vốn nhanh, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, phương thức
thanh toán có phạm vi áp dụng hẹp, thường dùng trong phương thức bán lẻ
hay khi doanh nghiệp có tài chính hạn chế hoặc nhận thấy khả năng thanh
toán, tư cách tín dụng của khách hàng thấp.
2.2.2.2. Phương thức thanh toán trả chậm.
Là phương thức thanh toán mà quyền sở hữu về tiền tệ sẽ được chuyển
giao sau một khoảng thời gian so với thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng
hóa.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm

toán
Phương thức thanh toán trả chậm là một hình thức doanh nghiệp cấp tín
dụng cho các khách hàng của mình (tín dụng thương mại). Độ lớn, thời gian
của khoản tín dụng đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mối quan hệ với
khách hàng; doanh nghiệp có quy mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm
có thời gian sử dụng lâu dài thường cho phép khách hàng trả chậm trong thời
gian dài hơn với khoản nợ lớn hơn so với các doanh nghiệp có tiềm lực tài
chính hạn chế; đồng thời cũng phụ thuộc vào điều kiện của khách hàng như
sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán, tư cách tín dụng. Trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu các tiêu chuẩn tín dụng quá cao thì doanh
nghiệp có thể loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng gây khó khăn trong việc
tiêu thụ hàng hóa, nhưng nếu tiêu chuẩn tín dụng quá thấp thì có thể làm tăng
doanh số bán nhưng cũng làm cho rủi ro tín dụng càng cao, gia tăng các
khoản nợ khó đòi, chi phí thu tiền cũng tăng lên. Do đó, doanh nghiệp phải
xác định rõ chính sách tín dụng của mình phù hợp. Đồng thời, khi thực hiện
bán trả chậm đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức theo dõi tốt các khoản nợ về
mặt giá trị, tình hình thanh toán, thời gian thanh toán.
2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về kế toán bán hàng trong doanh
nghiệp thương mại.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào không kể là kinh doanh thương mại hay
sản xuất, công tác bán hàng là rất quan trọng và cũng là công cụ cần thiết
phục vụ cho quản lý. Chính vì vậy, thời gian qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu về kế toán bán hàng trong DNTM ở những cấp độ nghiên cứu
khác nhau. Dưới đây là một số đề tài em được tham khảo:
Trong bài luận văn “Kế toán bán mặt hàng sữa tại công ty cổ phần sữa
Quốc tế” của sinh viên Vũ Thị Thuỷ lớp 41D2 trường Đại học Thương Mại
do ThS. Nguyễn Thị Hà hướng dẫn đã nêu ra những ưu điểm trong công tác
kế toán bán hàng của doanh nghiệp như chứng từ, tài khoản và sổ kế toán sử
dụng theo đúng biểu mẫu quy định, từng tháng có đóng thành quyển do đó dễ
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh

Lớp: K5 – HK1B
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
lưu trữ và truy vấn số liệu khi cần, đã cung cấp thông tin kế toán bán hàng ở
mức độ nhất định đồng thời cũng có những phát hiện về vấn đề còn tồn tại
như mẫu phiếu xuất kho của công ty vẫn sử dụng theo quyết định 1141 –
TC/QĐ/CĐKT ngày 1 tháng 11 năm 1995 của BTC; công ty chưa thực hiện
chính sánh giảm giá hàng bán và chiết khấu thương mại cho khách hàng; Quy
mô các khoản phải thu của công ty là tương đối lớn mà việc thanh toán của
khách hàng đôi khi còn rất chậm; chưa lập các khoản dự phòng… Luận văn
cũng đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao công tác kế toán bán
hàng tại công ty.
Luận văn: “Kế toán bán hàng thiết bị các ngành phân tích khoa học tại
công ty TNHH thương mại vật tư KHKT” của sinh viên Nguyễn Thị Hồng
Thu lớp 41D4 trường Đại học Thương Mại do TS.Phạm Đức Hiếu hướng dẫn
đã chỉ ra những mặt đạt được về kế toán bán hàng tại đơn vị thực tập như tổ
chức chứng từ phù hợp; xác định doanh thu, giá vốn hàng bán đúng theo quy
định của chuẩn mực, chế độ kế toán và các vấn đề còn tồn tại như sử dụng
hình thức chứng từ ghi sổ nhưng chưa sử dụng sổ đăng ký chứng từ ghi sổ;
chưa mở sổ chi tiết bán hàng cho từng mặt hàng; chưa lập các khoản dự
phòng và kế toán quản trị chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp số liệu trong quá
khứ mà chưa có phân tích dự đoán trong tương lai; chính sách bán hàng còn
chưa đa dạng. Với những phát hiện qua nghiên cứu, tác giả cũng đưa ra được
những giải pháp nhằm hoàn thiện mở sổ chi tiết TK 5111 để phản ánh riêng
cho từng mặt hàng; mở sổ đăng ký chứng từ ghi sổ; nâng cao kế toán quản trị
bán hàng.
2.4. Nội dung kế toán bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
2.4.1. Kế toán bán hàng theo chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Kế toán bán hàng trong doanh nghiệp thương mại được quy định trực

tiếp trong VAS 14 – “Doanh thu và thu nhập khác”, VAS 01- “Chuẩn mực
chung” và VAS 02- “Hàng tồn kho”.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
2.4.1.1. Kế toán bán hàng quy định trong VAS 14 – “Doanh thu và thu nhập
khác”.
* Xác định doanh thu:
- Doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản thu đã thu hoặc
sẽ thu được.
- Doanh thu phát sinh từ giao dịch được xác định bởi thỏa thuận giữa doanh
nghiệp với bên mua. Nó được xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản thu
hoặc sẽ thu được sau khi trừ các khoản chiết khấu thương mại, chiết khấu
thanh toán, giảm giá hàng bán và giá trị hàng bán bị trả lại.
- Đối với các khoản tiền hoặc tương đương tiền không được nhận ngay thì
doanh thu được xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa của các khoản
sẽ thu được trong tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu
theo tỷ lệ lãi suất hiện hành. Giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu
có thể nhỏ hơn giá trị danh nghĩa sẽ thu được trong tương lai.
- Khi hàng hóa hoặc dịch vụ trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự
về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo
ra doanh thu.
- Khi hàng hóa được trao đổi để lấy hàng hóa khác không tương tự thì việc
trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường hợp này doanh
thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa nhận về, sau khi điều
chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi
không xác định được giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về thì
doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa đem trao đổi, sau

khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu thêm.
* Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng:
Theo VAS 14, đoạn 10: Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng
thời thỏa mãn tất cả năm điều kiện:
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
(1) Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua.
(2) Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người
sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa.
(3) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
(4) Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch
bán hàng.
(5) Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
2.4.1.2. Kế toán bán hàng quy định trong VAS 01 – “Chuẩn mực chung”.
* Nội dung chuẩn mực các nguyên tắc cơ bản:
Cơ sở dồn tích: Theo đoạn 03, doanh nghiệp phải ghi nhận doanh thu ngay
khi hàng xác định đã bán, không căn cứ vào thời điểm thực tế doanh nghiệp
thu được tiền hay các khoản tương đương tiền.
Giá gốc: Theo đoạn 05, trị giá vốn hàng bán phải được xác định tính theo số
tiền hoặc tương đương tiền mà doanh nghiệp đã trả hoặc phải trả (đối với
hàng hóa mua bằng tiền) hoặc giá trị hợp lý của hàng hóa (đối với hàng hóa
trao đổi) đến khi hàng hóa đó ở trạng thái sẵn sàng sử dụng để bán.
Phù hợp: Theo đoạn 06, việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với
nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí
tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó.
Nhất quán: Theo đoạn 07, doanh nghiệp phải nhất quán trong việc sử dụng

hình thức ghi sổ kế toán, tính đơn giá hàng xuất kho từ đó tính giá vốn hàng
bán.
Thận trọng: Yêu cầu kế toán bán hàng phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn
kho, nợ phải thu khó đòi….
* Các yêu cầu cơ bản đối với kế toán: Kế toán bán hàng phải tuân theo
nguyên tắc trung thực, khách quan, kịp thời, đầy đủ và có thể so sánh.
2.4.1.3. Kế toán bán hàng quy định trong VAS 02 - “Hàng tồn kho”:
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
14
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
* Nguyên tắc xác định giá vốn hàng bán:
Trị giá hàng bán được tính theo giá gốc theo nguyên tắc giá phí.
Trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì phải tính
theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Trong đó, giá gốc hàng bán bao gồm:
Chi phí mua, chi phí chế biến, và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát
sinh để có được hàng hóa ở địa điểm và trạng thái sẵn sàng sử dụng để bán.
* Xác định giá vốn hàng bán:
- Phương pháp tính theo giá đích danh
- Phương pháp bình quân gia quyền
- Phương pháp nhập trước, xuất trước
- Phương pháp nhập sau, xuất trước
(a) Phương pháp tính theo giá đích danh:
Phương pháp tính theo giá đích danh được áp dụng đối với doanh nghiệp
có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được, có đơn giá cao.
Khi thực hiện doanh nghiệp phải biết được các đơn vị hàng hóa bán ra thuộc
những lần mua nào và dùng đơn giá của lần mua đó để xác định giá trị hàng
đã xuất trong kỳ.
Ưu điểm: Thuận lợi cho kế toán trong việc tính giá hàng và cho kết quả tính

toán chính xác nhất trong các phương pháp.
Nhược điểm: Chỉ phù hợp với các doanh nghiệp có ít mặt hàng, ít chủng loại
hàng hóa, có thể phân biệt, chia tách thành nhiều thứ riêng rẽ và giá trị hàng
xuất bán không sát với giá thị trường.
(b) Phương pháp bình quân gia quyền:
Theo phương pháp này, giá vốn của từng loại hàng bán được tính theo
giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng
loại hàng đó được mua trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời
kỳ hoặc vào mỗi lần nhập một lô hàng về hoặc giá trung bình kỳ trước.
Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ thực hiện.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
15
Giá thực tế hàng
xuất bán
Số lượng hàng
xuất bán
Đơn giá bình quân
hàng xuất bán
=
x
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
Nhược điểm: Độ chính xác không cao do những biến động của giá cả hàng
hóa trên thị trường, đồng thời việc tính giá đơn vị của hàng xuất bán cũng như
giá trị hàng bán được tính vào cuối kỳ nên không cập nhật trị giá vốn hàng
bán ra, có thể gây ảnh hưởng đến tốc độ công tác quyết toán trong doanh
nghiệp.
\
(c) Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng hóa được mua trước
hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng hóa còn lại cuối kỳ là hàng
tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp
này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời
điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của
hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
Ưu điểm: Hàng tồn kho phản ánh trên bảng cân đối kế toán được đánh giá sát
với giá thực tế tại thời điểm lập báo cáo.
Nhược điểm: Doanh thu hiện tại không phù hợp với chi phí hiện tại.
(d) Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua
sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là
hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá
trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng,
giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc
gần đầu kỳ còn tồn kho.
Ưu điểm: Thực hiện phương pháp này đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong kế
toán và khi giá cả có xu hướng tăng lên thì doanh nghiệp có thể tạm hoãn
trách nhiệm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp do chi phí lúc đó là cao nhất.
Nhược điểm: Khi giá cả hàng hóa có xu hướng tăng lên, nếu doanh nghiệp
chạy theo việc mua hàng hóa nhập kho để tăng giá vốn hàng bán nhằm hoãn
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
16
Giá đơn vị bình
quân cả kỳ dự trữ
=
Giá gốc hàng hóa tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Số lượng hàng hóa tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm

toán
trách nhiệm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp có thể doanh nghiệp phải chịu
chi phí bảo quản, lưu kho hàng hóa và giá trị hàng tồn kho được phản ánh
thấp hơn giá trị của nó cho nên tài sản bị đánh giá thấp hơn giá trị thực tế.
2.4.2. Kế toán bán hàng trong doanh nghiệp thương mại (theo quyết định
số 15/2006/QĐ-BTC ban hành ngày 20/03/2006 của Bộ tài chính).
2.4.2.1. Chứng từ sử dụng.
Để phản ánh kế toán nghiệp vụ bán hàng, sử dụng các chứng từ kế toán
sau:
- Các loại hóa đơn: Hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng thông thường;
Bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi; Hóa đơn thuê kho, bãi, thuê bốc dỡ hàng
hóa trong quá trình bán hàng, Hóa đơn cước vận chuyển, …
- Chứng từ xuất kho: Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, PXK.
- Hợp đồng kinh tế với khách hàng.
- Thẻ quầy hàng, Bảng kê bán lẻ hàng hóa.
- Các chứng từ thanh toán (phiếu thu, séc chuyển khoản, séc thanh toán, ủy
nhiệm thu, giấy báo Có của Ngân hàng, bản sao kê của Ngân hàng…).
2.4.2.2. Tài khoản sử dụng.
Để phản ánh nghiệp vụ bán hàng, kế toán sử dụng các tài khoản chủ
yếu bao gồm:
TK 511 – “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ”
- Nội dung: Được dùng để phản ánh doanh thu bán hàng thực tế của doanh
nghiệp thực hiện trong một kỳ hạch toán của hoạt động bán hàng.
TK 511 có 4 tài khoản cấp 2:
TK 5111 – Doanh thu bán hàng hóa
TK 5112 – Doanh thu bán các thành phẩm
TK 5113 – Doanh thu cung cấp các dịch vụ
TK 5118 – Doanh thu khác.
- Kết cấu:
Bên nợ:

+ Số thuế xuất khẩu, thuế TTĐB của số hàng tiêu thụ.
+ Doanh thu hàng bán bị trả lại, chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán kết
chuyển vào cuối kỳ, kết chuyển xác định kết quả kinh doanh.
Bên có: Doanh thu bán hàng thực tế phát sinh trong kỳ.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
TK 511 không có số dư cuối kỳ
TK 632 – “Giá vốn hàng bán”
- Nội dung: Dùng để phản ánh trị giá vốn của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ,
bất động sản đầu tư; giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp (đối với doanh
nghiệp xây lắp) bán trong kỳ.
- Kết cấu:
Bên Nợ:
+ Trị giá vốn của hàng hóa đã xuất bán trong kỳ.
+ Số trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho (Chênh lệch giữa số dự phòng
phải lập năm nay lớn hơn số đã lập năm trước chưa sử dụng hết).
+ Trị giá hàng hóa hao hụt, mất mát sau khi trừ đi phần cá nhân bồi thường.
Bên Có:
+ Kết chuyển giá vốn của hàng xác định đã bán nhưng bị trả lại.
+ Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cuối năm tài chính (Chênh lệch
giữa số dự phòng phải lập năm nay nhỏ hơn số đã lập năm trước)
+ Kết chuyển xác định kết quả kinh doanh vào cuối kỳ.
TK 632 không có số dư cuối kỳ
TK 521 – “Chiết khấu thương mại”
- Nội dung: Dùng để phản ánh khoản chiết khấu thưong mại mà doanh nghiệp
đã giảm trừ hoặc đã thanh toán cho người mua do việc người mua đã mua
hàng với số lượng lớn và theo thoả thuận bên bán sẽ dành cho bên mua một

khoản chiết khấu thương mại (đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các
cam kết mua bán hàng).
- Kết cấu:
Bên nợ: số chiết khấu thương mại doanh nghiệp đã chấp nhận cho khách
hàng.
Bên có: kết chuyển chiết khấu thương mại sang TK 511.
TK 521 không có số dư cuối kỳ
TK 531 – “Hàng bán bị trả lại”
- Nội dung: Phản ánh giá trị khối lượng hàng bán đã xác định là tiêu thụ bị
khách hàng trả lại và từ chối thanh toán.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
18
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
- Kết cấu:
Bên nợ: Phản ánh doanh thu của hàng bán bị trả lại, đã trả lại tiền cho người
mua hoặc tính trừ vào các khoản phải thu của khách hàng, của số sản phẩm
hàng hoá đã bán.
Bên có: Kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại sang tài khoản 511 để xác
định doanh thu thuần bán hàng.
TK 531 không có số dư cuối kỳ
TK 532 – “Giảm giá hàng bán”
- Nội dung: Phản ánh các khoản giảm giá hàng bán thực tế phát sinh và việc
xử lý khoản giảm giá hàng bán trong kỳ kế toán. Giảm giá hàng bán là khoản
giảm trừ cho người mua do sản phẩm, hàng hoá kém, mất phẩm chất hay
không đúng quy cách quy định trong hợp đồng kinh tế.
- Kết cấu:
Bên nợ: Các khoản giảm giá hàng bán đã chấp thuận cho người mua do hàng
bán kém, mất phẩm chất hoặc sai quy cách theo quy định trong hợp đồng.

Bên có: Kết chuyển toàn bộ số tiền giảm giá hàng bán sang tài khoản 511.
TK 131 – “Phải thu của khách hàng”
- Nội dung: Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản nợ phải thu và tình
hình thanh toán các khoản phải thu của doanh nghiệp với khách hàng về tiền
bán hàng.
- Kết cấu:
Bên Nợ:
+ Số tiền phải thu của khách hàng về hàng hóa đã bán trong kỳ.
+ Số tiền thừa trả lại cho khách hàng.
Bên Có:
+ Số tiền khách hàng đã trả nợ.
+ Số tiền đã nhận ứng trước, trả trước của khách hàng.
+ Khoản giảm giá hàng bán cho khách hàng sau khi đã giao hàng và khách
hàng có khiếu nại.
+ Doanh thu của số hàng đã bán bị người mua trả lại (Có thuế GTGT hoặc
không có thuế GTGT).
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
+ Số tiền chiết khấu thanh toán, chiết khấu thương mại cho người mua.
Số dư bên Nợ: Số tiền còn phải thu của khách hàng.
Tài khoản này cũng dùng để phản ánh khoản tiền hàng khách hàng ứng
trước với số dư bên có, khi phát sinh khoản ứng trước ghi bên có, trừ tiền
hàng thì ghi bên nợ và có số dư cuối kỳ bên có. Không được bù trừ số dư của
hai loại tài khoản này vào cuối kỳ.
Ngoài ra kế toán còn sử dụng các tài khoản khác: TK 111 – “Tiền mặt”,
TK 112 – “Tiền gửi ngân hàng”, TK 333 – “Thuế và các khoản phải nộp nhà
nước”, TK 157 – “Hàng gửi đi bán”, TK 1381 – “Tài sản thiếu chờ xử lý”,

TK 3381 – “Tài sản thừa chờ xử lý”…
2.4.2.3. Hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong một số trường hợp chủ yếu.
 Đối với doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp
KKTX:
Trường hợp doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
thì doanh thu, giá vốn và giá trị hàng gửi bán là giá trị chưa có thuế GTGT.
* Kế toán nghiệp vụ bán buôn hàng hóa trong trường hợp giao hàng trực tiếp
cho khách:
Đối với hình thức này, khi đại diện khách hàng ký vào chứng từ mua
hàng, kế toán căn cứ vào các chứng từ đó để ghi sổ doanh thu bán hàng của
TK 511, thuế GTGT phải nộp (nếu có) của TK 333 (3331), tăng tiền hoặc
khoản phải thu của khách hàng (chi tiết cho từng khách hàng); đồng thời ghi
tăng giá vốn hàng bán vào TK 632 và giảm hàng hóa hoặc hàng gửi đi bán.
* Kế toán nghiệp vụ bán buôn hàng hóa trong trường hợp gửi hàng:
Với hàng gửi bán mà chưa đủ điều kiện để ghi nhận doanh thu, căn cứ
vào chứng từ xuất kho kế toán ghi tăng giá trị hàng gửi bán; khi xác định là
hàng đã được bán, kế toán ghi tăng doanh thu, tăng tiền hoặc khoản phải thu
của khách hàng đồng thời ghi tăng giá vốn hàng bán và ghi giảm giá trị hàng
gửi bán tương ứng. Trong trường hợp có phát sinh thừa (hoặc thiếu) hàng hóa
trong quá trình gửi hàng, tùy theo nguyên nhân thừa (hoặc thiếu) kế toán bán
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
hàng ghi nhận vào các tài khoản khác nhau. Nếu chưa xác định được nguyên
nhân, kế toán ghi tăng với hàng thừa (hoặc tăng TK 1381 – “Tài sản thiếu chờ
xử lý” nếu hàng thiếu). Nếu xác định được nguyên nhân thì tùy từng nguyên
nhân kế toán ghi vào các tài khoản tương ứng.
* Kế toán các trường hợp phát sinh trong quá trình bán buôn:

Trong trường hợp đã ghi nhận doanh thu nhưng phát sinh các khoản
giảm trừ doanh thu (chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị
trả lại) kế toán căn cứ vào biên bản có xác nhận của các bên liên quan về số
hàng yêu cầu trả lại hay giảm giá hoặc bảng kê về số hàng đã mua của khách
để ghi tăng các khoản giảm trừ doanh thu, giảm thuế GTGT phải nộp, khoản
phải thu nếu trừ vào công nợ hoặc giảm tiền nếu trả khách hàng bằng tiền vào
các sổ kế toán tương ứng. Cuối kỳ, kế toán kết chuyển để xác định doanh thu
bán hàng thuần.
* Kế toán bán hàng trả góp:
Kế toán căn cứ vào các chứng từ bán hàng để ghi nhận doanh thu bán
hàng tương ứng với mức giá trả ngay, doanh thu chưa thực hiện (phần chênh
lệch giữa giá bán trả ngay và trả sau sau khi trừ thuế GTGT phải nộp), thuế
GTGT phải nộp tăng số tiền phải thu, số tiền thu lần đầu đồng thời căn cứ vào
phiếu xuất hàng ghi tăng giá vốn hàng bán và giá trị hàng giảm tương ứng.
* Kế toán nghiệp vụ bán lẻ hàng hóa:
Hàng ngày hoặc định kỳ, nhận được bảng kê bán lẻ của mậu dịch viên
kế toán xác định doanh thu chưa thuế, thuế GTGT phải nộp của số hàng đã
tiêu thụ, tăng tiền; đồng thời ghi tăng giá vốn hàng bán và giảm giá trị hàng
tồn kho. Trong trường hợp số tiền mậu dịch viên nộp bị lệch với số tiền trên
bảng kê thì tùy từng nguyên nhân kế toán ghi vào các sổ kế toán tương ứng.
* Kế toán nghiệp vụ bán đại lý:
Tại đơn vị giao đại lý: Khi xuất hàng căn cứ vào chứng từ xuất kho hoặc
hóa đơn hàng mua (nếu mua gửi bán thẳng) kế toán ghi tăng giá trị hàng gửi
bán và giảm trị giá hàng tồn kho hay tiền hoặc tăng khoản phải trả người bán.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
Khi bên nhận đại lý thông báo về số hàng đã bán, kế toán ghi tăng doanh thu,

tăng khoản phải thu của bên nhận đại lý hoặc tiền, đồng thời ghi tăng giá vốn
và giảm trị giá hàng gửi đại lý.
Ở đơn vị nhận đại lý: khi nhận hàng gửi đại lý, căn cứ vào phiếu xuất
kho kiêm vận chuyển nội bộ bên giao đại lý chuyển và kết quả thực tế kiểm
kê hàng hóa, kế toán ghi tăng trị giá hàng hóa nhận đại lý; khi bán được hàng
ghi nhận khoản phải trả cho bên giao đại lý, ghi nhận doanh thu hoa hồng đại
lý đồng thời ghi giảm trị giá hàng nhận đại lý.
* Kế toán bán hàng trong một số trường hợp khác được coi là bán:
- Xuất hàng để trả lương công nhân viên: Kế toán ghi nhận doanh thu bán
hàng theo giá vốn, thuế GTGT phải nộp nếu có, ghi giảm khoản lương phải
trả đồng thời ghi tăng giá vốn hàng bán và giảm trị giá hàng tồn kho.
- Xuất hàng để đổi lấy hàng hóa khác không tương tự về bản chất: nếu nhận
hàng trước rồi mới trả hàng sau thì coi như mua chịu, kế toán ghi tăng giá trị
hàng nhận về theo giá trị hợp lý, tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu
có) và tăng khoản phải thu; khi giao hàng trả khách, căn cứ vào chứng từ xuất
hàng ghi tăng giá vốn hàng bán và giảm hàng hóa đồng thời ghi tăng doanh
thu bán hàng, thuế GTGT phải nộp (nếu có) và giảm khoản phải trả. Nếu đơn
vị giao hàng trước rồi mới nhận hàng sau thì hàng hóa coi như hàng bán chịu.
- Xuất hàng để tiêu dùng nội bộ không phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, biếu tặng, trả thưởng cho người lao động ….thì lập hóa đơn GTGT xác
định doanh thu theo giá vốn, ghi tăng chi phí quản lý kinh doanh, tăng doanh
thu hàng bán và thuế GTGT phải nộp (nếu có) đồng thời ghi tăng giá vốn
hàng bán của hàng xuất dùng.
- Xuất hàng để tiêu dùng nội bộ phục vụ cho mục đích khuyên mãi: ghi nhận
doanh thu bán hàng theo giá bán của hàng hóa cùng loại hoặc tương đương
vào cùng thời điểm, ghi tăng chi phí quản lý kinh doanh đồng thời ghi tăng
giá vốn hàng khuyến mãi đã xuất dùng.
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
22

Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
Trường hợp doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:
Quá trình xử lý nghiệp vụ kế toán bán hàng tương tự trường hợp doanh
nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nhưng giá trị hàng gửi
bán, doanh thu và giá vốn hàng bán được ghi nhận là giá trị đã bao gồm thuế
GTGT. Cuối kỳ xác định số thuế GTGT phải nộp căn cứ vào GTGT của hàng
hóa bán ra trong kỳ và thuế suất thuế GTGT.
 Đối với doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp
KKĐK:
Kế toán nghiệp vụ bán hàng tương tự phương pháp KKTX nhưng khi
xuất kho hàng bán kế toán chỉ theo dõi về số lượng còn giá vốn hàng bán chỉ
được xác định vào cuối kỳ sau khi tổng hợp được giá trị hàng mua về nhập
kho trong kỳ, hàng mua đang đi đường và giá trị hàng tồn kho vào cuối kỳ sau
khi kiểm kê, khi đó ghi tăng giá vốn hàng bán vào TK 632 đối ứng với giảm
hàng hóa vào TK 611.
2.4.2.4. Sổ kế toán sử dụng:
 Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký chung:
* Các loại sổ sử dụng: Sổ Nhật ký chung; sổ cái các tài khoản: TK 511; TK
521, TK 131, TK 632, TK 156; sổ chi tiết công nợ, sổ chi tiết hàng hóa, nhật
ký bán hàng, nhật ký thu tiền.
* Trình tự ghi sổ (Sơ đồ số 01):
Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ đã kiểm tra được dùng làm căn cứ
ghi sổ, trước hết ghi nghiệp vụ phát sinh vào sổ Nhật ký chung, sau đó căn cứ
số liệu đã ghi trên sổ Nhật ký chung để ghi vào Sổ Cái theo các tài khoản kế
toán phù hợp. Nếu đơn vị có mở sổ, thẻ kế toán chi tiết thì đồng thời với việc
ghi sổ Nhật ký chung, các nghiệp vụ phát sinh được ghi vào các sổ, thẻ kế
toán chi tiết liên quan. Trường hợp đơn vị mở các sổ Nhật ký đặc biệt thì hàng
ngày, căn cứ vào các chứng từ được dùng làm căn cứ ghi sổ, ghi nghiệp vụ
phát sinh vào sổ Nhật ký đặc biệt liên quan; định kỳ hoặc cuối tháng, tuỳ khối

GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
23
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
lượng nghiệp vụ phát sinh, tổng hợp từng sổ Nhật ký đặc biệt, lấy số liệu để
ghi vào các tài khoản phù hợp trên Sổ Cái sau khi đã loại trừ số trùng lặp (nếu
có). Cuối tháng, cuối quý, cuối năm, cộng số liệu trên Sổ Cái, lập Bảng cân
đối số phát sinh. Sau khi đã kiểm tra đối chiếu khớp, đúng số liệu ghi trên Sổ
Cái và bảng tổng hợp chi tiết (được lập từ các sổ, thẻ kế toán chi tiết) được
dùng để lập các BCTC.
 Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký – Sổ cái:
* Các loại sổ sử dụng: Nhật ký sổ cái và các sổ kế toán chi tiết theo yêu cầu
quản lý.
* Trình tự ghi sổ (Sơ đồ số 02):
Hàng ngày, kế toán căn cứ vào các chứng từ kế toán hoặc Bảng tổng
hợp chứng từ kế toán cùng loại đã được kiểm tra và được dùng làm căn cứ ghi
sổ, xác định tài khoản ghi Nợ, tài khoản ghi Có để ghi vào Sổ Nhật ký - Sổ
Cái. Số liệu của mỗi chứng từ (hoặc Bảng tổng hợp chứng từ kế toán cùng
loại) được ghi trên một dòng ở cả 2 phần Nhật ký và phần Sổ Cái. Bảng tổng
hợp chứng từ kế toán được lập cho những chứng từ cùng loại (Phiếu thu,
phiếu chi, phiếu xuất, phiếu nhập…) phát sinh nhiều lần. Chứng từ kế toán và
Bảng tổng hợp chứng từ kế toán cùng loại sau khi đã ghi Sổ Nhật ký - Sổ Cái,
được dùng để ghi vào sổ, thẻ kế toán chi tiết có liên quan. Cuối tháng, sau khi
đã phản ánh toàn bộ chứng từ kế toán phát sinh trong tháng vào Sổ Nhật ký -
Sổ Cái và các sổ, thẻ kế toán chi tiết, kế toán tiến hành cộng số liệu của cột số
phát sinh ở phần Nhật ký và các cột Nợ, cột Có của từng tài khoản ở phần Sổ
Cái để ghi vào dòng cộng phát sinh cuối tháng. Căn cứ vào số phát sinh các
tháng trước và số phát sinh tháng này tính ra số phát sinh luỹ kế từ đầu quý
đến cuối tháng này. Căn cứ vào số dư đầu tháng (đầu quý) và số phát sinh

trong tháng (trong quý) kế toán tính ra số dư cuối tháng (cuối quý) của từng
tài khoản trên Nhật ký - Sổ Cái. Các sổ, thẻ kế toán chi tiết cũng phải được
khoá sổ để cộng số phát sinh Nợ, số phát sinh Có và tính ra số dư cuối tháng
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
24
Luận văn tốt nghiệp Khoa: Kế toán – Kiểm
toán
của từng đối tượng. Căn cứ vào số liệu khoá sổ của các đối tượng lập “Bảng
tổng hợp chi tiết" cho từng tài khoản. Số liệu trên “Bảng tổng hợp chi tiết”
được đối chiếu với số phát sinh Nợ, số phát sinh Có và Số dư cuối tháng của
từng tài khoản trên Sổ Nhật ký - Sổ Cái. Số liệu trên Nhật ký - Sổ Cái và trên
“Bảng tổng hợp chi tiết” sau khi khóa sổ được kiểm tra, đối chiếu nếu khớp,
đúng được sử dụng để lập BCTC.
 Đối với hình doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ:
* Các loại sổ sử dụng: sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, chứng từ ghi sổ, sổ cái các
tài khoản: TK 511, TK 632, TK 131, TK 156 và sổ chi tiết các tài khoản
tương ứng theo cầu quản lý của doanh nghiệp.
* Trình tự ghi sổ (Sơ đồ số 03):
Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ kế toán hoặc Bảng Tổng hợp
chứng từ kế toán cùng loại đã được kiểm tra, được dùng làm căn cứ ghi sổ, kế
toán lập Chứng từ ghi sổ. Căn cứ vào Chứng từ ghi sổ để ghi vào sổ Đăng ký
Chứng từ ghi sổ, sau đó được dùng để ghi vào Sổ Cái. Các chứng từ kế toán
sau khi làm căn cứ lập Chứng từ ghi sổ được dùng để ghi vào sổ, thẻ kế toán
chi tiết có liên quan.Cuối tháng, phải khoá sổ tính ra tổng số tiền của các
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh trong tháng trên sổ Đăng ký Chứng từ
ghi sổ, tính ra Tổng số phát sinh Nợ, Tổng số phát sinh Có và Số dư của từng
tài khoản trên Sổ Cái. Căn cứ vào Sổ Cái lập Bảng Cân đối số phát sinh. Sau
khi đối chiếu khớp đúng, số liệu ghi trên Sổ Cái và Bảng tổng hợp chi tiết
(được lập từ các sổ, thẻ kế toán chi tiết) được dùng để lập BCTC. Quan hệ đối

chiếu, kiểm tra phải đảm bảo Tổng số phát sinh Nợ và Tổng số phát sinh Có
của tất cả các tài khoản trên Bảng Cân đối số phát sinh phải bằng nhau và
bằng Tổng số tiền phát sinh trên sổ Đăng ký Chứng từ ghi sổ. Tổng số dư Nợ
và Tổng số dư Có của các tài khoản trên Bảng Cân đối số phát sinh phải bằng
nhau, và số dư của từng tài khoản trên Bảng Cân đối số phát sinh phải bằng số
dư của từng tài khoản tương ứng trên Bảng tổng hợp chi tiết.
 Đối với doanh nghiệp áp dụng hình thức kế toán Nhật ký - Chứng từ:
GVHD: PGS – TS Nguyễn Phú Giang Sinh viên: Nguyễn Thị Hạnh
Lớp: K5 – HK1B
25

×