Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tham vấn tâm lý cho một học sinh đồng tính nữ ở trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng - thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.43 KB, 63 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học: Thạc sĩ.
Lê Thị Loan đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô giáo Khoa Giáo dục, Học
viện QLGD đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian tôi học tập và
thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn trường THPT Đinh Tiên Hoàng, thành phố Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình tôi nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Xin được cảm ơn bạn bè, gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành
nhiệm vụ.
Hà Nội, tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Trịnh Thùy Linh
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
1
Khoá luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
2
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DASS - 21: Thang đo trầm cảm, âu lo, stress - 21 câu
LES: Lesbian (Đồng tính nữ)
NXB: Nhà xuất bản
THPT: Trung học phổ thông
TV: Tham vấn
THCS Trung học cơ cở
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A


3
Khoá luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện tượng đồng tính luyến ái nói chung và đồng tính luyến ái nữ nói riêng
cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm
hiểu về bản chất cũng như căn nguyên nảy sinh hiện tượng. Có nhiều nghiên cứu
trong và ngoài nước đứng trên nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học để giải
quyết vấn đề này như: Tâm lý học, sinh lý học, xã hội học, tính dục học, khoa học
giáo dục và cả các nghiên cứu tôn giáo
Tuy nhiên, khi mà các nhà khoa học đang tập trung nghiên cứu vấn đề đồng
tính luyến ái nói chung và đồng tính nữ nói riêng thì hiện tượng này đã và đang tồn
tại, đấu tranh trong một xã hội "dị tính". Đời sống của người đồng tính luôn phải
chịu các tác động tiêu cực từ xã hội và cả tâm lý sợ hãi của bản thân họ do những
nhận thức sai lầm và quan điểm kỳ thị vì xu hướng tình dục không phổ biến này.
Những vấn đề mà người đồng tính thường gặp có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển lành mạnh của bản thân họ như: vấn đề thay đổi xu hướng tình dục đồng tính
luyến ái, hội chứng sợ đồng tính luyến ái (homophobia), công khai xu hướng tình
dục của người đồng tính.
Ở Việt Nam, đồng tính luyến ái không phải là một vấn đề mới nhưng những
nghiên cứu nghiêm túc nhất, quy mô nhất lại được diễn ra một cách nhỏ lẻ. Các
yếu tố văn hóa, chính trị và hành lang pháp luật của đất nước ta chưa công nhận
vấn đề này, điều ấy làm cho vấn đề này trở thành nhạy cảm, khiến nhiều cá nhân
và bản thân người đồng tính nói chung và đồng tính nữ nói riêng khó khăn, ái ngại
khi đề cập tới.
Cho nên, thái độ của gia đình, nhà trường và xã hội đối với người đồng tính
luyến ái còn nhiều kì thị, khắt khe, tiêu cực. Cái nhìn của xã hội gây ra rất nhiều
trở ngại cho những người đồng tính luyến ái, khiến họ không thể phát triển theo
đúng con người thật của bản thân mình. Việc đó khiến họ bị mất cân bằng tâm lý,
mặc cảm, thu mình lại sống không đúng với bản thân, với giá trị thật của mình. Vì

vậy cần phải giúp người bị đồng tính có cái nhìn đúng đắn về giá trị của bản thân,
vượt qua mặc cảm trở thành những con người có ích cho gia đình và xã hội.
Tham vấn tâm lý là một bộ môn khoa học đặc thù của khoa học tâm lý nói
chung và tâm lý học lâm sàng nói riêng. Đồng thời nó cũng là một hoạt động cụ
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
4
Khoá luận tốt nghiệp
thể đã từng bước giúp đỡ nhiều đối tượng và nhóm đối tượng có thể giải quyết
được các khó khăn tâm lý, sang chấn tâm lý, các rối nhiễu tâm lý mà họ gặp phải.
Đối tượng hoạt động này cũng vô cùng đa dạng bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề
nghiệp, địa vị, gia cảnh, giới tính, tôn giáo,
Tuy vậy, hoạt động tham vấn cho học sinh đồng tính nữ ở các trường THPT
lại chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới, vẫn trở thành một vấn đề bỏ ngỏ,
chưa được quan tâm nhiều.
Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài "Tham vấn tâm lý cho một
học sinh đồng tính nữ ở trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng - thành
phố Hà Nội".
2. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng những khó khăn tâm lý của
em học sinh đồng tính nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng để đề xuất biện pháp
tác động đến thân chủ nhằm góp phần giúp thân chủ xóa bỏ những mặc cảm, tự ti,
góp phần tạo điều kiện cho thân chủ hòa nhập với xã hội.
3. Đối tượng, khách thể
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính luyến ái nữ ở THPT
Đinh Tiên Hoàng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Em học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng.
- Bố mẹ, giáo viên chủ nhiệm, bạn bè, người yêu của em học sinh đồng tính
luyến ái nữ.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động tham vấn tâm lý cho học sinh
đồng tính nữ ở trường THPT
4.2. Nghiên cứu thực trạng khó khăn tâm lý của học sinh đồng tính luyến ái
nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng
4.3. Đề xuất biện pháp tác động đến thân chủ để khắc phục những khó khăn
tâm lý tự ti, mặc cảm
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết
5.2.2. Phương pháp quan sát
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
5
Khoá luận tốt nghiệp
5.2.4. Phương pháp tham vấn trò chuyện
5.2.5.Phương pháp trắc nghiệm
6. Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian ngắn, điều kiện còn hạn chế. Do đó trong phạm vi đề tài này tôi
chỉ chọn nghiên cứu trên 01 học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh
Tiên Hoàng.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề xuất thì đề tài bao gồm ba chương cụ thể
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Quy trình tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
6

Khoá luận tốt nghiệp
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Các nghiên cứu về tham vấn tâm lý
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Tham vấn tâm lý từ lâu đã được manh nha và phát triển trong một lịch sử
lâu dài qua nhiều giai đoạn khác nhau, có thể kể ra ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: ngành tham vấn tâm lý khởi đầu
với các nhà tiên phong triển khai các khái niệm cơ bản theo trường phái phân tâm,
các lý thuyết nghiên cứu về quá trình phát triển tâm lý con người và sự ra đời của
công tác tham vấn nghề.
Có thể kể đến các tác giả sau:
+ W. Wundt (1832-1920) và F. Galton (1822-1911) với việc phát triển
phòng thực nghiệm kiểm tra sự khác biệt về thể chất con người.
+ G. S. Hall (1846-1924) và J. Cattell (1860-1940) với việc phát triển trắc
nghiệm đo nhân cách.
+ F. Parsons (1859-1908) với hai tác phẩm “Cẩm nang hướng nghiệp” và “Chọn
nghề” được xem là có ảnh hưởng lớn nhất đến công tác hướng nghiệp ở Mỹ.
Giai đoạn giữa thế kỷ XX: ngành tham vấn tâm lý phát triển mang tính
chuyên nghiệp với các phương thức trị liệu đa dạng.
+ Lý thuyết “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố” của E. Williamson đề xuất các
bước của một hoạt động tham vấn (phân tích vấn đề, tiếp xúc, lập hồ sơ, chuẩn
đoán, trợ giúp và theo dõi).
+ C. Rogers với “Tham vấn và trị liệu tâm lý” – tác phẩm được cho là có
ảnh hưởng lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp sau này – đã đưa tham vấn tâm
lý từ chỗ có định hướng (do ảnh hưởng của việc hướng nghiệp) sang tham vấn tập
trung vào thân chủ (phương pháp thân chủ trọng tâm).
Bên cạnh những hướng tiếp cận chính trên, thập kỷ 60 của thế kỷ XX đánh
dấu sự ra đời của rất nhiều lý thuyết và cách tiếp cận mới như: tiếp cận hành vi của

Bandura (1969), phép trị liệu hiện thực của William Glasser (1961-1965), tiếp cận
Gestalt của Fritz Perls (1969), tiếp cận ứng xử học của Bern (1964)…
Giai đoạn cuối thế kỷ XX đến nay: tham vấn tập trung vào lĩnh vực văn hóa,
còn gọi là tham vấn xuyên văn hóa.
Vẫn dựa trên nền tảng các lý thuyết tâm lý học, nhưng tham vấn tâm lý
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
7
Khoá luận tốt nghiệp
chuyển sang hướng tiếp cận thân chủ có cân nhắc đến sự khác biệt về văn hóa.
“Thế giới của những nhà tham vấn” của E. D. Neukrug đã dẫn ra rất nhiều các giá
trị văn hóa cần xét đến trong mối quan hệ tham vấn (ngôn ngữ gốc, quyền hành,
trách nhiệm, quan niệm ứng xử, giao tiếp, tôn giáo, gia đình…) của các nền văn
hóa khác nhau (người châu Á, người châu Phi, người Mỹ latinh…).
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Trong giai đoạn khởi đầu của hoạt động tham vấn (cuối thập niên 80 đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX), tham vấn được xem là một bộ phận của công tác xã
hội. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của ThS. Nguyễn Thị Oanh ở TP. Hồ
Chí Minh như: “Tâm lý truyền thông và giao tiếp”, “Tư vấn học đường”, “Sài Gòn
– TP. Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển” (phần “Các hoạt động xã
hội và công tác xã hội chuyên nghiệp”), “Tài liệu tập huấn về công tác xã hội”.
Các công trình nghiên cứu và hồ sơ tâm lý mà cố BS Nguyễn Khắc Viện và
cộng sự của ông ở Trung tâm N-T có thể xem là có vai trò tiên phong trong lĩnh
vực tham vấn và trị liệu nói chung, trong đó có tham vấn tâm lý.
Năm 1995 – 1996, các khóa tập huấn đầu tiên về tham vấn trẻ em do Ủy
ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, đặt nền tảng tâm lý
tham vấn cho cán bộ làm việc trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em sau này. Các cán bộ
giảng dạy (TS. Nguyễn Thị Mỹ Lan, PGS-TS. Trần Thị Minh Đức, TS. Bùi Xuân
Mai, cán bộ lãnh đạo ngành Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Hà Nội và Ủy ban Bảo vệ,
chăm sóc trẻ em Việt Nam) đã biên soạn bài giảng cho lớp tập huấn các lớp tham
vấn trẻ em này.

Từ cuộc hội thảo đầu tiên tại Hà Nội năm 2002, bàn về thực trạng công tác
tham vấn trẻ em, đến nay đã có khá nhiều cuộc hội thảo liên quan đến tham vấn
tâm lý, công bố các công trình nghiên cứu, các quan điểm, lý luận và thực hành về
tham vấn tâm lý. Có thể kể đến là:
+ Hội thảo quốc tế về kinh nghiệm trợ giúp tâm lý do trường Đại học
KHXH&NV Hà Nội tổ chức 2 lần vào các năm 2003 và 2008.
+ Hội thảo về tham vấn và trị liệu tâm lý do khoa Tâm lý học – ĐHSP Hà
Nội tổ chức năm 2006.
+ Hội thảo khoa học quốc gia: Tư vấn tâm lý – giáo dục, lí luận, thực tiễn
và định hướng phát triển, Tp Hồ Chí Minh, 2006.
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
8
Khoá luận tốt nghiệp
Song song với các nghiên cứu về tham vấn tâm lý nêu trên là sự xuất hiện
và phát triển hoạt động của rất nhiều các cơ sở, các trung tâm và dịch vụ tham vấn
tâm lý. Ví dụ như Trung tâm tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình (thuộc hội Tâm lý
giáo dục học Tp HCM), Trung tâm tư vấn Hướng Dương (thuộc Liên đoàn Lao
động Tp HCM), Trung tâm N-T, Công ty tham vấn Share, các đường dây tư vấn
1088 hoặc 1900…
1.1.2. Các nghiên cứu về đồng tính nữ
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association, APA)
không đưa ra lý giải khoa học cho hiện tượng đồng tính nói chung và đồng tính nữ
nói riêng mà chỉ nêu các dẫn chứng, nghiên cứu để đưa đến kết luận có tính chất
hiển nhiên về sự tồn tại của khuynh hướng tình dục đó nhằm loại bỏ đồng tính
luyến ái ra khỏi các bệnh về rối loạn tâm thần và hướng dẫn xã hội giúp đỡ những
người đồng tính luyến ái hòa nhập cộng đồng để có cách nhìn cảm thông hơn với
những người này. APA đã loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các triệu
chứng và bệnh rối loạn tâm thần vào năm 1973. Đồng thời vào tháng 12/1992,
APA đã đưa ra lời kêu gọi thế giới cùng hành động để bảo vệ quyền lợi của những

người đồng tính luyến ái: “Xét thấy luyến ái đồng giới tự thân nó không hề hàm
chứa việc có hay không sự thiệt hại, tính ổn định, sự tin cậy, trong năng lực xã hội
chung hay khả năng tác nghiệp (ở người đồng tính ái), Hiệp hội Tâm thần học
Hoa Kỳ kêu gọi các tổ chức y tế trên thế giới và cá nhân các nhà tâm thần học ở
các quốc gia hãy thúc đẩy trên đất nước mình việc bãi bỏ những trừng phạt pháp
lý đối với tình cảm và tình dục đồng giới có sự đồng thuận giữa những người
trưởng thành. Ngoài ra, APA cũng kêu gọi các tổ chức và cá nhân này hãy thực
hiện mọi việc có thể để giảm đi những sỉ nhục có liên quan đến luyến ái đồng giới,
ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào”.
Hiện nay, các nhà khoa học chưa tìm ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
này ở một số người trong xã hội nhưng hầu hết đều cho rằng khuynh hướng tình
dục trên chịu sự chi phối của cả yếu tố sinh học và xã hội. Trường phái tâm thần
học của Sigmund Freud đưa ra quan điểm: Trong khi hầu hết loài người sinh ra với
khuynh hướng tình dục dị giới thì tâm sinh lý, với sự phát triển riêng của mình do
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
9
Khoá luận tốt nghiệp
các yếu tố bên trong và bên ngoài chi phối đã tạo ra hiện tượng đồng tính luyến ái.
Kết quả các cuộc nghiên cứu, thống kê và khảo sát của các nhà nghiên cứu tâm
thần học, nhi khoa khác đều đi đến kết luận đồng tính luyến ái không phải là sự rối
loạn tâm thần mà là một hiện tượng bình thường trong tự nhiên, những người có
khuynh hướng tình dục trên hoàn toàn không phải do sự lựa chọn chủ quan của họ.
Ngày 17/5/1990 Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã xóa bỏ đồng tính luyến
ái nói chung và đồng tính nữ ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Có thể nhận
thấy gần như tất cả quan điểm liên quan đến đồng tính (dù trên phương diện khoa
học hay tôn giáo) đều thống nhất rằng: trong xã hội thật sự tồn tại một nhóm ít
người có khuynh hướng tình dục đồng giới. Đồng tính luyến ái không phải là một
bệnh và những người đồng tính cần được sự quan tâm, chia sẻ của xã hội, không
nên có các hành vi kỳ thị, xa lánh họ chỉ vì họ là người đồng tính.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường (ISEE) về sự kì thị người đồng tính nữ cho thấy: 1,5% đã bị đuổi học khi bị
phát hiện là người đồng tính; 4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở; 4,5% từng bị tấn
công và bị đánh đập vì là người đồng tính; 15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì
là người đồng tính.
Một nghiên cứu khác về sức khỏe và tinh thần của người nữ quan hệ với
người cùng giới đã đưa ra một số biểu hiện của thái độ kì thị người đồng tính như:
định kiến và phân biệt đối xử, lăng mạ và bạo hành thể xác ở gia đình, chê cười tại
trường học, sa thải hoặc từ chối tuyển dụng tại nơi làm việc, gây áp lực phải lấy
chồng và có con, một số người đồng tính còn kì thị với chính bản thân, coi mình
mắc bệnh kinh niên và dị thường, hoặc có suy nghĩ hoặc hành động tự tử. Hội chứng
sợ đồng tính luyến ái đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực, đe dọa đời sống tinh thần
và sức khỏe người đồng tính khiến cho việc hòa nhập xã hội của họ gặp nhiều khó
khăn. Sự gia tăng hay ngầm không phản đối những hành vi kỳ thị trên đồng thời là
dấu hiệu đi xuống của đạo đức khi con người mặc nhiên để những điều bất công đó
được tồn tại.
Các nghiên cứu trong nước đồng quan điểm cho rằng, trên phương diện
khoa học người đồng tính nữ được xem như một người bình thường nhưng thực tế
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
10
Khoá luận tốt nghiệp
cuộc sống lại đặt người đồng tính vào những nguy cơ bị xâm hại, đe dọa xâm hại
đến đời sống của họ xuất phát từ các thái độ tiêu cực của xã hội. Những định kiến,
kỳ thị nêu trên tạo ra sự uy hiếp và đối xử không công bằng với bộ phận người
đồng tính trong xã hội – một nhóm người yếu thế, đang chịu những tổn thương
nhất định trong việc hòa nhập với cuộc sống thật của mình và với cộng đồng người
nói chung. Sự tồn tại của người đồng tính nữ trong xã hội với những khó khăn, thử
thách mà họ đang chịu đựng sẽ là các căn cứ quan trọng để đưa ra kiến nghị về
việc thừa nhận các quyền cho người đồng tính nữ.
Tóm lại, các nghiên cứu về tham vấn tâm lý và đồng tính nữ trên thế giới và

trong nước từ trước tới nay đều đi đến khẳng định rằng người đồng tính nữ là một
trong những đối tượng cần tham vấn tâm lý trước những sự kì thị và khó khăn khi
họ tiếp cận với xã hội. Tuy nhiên, số người đồng tính nữ tìm tới hoạt động tham vấn
tâm lý không nhiều, các hoạt động tham vấn tâm lý cho họ cũng gặp nhiều khó khăn
trong tính chất đặc thù của hoạt động này. Đối với học sinh đồng tính nữ thì việc
tiếp cận trở nên khó khăn hơn khi các em gặp nhiều khó khăn trên nhiều phương
diện khác nhau. Chính vì vậy mà tôi đã lựa chọn việc tham vấn tâm lý cho học sinh
đồng tính nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng làm đề tài nghiên cứu cho mình.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Tham vấn tâm lý
1.2.1.1. Khái niệm tham vấn
Tham vấn tâm lý (Counseling Psychology) là một thuật ngữ không còn xa lạ
ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15 năm nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn đang tồn
tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này. Không riêng gì ở Việt
Nam mà trên thế giới, thuật ngữ tham vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác
nhau. Đôi khi, nó chỉ những hoạt động của những người giúp đỡ thông thường,
hoặc của tình nguyện viên, họ được xem là những người làm công tác trợ giúp.
Hoặc thuật ngữ này dùng cho những người làm tham vấn chuyên nghiệp tại các
bệnh viện, trung tâm, dịch vụ - xã hội, hoặc các trường học với nền tảng kiến thức
về tâm lý học, công tác xã hội hoặc các ngành khác.
Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ (ACA, 1997) cho rằng: Tham vấn là sự
áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức khỏe, tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con
người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
11
Khoá luận tốt nghiệp
cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề
nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý.
Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng định nghĩa tham vấn tâm lý của PGS.TS
Trần Thị Minh Đức. Theo đó, trong điều kiện hoạt động tham vấn ở Việt Nam còn

tự phát và ai cũng có thể tự cho mình là nhà tham vấn khi họ muốn làm công việc
trợ giúp người khác thì một định nghĩa về tham vấn đầy đủ hơn có thể phát biểu là:
Tham vấn là một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và
kỹ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp
luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách hàng – người đang có vấn đề khó
khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ). Thông qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ
tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề
nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản
thân để giải quyết vấn đề của chính mình.
Dù là với khái niệm nào đi nữa, cần khẳng định bản chất của tham vấn tâm
lý là hoạt động hay phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của
chính mình chứ không phải là hoạt động đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường
hiểu. Sự trợ giúp ở đây được thể hiện qua việc giúp người có vấn đề hiểu được
chính họ, hoàn cảnh của họ, phát huy được tiềm năng, năng lực vốn có của chính
mình. Với ý nghĩa này, tham vấn còn có tác dụng giúp đối tượng nâng cao khả
năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống. Toàn bộ quá trình tham vấn thể hiện ở
các giai đoạn hợp tác khác nhau đòi hỏi việc sử dụng các kỹ năng khác nhau của
nhà tham vấn. Nhà tham vấn cần có thời gian để hiểu vấn đề của thân chủ và con
người thân chủ. Cũng như vậy, thân chủ cần có thời gian để kiểm nghiệm khách
quan vấn đề của mình. Quá trình tham vấn hướng tới những kiến thức và nhân
cách làm người, gắn với sự trưởng thành của thân chủ và cả nhà tham vấn. Điều
này khác hẳn với việc cho lời khuyên, ra quyết định thay cho thân chủ. Và đây
cũng là cơ sở chủ yếu để phân biệt tham vấn tâm lý với các loại hình tư vấn, trị
liệu khác.
Nói tóm lại, quá trình tham vấn tâm lý nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách
nhiệm với cuộc đời của mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của mình, và nhà
tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
12
Khoá luận tốt nghiệp

gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không đưa ra lời
khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ
không làm hộ cho thân chủ. Quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, dám nghĩ
và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình. Vì thế có thể nói tham vấn tâm
lý là một quá trình phát triển.
1.2.1.2. Mục đích của tham vấn tâm lý
* Mục đích chung
+ Sứ mệnh của tham vấn tâm lý là hỗ trợ và phát triển.
+ Đạt được những thay đổi ở người đến tham vấn (thân chủ, khách hàng),
những thay đổi ấy có thể diễn ra trong 3 lĩnh vực cơ bản sau:
Cảm nhận: tham vấn tâm lý có thể làm thay đổi cách mà khách hàng cảm
nhận về vấn đề và bản chất xã hội. Thông thường đây là cái đích đầu tiên mà người
ta đặt ra trong quá trình tham vấn, giúp cho khách hàng nhận ra vấn đề, thay đổi
cách nhìn nhận của họ.
Niềm tin: khách hàng thay đổi niềm tin, xây dựng niềm tin về bản thân và
sự phát triển. Tham vấn tâm lý hướng đến việc tạo ra những thay đổi về niềm tin.
Thông thường, giai đoạn này trong tham vấn tâm lý thường diễn ra khá dài mới
xây dựng được niềm tin cho khách hàng.
Kĩ năng và thói quen: tham vấn tâm lý hướng tới việc phát triển khách
hàng, tạo những kỹ năng mới để họ đương đầu một cách hiệu quả với các vấn đề
của họ, những kỹ năng tận dụng tối đa các cơ hội, giảm thiểu những yếu tố trở ngại
trong môi trường, hình thành thói quen ứng xử mới.
* Mục đích cụ thể
- Giúp thân chủ giảm bớt các cảm xúc tiêu cực trong hoàn cảnh khó khăn và
cảm thấy thoải mái khi trò chuyện về nan đề của mình.
- Giúp thân chủ tăng thêm hiểu biết về bản thân và hoàn cảnh của họ; giúp
thân chủ biết chấp nhận nan đề của mình như nó đang có.
- Giúp thân chủ đưa ra các quyết định lành lành mạnh và có khả năng xử lý
được nan đề.
- Hướng dẫn thân chủ thi hành các quyết định của họ và có khả năng dự

phòng các tình huống tương tự xảy ra trong tương lai.
Các cá nhân khi có nhu cầu trợ giúp tùy vào các mục đích họ đặt ra mà nhà
tham vấn tiến hành hoạt động và xác định thời gian công việc giúp đỡ. Mục tiêu tham
vấn luôn luôn được xác định từ thân chủ và nhà tham vấn cần nắm rõ nhu cầu tham
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
13
Khoá luận tốt nghiệp
vấn của thân chủ. Với một số thân chủ, sự trợ giúp đơn thuần chỉ là giải tỏa cảm xúc
(đạt mục đích I). Vì vậy, việc lắng nghe thân chủ giải tỏa và sử dụng kĩ năng thấu cảm
để thân chủ lấy được tôn trọng, được chấp nhận là đủ. Nhưng với một số thân chủ
khác, mục tiêu tham vấn không đơn thuần chỉ là giải tỏa cảm xúc, nhận biết vấn đề
của mình, hay biết cách đưa ra các biện pháp đối phó, mà hơn thế nữa họ cần thay đổi
hành vi. Do đó, nhà tham vấn phải dành nhiều thời gian và cân nhắc các phương pháp
tiếp cận để giúp thân chủ đạt được cả 4 mục tiêu tham vấn của họ.
1.2.1.3. Các hình thức tham vấn tâm lý
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức tham vấn
khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân. Hiện Nay tham vấn là
một hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày, được phát triển
với nhiều mức độ khác nhau. Chúng ta có thể khái quát vào các loại hình tham vấn
tâm lý sau:
- Tham vấn trực tiếp
- Tham vấn qua thư/báo in
- Tham vấn qua đài
- Tham vấn qua điện thoại
- Tham vấn qua trang wed
- Tham vấn qua email
1.2.2. Đặc trưng của người đồng tính nữ ở độ tuổi THPT
1.2.2.1. Khái niệm, nguyên nhân
* Đồng tính nữ
Xét về góc độ giới tính, ngày nay chúng ta có thể chia thành 4 loại: giới

nam, giới nữ, giới thứ 3 (đồng tính nam hoặc đồng tình nữ) và giới thứ 4 (nam-nữ
chỉ “gắn bó” về mặt tinh thần chứ không có yếu tố tình dục). Tuy nhiên, có 1 loại
mà có thể xem đó là một xu hướng tình dục, đó là người lưỡng tính (có quan hệ
tình dục với cả nam và nữ).
Những người được gọi là người đồng tính (hay còn gọi là người thuộc giới
thứ 3) khi những người này có khuynh hướng thích, yêu và quan hệ tình dục với
người cùng giới với mình. Nam với nam người ta gọi là “gay”, nữ với nữ người ta
gọi là “les”. Yếu tố tình dục dường như khá quan trọng ở người đồng tính nam
(gay). Người đồng tính nam đến với nhau chủ yếu là ham muốn về mặt thể xác.
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
14
Khoá luận tốt nghiệp
Chính vì thế, mối quan hệ này rất lỏng lẻo và rời rạc, thời gian gắn bó của 2 người
với nhau là khá ngắn, họ có rất nhiều bạn tình vì thế sự chung thủy là rất hiếm nên
nhiều người đồng tính nam (gay) cảm thấy buồn và chán nản vì khó tìm một người
chung thủy trong giới của họ. Người đồng tính nam (gay) dễ dàng chấm dứt một
mối quan hệ khi nhu cầu về thể xác đã được thỏa mãn.
Ngược lại, ở người đồng tính nữ (les) thì lại khác. Yếu tố gắn bó chính
trong mối quan hệ này là tình cảm. Vì thế, 2 người nữ lúc đầu chỉ là cảm mến
nhau, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, cảm thông vì hoàn cảnh của 2 người khá giống
nhau, sống chung với nhau và theo quy luật hình thành tình cảm thì tình cảm này
dần lớn lên và phát triển thành tình yêu và có yếu tố tình dục. Vì thế, đồng tính nữ
có thời gian gắn bó lâu dài hơn đồng tính nam, tình cảm rất mãnh liệt. Nếu một
trong 2 người không muốn tiếp tục vì không còn tình cảm hoặc đến với một người
khác thì sẽ bị đối phương níu kéo, theo đuổi ráo riết và thậm chí là giết hại người
bạn đời của mình vì không muốn đánh mất hay san sẻ tình cảm đó cho người khác.
* Các căn nguyên của đồng tính nữ
Xét về nguyên nhân, về cơ bản chúng ta có thể phân đồng tính nữ thành 2
loại: đồng tính nữ có căn nguyên sinh học (nhiều người gọi là “đồng tính nữ
thật”) và đồng tính nữ có căn nguyên tâm lý xã hội (nhiều người gọi là “đồng

tính nữ giả”).
a) Đồng tính có căn nguyên sinh học
Trong mỗi người chúng ta, có 2 loại hóc môn giới tính: Testosterone và
Oestrogen. Oestrogen hay còn gọi là hóc môn nữ tính, có tác dụng hình thành hình
hài người nữ và nữ tính ở người phụ nữ. Nếu là một nữ thực thụ thì lượng
Oestrogen không những đủ để hình thành hình hài của người nữ mà còn thể hiện
nữ tính của người phụ nữ. Nếu lượng Oestrogen (hooc môn nữ tính) ở người nữ
chỉ đủ hình thành hình hài người nữ thôi, chứ không đủ để thể hiện nữ tính, trong
khi đó lượng Testosterone (hóc môn nam tính) có khuynh hướng gia tăng quá mức
thì người nữ đó sẽ có hình hài là nữ nhưng tính tình, cách hành xử và giọng nói thì
mạnh mẽ như con trai, thích tiếp xúc với người nữ hơn và họ nghĩ mình là nam nên
tìm một đối tượng là nữ. Vì thế, có hiện tượng là đồng tính nữ (les).
Đồng tính có căn nguyên sinh học như đã trình bày ở trên có thể điều trị
theo y học bằng cách duy trì việc bổ sung hóc môn và rèn luyện hành vi, thói quen
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
15
Khoá luận tốt nghiệp
trong giao tiếp và thậm chí có thể chuyển đổi giới tính.
b) Đồng tính có căn nguyên tâm lý - xã hội
Một căn nguyên nữa được lý giải cho hiện tượng đồng tính nữ đó là các căn
nguyên tâm lý - xã hội.
Đồng tính có căn nguyên tâm lý xã hội là loại đồng tính mà nguyên nhân
xuất phát từ các yếu tố tâm lý xã hội. Sau đây là một số nguyên nhân điển hình:
+ Mong đợi của bố mẹ về giới tính của con trước khi sinh: Nhiều trường
hợp, bố mẹ mong có con trai nên trong giai đoạn thai giáo, việc giáo dục thai nhi
được tiến hành theo cách giáo dục cho nam. Khi sinh ra đời, đứa trẻ là một nữ chứ
không phải là nam. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn muốn đứa trẻ đó là một người nam chứ
không phải là nữ nên cho trẻ mặt đồ của nam, chơi những trò chơi của nam và giáo
dục theo cách với nam… Tất cả những điều này dần làm cho trẻ không thể định
hướng giới tính của mình một cách chính xác mà bị lệch lạc. Trẻ nghĩ mình là một

người nam trong khi thân thể là một người nữ. Vì thế, trẻ có khuynh hướng gần gũi
và thích tiếp xúc với nữ hơn và đối tượng trong tình yêu và hôn nhân đó là một nữ.
+ Gia đình có bố mẹ ly thân/ly hôn: Mặc dầu chưa có số liệu thống kê một
cách chính xác, tuy nhiên, qua tiếp cận lâm sàng một số trường hợp đồng tính có
căn nguyên tâm lý xã hội cho thấy, hầu hết trẻ nữ rơi vào hoàn cảnh của những gia
đình mà bố mẹ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn xung đột, ly thân và ly hôn. Trẻ nữ
luôn chứng kiến những bất hòa xảy ra giữa bố mẹ chúng và không thể tin tưởng
vào mối quan hệ tình cảm khác giới như mối quan hệ tình cảm của bố mẹ chúng
hiện tại. Trẻ nữ có xu hướng làm ngược lại để tránh sự đỗ vỡ như mẹ và bố chúng,
đó là tìm đến mối quan hệ đồng giới để được an toàn.
+ Khủng hoảng về hình mẫu: Trong gia đình, thông thường trẻ nữ có
khuynh hướng chọn cho mình một mẫu người mà mình sẽ hướng tới. Hình mẫu
của trẻ nữ đó là mẹ, chị gái, bà nội/ngoại, cô, dì, người hàng xóm, hoặc là một nữ
diễn viên/ca sĩ mà trẻ thần tượng. Cơ chế bắt chước đã giúp trẻ nữ xây dựng mô
hình giới tính của mình theo hình mẫu mà chúng đã lựa chọn. Tuy nhiên, vấn đề sẽ
khác khi trẻ bị khủng hoảng về hình mẫu. Người mẹ trong gia đình không phải là
hình mẫu cho trẻ hướng đến bởi vì người mẹ thì nghiện ngập, ngoại tình, đánh đập
và hành hạ con cái, sống ích kỷ…làm cho trẻ nữ không tin tưởng, hoài nghi về bố
mẹ, thậm chí là ghét/căm thù người mẹ. Trẻ nữ cũng không chọn được ai để làm
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
16
Khoá luận tốt nghiệp
hình mẫu cho mình, vì thế trẻ có khuynh hướng làm ngược lại bằng cách chứng
minh mình có thể làm người đàn ông tốt (trong khi thân thể của mình là nữ).
+ Ảnh hưởng của tuổi thơ: Trẻ nữ bị bạn bè trêu chọc là "pê-đê" khi còn
nhỏ hoặc bị người đồng tính nữ lạm dụng tình dục hay cưỡng hiếp.
+ Tính tò mò của tuổi trẻ và bạn bè xấu rủ rê: Nhiều bạn nữ bước vào thế
giới đồng tính chỉ vì bị bạn bè xấu rủ rê, lôi kéo hay vì tò mò, muốn khám phá, trải
nghiệm cái mới mà mọi người đang theo thử xem nó như thế nào nhưng khi bước
vào rồi thì không có đường ra. Đây là nguyên nhân chính mà giới trẻ nói chung và

nữ giới lứa tuổi THPT hiện nay bước vào thế giới thứ 3 theo trào lưu mới và không
cân nhắc những tai hại đáng tiếc có thể xảy ra. Đây là những trẻ đáng trách hơn là
đáng thương.
1.2.2.2. Những đặc điểm tâm lý cơ bản của học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi
THPT
Nhìn chung học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT thường có những đặc
điểm tâm lý sau:
* Về trạng thái xúc cảm, tình cảm
Họ đã trải qua các rối loạn trong quá khứ thường bộc lộ các triệu chứng như
dễ nôn nóng bất an, hay có cảm xúc phiền muộn, mất ngủ, kém tập trung, thường
có trạng thái kích động, trí tuệ kém, dễ mệt mỏi, căng cơ hay choáng váng, thu
gọn, cuộn tròn mình lại, dễ dẫn đến trầm cảm, lo âu.
Họ thường có mặc cảm có lỗi, hay giận dữ và có ác cảm với người khác –
hay hoài nghi thiếu tin tưởng, khó diễn tả cảm xúc bằng lời do muốn đè nén tâm
trạng và cũng ít bao giờ khuyến khích nói về mình và thường không đủ ngôn từ để
diễn tả tâm trạng của mình vào lúc đó.
* Về tính cách
Họ thường có những biểu hiện về mặt tính cách như sau:
+ Mất đi sự ham thích và sinh lực: Họ dễ đau khổ, lo lắng hoặc sợ sệt, có
thể ngồi im một chỗ suốt ngày, không ham thích một hoạt động nào.
+ Ít tập trung và hay bứt rứt: Họ dễ buồn bã, lo lắng nên thường khó tập
trung, đôi khi căng thẳng quá thì lại trở nên hiếu động, chạy nhảy lăng xăng và dễ
bị kích động.
+ Hung hăng, phá phách: Họ dễ có thái độ hung hăng, phá phách vì họ khó
diễn tả cảm xúc bằng lời, họ thích đánh nhau khi họ cảm thấy căng thẳng, tức giận
hoặc sợ hãi, họ thường bắt chước những hành vi hung bạo vì họ từng là nạn nhân
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
17
Khoá luận tốt nghiệp
của những hành vi bạo lực tinh thần hay thể xác.

+ Không nói thật: Vì họ thường ước mơ một hoàn cảnh khác, tránh né
những hoàn cảnh trong thực tế hay cố gắng lấy lòng người khác (nói những gì họ
muốn nghe) nên họ dễ nói dối (có khi cho đó là chuyện bình thường) và cũng
không muốn tiếp xúc để phải bộc lộ.
+ Có tính đa nghi: Họ thường không tin vào người khác nếu đã từng bị đối
xử hung bạo. Tuy nhiên, những học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT có khi bám
chặt vào người khác, nhất là người bạn giống như họ vì sợ bị bỏ rơi.
+ Họ khó tính và dễ nổi nóng: Dưới vẻ chịu đựng và chấp nhận, họ rất khó
kết bạn và có nhiều sự đòi hỏi đôi khi khá cực đoan.
+ Họ thiếu khả năng diễn đạt: Họ không phải lúc nào cũng có thể nói về
tâm trạng của mình, có thể vì quá bối rối hay sợ hãi nên khó xác định được tâm
trạng của mình hoặc không biết cách diễn tả.
* Về kĩ năng sống
Có thể thấy đặc điểm rõ nhất về tâm lý là học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi
THPT hầu như không có hay rất ít kĩ năng sống trước những nạn bạo lực học
đường, kì thị và tệ nạn của xã hội, mà lại biểu hiện chính là:
+ Không quý trọng bản thân: Họ có những nhận thức tiêu cực về cách sống
vì thế không có sự trung tín, dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội, thường có những
quan hệ tình dục đồng giới sớm và luôn nhìn những sự quan tâm chăm sóc người
khác với mình dưới ánh mắt nghi ngại.
+ Không xây dựng được định hướng: Họ không có một suy nghĩ hay lựa chọn
hợp lý nào cho tương lai, họ không tin vào năng lực bản thân mình, thiếu sự khoan
dung nên thường cho người khác xấu xa và có ác ý với mình nên cũng không tin
tưởng những định hướng mà người khác đưa ra với mình.
+ Thiếu sự tự tin và bản lĩnh: Có một số người trong số họ tỏ ra lanh lợi
nhưng đó chỉ là trong những ứng xử mang tính bề ngoài, hay chỉ biết những kĩ xảo
để đem lại quyền lợi trước mắt cho những nhu cầu vật chất của mình mà không
nghĩ đến những ích lợi lâu dài hơn. Đây là một thách thức lớn cho các hoạt động
đưa họ trở lại hòa nhập với cộng đồng.
+ Thiếu sự linh hoạt và thích nghi: Họ thường cho rằng, mình buộc phải

làm những điều mà người khác không muốn mình làm vì quyền lợi của họ chứ
không phải cho mình, và vì thế họ không có được sự linh hoạt và chủ động mà
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
18
Khoá luận tốt nghiệp
thường có thái độ nói gì nghe nấy, chỉ gì làm nấy, thiếu sáng tạo và tìm tòi để có
thể đạt được những kết quả tốt hơn, đây cũng là một trở ngại mà những người làm
công tác giáo dục cho họ phải vượt qua.
+ Không có khả năng từ chối: Nói chữ "không" là điều có vẻ như đơn giản,
nhưng thực sự khó khăn với một số người và đặc biệt đối với học sinh đồng tính
nữ ở độ tuổi THPT, vì thế khi tiếp cận với những nhu cầu vật chất hay những lời
đề nghị đường mật, những lời đe dọa… thì họ ít có năng lực phản đối mà thường
cúi đầu chấp nhận để rồi rơi vào những trạng thái nặng nề, dằn vặt bản thân mình
hay có khi không đánh giá được những hậu quả để lại cho sự nhu nhược của mình.
Mặc dù vậy, ở học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT cũng có những năng
lực như sự cần cù, chịu khó – chấp nhận những thực tế, ít mơ mộng và có những
em có những nghị lực, ý trí vượt qua những kì thị, nạn bạo lực học đường, để tìm
cách để vươn lên, cố gắng hòa nhập với trường lớp và cộng đồng. Các em này
thường tỏ ra chững chạc, trưởng thành trước tuổi, có ý thức trách nhiệm trong công
việc và rất chịu khó học tập.
1.2.3. Tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT
Cần nhấn mạnh rằng học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT là đối tượng
được xếp vào nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cùng với những
nhóm đối tượng có khó khăn về tâm lý khác như: học sinh đồng tính nam ở độ tuổi
THPT, trẻ bị lạm dụng tình dục, trẻ chịu các sang chấn tâm lý, trẻ bị bạo lực học
đường, trẻ có hoàn cảnh khó khăn khác Do đặc thù của một cuộc sống gặp nhiều
sự kì thị và hoài nghi, bản thân họ rất dễ gặp những vấn đề về tâm lý, nên họ luôn
có nhu cầu được giúp đỡ, trong đó có nhu cầu được tham vấn tâm lý.
Từ những kết luận trên chúng ta có thể hiểu hoạt động tham vấn tâm lý cho
học sinh đồng tính nữ ở trường THPT như sau:

Đó là một quá trình tương tác giữa tham vấn viên (trong các phòng tham
vấn học đường ở trường THPT) với học sinh đồng tính nữ ở trường THPT. Thông
qua các kỹ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và
mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), học sinh đồng tính nữ ở trường THPT hiểu
và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề
của chính mình.
* Tiến trình tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
19
Khoá luận tốt nghiệp
Tiến trình tham vấn cho thân chủ vừa phải dựa vào đặc điểm riêng của đối
tượng tham vấn, vừa phải dựa vào dựa vào quy trình tham vấn tâm lý cơ bản của
người tham vấn viên. Hoạt động tham vấn này được xác định trải qua 3 giai đoạn
như sau:
- Giai đoạn tiếp cận:
Là giai đoạn quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của cả
quá trình tham vấn. Ở giai đoạn này, kỹ năng giao tiếp của tham vấn viên cực kì
cần thiết để tạo mối quan hệ tốt, giúp thân chủ cảm thấy được thông cảm, được
hiểu.
Đối tượng là học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT với những đặc điểm
tâm lý vô cùng phức tạp, bản thân họ lại rất nhạy cảm trước những kì thị mà môi
trường xã hội thường gây cho họ, do đó họ thường sẵn sàng từ chối những sự giúp
đỡ, thu mình vào một góc, ít giao tiếp, ít bày tỏ cảm xúc của chính bản thân, giữ
lấy bí mật của mình.
Vì vậy việc tiếp cận họ thường khó khăn ở chỗ họ ít thổ lộ hiện thực bản
thân mình.
Muốn vậy, nhà tham vấn trong buổi trò chuyện cần chủ động khơi gợi giá
trị bản thân và những nỗ lực trong cuộc sống của họ, tránh đụng chạm tới nỗi đau
tinh thần của họ, nhưng đồng thời cũng không né tránh việc đề cập tới vấn đề khó
khăn tâm lý của họ.

Lắng nghe họ nói về bản thân và phản hồi tích cực là bước tiếp cận hiệu quả
nhằm xây dựng lòng tin cho thân chủ đối với tham vấn viên.
- Giai đoạn hành động:
Sau khi tạo mối quan hệ tốt, tham vấn viên và thân chủ cùng nhau thảo luận
về hoàn cảnh, những vấn đề riêng của thân chủ, cũng như giúp họ tìm cách giải
quyết vấn đề. Vai trò của tham vấn viên là giúp thân chủ tự gỡ rối theo cách phù
hợp với hoàn cảnh chứ không làm thay hay ép họ làm theo một cách giải quyết có
vẻ đúng đắn nào đó của tham vấn viên.
Trong giai đoạn này, tham vấn viên cần vận dụng các kĩ năng như lắng
nghe tích cực, phản hồi tích cực, kĩ năng thấu hiểu và tôn trọng, chấp nhận nhân
cách của thân chủ.
- Kết thúc:
Khi nào mục tiêu của một buổi tham vấn đạt được thì có thể kết thúc. Tham
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
20
Khoá luận tốt nghiệp
vấn viên tóm tắt những điều đã nói trước khi kết thúc buổi tham vấn.
Nhờ thân chủ xác định lại các vấn đề và các hành động dự kiến để giải
quyết vấn đề. Hẹn gặp lại (nếu cần).
Thăm dò tình trạng tâm lý của thân chủ sau khi tham vấn.
Tóm lại là việc chăm sóc tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi THPT,
trong đó có hoạt động tham vấn tâm lý của các em cần phải được quan tâm đúng mức
và thực hiện tốt hơn. Để làm được điều này, cần phải có thời gian và sự quan tâm rất
lớn của các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội, nhất là đơn vị trực tiếp đó là trường
THPT - nơi mà họ học tập và rèn luyện nhân cách.
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
21
Khoá luận tốt nghiệp
Chương 2
QUY TRÌNH TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Địa bàn nghiên cứu là thành phố Hà Nội - nơi thân chủ cùng gia đình
đang sinh sống và trường THPT Đinh Tiên Hoàng – nơi thân chủ đang học tập.
2.1.1. Môi trường xã hội
Hà nội là thành phố lớn thứ hai của nước ta, với tốc độ phát triển nhanh và
mạnh, hệ thống phân tầng xã hội phức tạp, các hiện tượng di dân lên thành phố
trở thành phổ biến, kèm theo đó là những hệ lụy xã hội như mại dâm, ma túy
kèm theo.
Dân số Hà Nội ngày một tăng nhanh, nhất là từ khi có quyết định mở rộng
thành phố Hà Nội, chính vì thế lượng nhà trường tăng lên nhanh chóng, trong đó
có nhà trường THPT. Hàng năm mỗi trường THPT tuyển sinh vào hàng nghìn học
sinh khác nhau, với độ tuổi chủ yếu từ 15 đến 18 tuổi.
Tuy nhiên, Hà Nội cũng là một trong những nơi có xuất hiện nhiều hiện
tượng đồng tính luyến ái nói chung và đồng tính luyến ái nữ. Theo số liệu của một
cuộc điều tra trực tuyến của Học viện Báo chí Tuyên truyền khảo sát với 3312 đối
tượng tham gia cho thấy rằng: có tới 12,17% người đồng tính nữ sống tại Hà Nội
(thành phố Hồ Chí Minh là 60,69%) đứng thứ hai toàn quốc, trong đó lứa tuổi THPT
chiếm tới 37,16%. Số người công khai mình là đồng tính nữ là 7,8 %, còn 64,25%
hoàn toàn giữ bí mật hoặc gần như là bí mật về tình trạng đồng tính, 24,96% “lúc
công khai lúc bí mật". Nguyên nhân không công khai giới tính là: sợ xã hội kỳ thị
40,77%, sợ gia đình không chấp nhận 39.40%, sợ bị trêu chọc, bắt nạt 28,50%, sợ
đuổi học 9,79%.
Tuy nhiên hiện nay, ở Hà Nội cũng như ở các thành phố lớn khác như Tp.Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng , hoạt động tham vấn tâm lý nói chung và hoạt động tham vấn
tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở THPT cũng được quan tâm nhiều với nhiều
trung tâm tham vấn ra đời, nhiều tổ chức và dự án chú trọng đầu tư nghiên cứu và
tiến hành các ca tham vấn cụ thể. Ở nhiều trường THPT trên địa bàn thành phố Hà
Nội cũng đã tiến hành mở ra các trung tâm tham vấn tâm lý học đường nhằm tiến
hành tham vấn tâm lý cho học sinh, phụ huynh, giáo viên khi đối mặt với các khó
khăn tâm lý và khó khăn trong hoạt động giáo dục, học tập. Trong đó, ở một số

Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
22
Khoá luận tốt nghiệp
phòng tham vấn còn có nội dung tham vấn riêng cho nhóm đối tượng là học sinh
đồng tính nữ. Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, Quận Hoàn Kiếm, là một trong
những trường như thế.
2.1.2. Môi trường học đường
Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội là
một trường giàu truyền thống dạy học và giáo dục nhân cách cho học sinh. Trường
luôn chú trọng tập trung vào các nội dung giáo dục cho học sinh như: giáo dục giá
trị, giáo dục phòng chống HIV, giáo dục giới tính cho học sinh. Vì vậy trường đã
cho thành lập phòng Tham vấn học đường ngay từ năm 1999 nhằm góp phần trợ
giúp các em học sinh có khó khăn về tâm lý, học đường, đồng thời giúp đỡ cha mẹ
học sinh trong quá trình “Dạy con nên người”. Văn phòng thường xuyên nhận
được sự giúp đỡ của các chuyên gia, các giáo sư tâm lý của Tổ chức ADEPASE
(Cộng hòa Pháp), Viện Tâm lý, Khoa Tâm lý của trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tuy chưa có số liệu chính thức, nhưng trường THPT Đinh Tiên Hoàng cũng
có những đối tượng là học sinh đồng tính nữ. Các em này nằm rải rác ở các lớp
khác nhau, trong cả ba khối lớp học, nhưng tập chung chủ yếu vào các em ở khối
lớp 12, đây là khối lớp mà các em có độ tuổi lớn nhất trong nhà trường và sự thành
thục nhất về giới tính cũng như thể hiện rõ nhất về tự ý thức cá nhân. Do đó, khả
năng phát hiện là lớn nhất, khi các em bộc lộ và công khai giới tính cá nhân. Tuy
vậy, cũng không loại trừ các em có giấu bí mật, dù vậy điều này cũng khiến hoạt
động tiếp cận để tham vấn tâm lý cho họ cũng gặp không ít khó khăn.
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
23
Khoá luận tốt nghiệp
2.2. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Thời gian thực hiện đề tài: từ ngày 27/ 12/ 2011 đến ngày 15/05/2012.

STT Tiến trình nghiên cứu Thời gian
Ghi
chú
1 Xác định tên đề tài
nghiên cứu
12 /2011
2 Xây dựng đề cương đề
tài
Lý do chọn đề tài 1/2012
Mục đích, đối tượng;
khách thể; nghiên cứu;
phương pháp nghiên cứu;
giả thuyết khoa học
1/2012
3 Nghiên cứu lý luận Tìm hiểu các khái niệm
công cụ liên quan đến đề
tài nghiên cứu
2/2012
4 Chuẩn bị nghiên cứu
thực trạng
Xây dựng bảng quan sát 2/2012
5 Nghiên cứu thực trạng Tìm hiểu khách thể và môi
trường thân chủ sống
3,4/2012
Thu thập thông tin liên
quan đến thân chủ
Dựa trên kết quả thu được
hoàn thiện bảng quan sát
6 Phân tích kết quả nghiên
cứu

7 Hoàn thiện đề tài nghiên
cứu
Viết kết quả nghiên cứu:
báo cáo, báo cáo tóm tắt.
5/2012
In ấn 5/2012
8 Báo cáo kết quả nghiên
cứu
5/2012
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết nhiệm vụ thứ hai của đề tài, tôi thực hiện các nghiên cứu bằng
các phương pháp sau:
2.3.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết
A. Mục đích của phương pháp
Nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
24
Khoá luận tốt nghiệp
B. Nội dung của phương pháp
+ Tổng kết các nghiên cứu về hoạt động tham vấn tâm lý và hiện tượng
đồng tính nữ.
+ Xây dựng một số khái niệm cơ bản cho đề tài như: Tham vấn tâm lý, học
sinh, đồng tính nữ ở trường THPT và tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở
trường THPT.
C. Cách tiến hành phương pháp
+ Tiến hành thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài từ các nguồn như sách,
báo, chuyên khảo, tạp chí, công trình nghiên cứu, mạng, thư viện, tài nguyên số,
các thông tin trong các diễn đàn, hội thảo khác nhau về tham vấn tâm lý và đồng
tính nữ.
+ Tiến hành lựa chọn các kiến thức cần thiết có liên quan tới đề tài cần

nghiên cứu.
+ Tiến hành phân tích và tổng hợp, kết luận các kiến thức từ các nguồn
khác nhau, từ đó rút ra các khái niệm mới như: "học sinh đồng tính nữ ở độ tuổi
THPT" và hoạt động "tham vấn tâm lý cho học sinh đồng tính nữ ở trường THPT".
2.3.2. Phương pháp quan sát
A. Mục đích của phương pháp
Nhằm bổ sung kết quả khi thực hiện quá trình tham vấn cho em học sinh
đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng. Góp phần xây dựng phần
kết quả nghiên cứu.
B. Nội dung của phương pháp
+ Quan sát cử chỉ, điệu bộ, thái độ cách trả lời của em đó.
+ Quan sát thái độ quá trình vẽ tranh và thực hiện test của em đó.
+ Quan sát sản phẩm tranh vẽ của của em đó.
C. Cách tiến hành phương pháp
+ Bước 1: Gặp gỡ em học sinh đồng tính luyến ái nữ ở trường THPT Đinh
Tiên Hoàng, khi em đó đến tìm gặp tham vấn viên.
+ Bước 2: Trò chuyện kết hợp với quan sát thái độ và cảm xúc của em học
sinh đó.
+ Bước 3: Ghi chép các nội dung cần thiết lại sau các buổi tham vấn.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Đây là phương pháp chủ đạo, cơ bản nhất mà tôi sử dụng để nghiên cứu
trong đề tài này.
Case study là một phương pháp nghiên cứu được sử dụng phổ biến trong
các ngành khoa học xã hội. Nó dựa trên sự tìm hiểu sâu sắc về một cá nhân, một
Trịnh Thùy Linh Lớp: Tâm lý giáo dục – K2A
25

×