Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Sử dụng mô hình VAR phân tích ảnh hưởng của một số yếu tố trên thị trường tới CPI Việt Nam thời kỳ 2007 - 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.69 KB, 97 trang )

Chuyên đề thực tập 1 Toán Tài Chính
50
MỤC LỤC
Trang
Trang 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC CÁC BẢNG 3
DANH MỤC CÁC HÌNH 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
Bảng 1.1: Quyền số tính CPI của Việt Nam thời kỳ 2006 - 2014 22
Bảng 1.2: tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời kỳ 1986-2011
24
Hình 1.1: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 1986 –
2011 25
Hình 1.2: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2004 -
2011 27
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU 30
CHƯƠNG 3: ÁP DỤNG MÔ HÌNH VAR PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA
MỘT SỐ NHÂN TỐ TỚI CPI TẠI VIỆT NAM 43
Hình 3.2 : Cơ cấu đầu tư của khu vực nhà nước, ngoài nhà nước và FDI 44
Bảng 3.1 : Mức lương tối thiểu chung từ năm 2007 đến 2011 46
Bảng 3.2: Các nhân tố sử dụng trong mô hình VAR 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
PHỤ LỤC 63
Phụ lục 1: Kiểm định tính dừng các chuỗi dữ liệu 63
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 2 Toán Tài Chính
50
Phụ lục 2: Bảng hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình 70
Phụ lục 3: Bảng kiểm định nhân quả các cặp biến số 70


Phụ lục 4: Kết quả ước lượng các mô hình VAR phân tích ảnh hưởng của các
nhân tố tới mức tăng CPI phân loại theo mức độ trễ 77
Phụ lục 4.1: Mô hình VAR trễ 2 thời kỳ 77
Phụ lục 4.2: Mô hình VAR trễ 3 thời kỳ 79
Phụ lục 4.3: Mô hình VAR trễ 4 thời kỳ 81
Phụ lục 4.4: Mô hình VAR trễ 5 thời kỳ 83
Phụ lục 4.5: Mô hình VAR trễ 6 thời kỳ 85
Phụ lục 4.6: Mô hình VAR trễ 7 thời kỳ 89
Phụ lục 4.7: Mô hình VAR trễ 8 thời kỳ 94
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
XHCN Xã hội chủ nghĩa
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 3 Toán Tài Chính
50
NK Nhập khẩu
XK Xuất khẩu
CN Công nghiệp
TCTK Tổng cục thống kê
WTO Tổ chức thương mại thế giới
CPI Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Quyền số tính CPI của Việt Nam thời kỳ 2006 - 2014 24
Bảng 1.2: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời kỳ 1986-2011 27
Bảng 2.1: Kiểm định tính dừng chuỗi số liệu mô hình thời gian phi tuyến 43

Bảng 2.2: Kết quả mô hình chuỗi thời gian phi tuyến 44
Bảng 3.1: Mức lương tối thiểu chung từ năm 2007 đến 2011 49
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 4 Toán Tài Chính
50
Bảng 3.2: Các nhân tố sử dụng trong mô hình VAR 52
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2011 28
Hình 1.2: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2004 – 2011 29
Hình 3.1: Thâm hụt ngân sách, vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài 2000-2010 46
Hình 3.2 : Cơ cấu đầu tư của khu vực nhà nước, ngoài nhà nước và FDI 47
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 5 Toán Tài Chính
50
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển ổn định kinh tế và duy trì tăng trưởng luôn là mục tiêu và định hướng
của mọi quốc gia. Đối với Việt Nam chúng ta - một nước có nền kinh tế chậm phát
triển thì việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao mang tính quyết định nhằm nâng tầm nền
kinh tế. Tuy nhiên vấn đề lạm phát lại đang là một trở ngại và thách thức để có thể đạt
được các mục tiêu đó.
Nhiều nghiên cứu đặc biệt là nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra lạm phát có cả
tác động tích cực lẫn tiêu cực tới đời sống xã hội, điều này tùy thuộc vào cấu trúc nền
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 6 Toán Tài Chính
50
kinh tế và khả năng thích ứng với sự thay đổi liên tục của lạm phát cũng như mức độ

dự báo toàn diện về lạm phát. Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn biến động theo thời
gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng thì nó có thể là một cú sốc đối
với nền kinh tế. Và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả
hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có đang bị lạm phát hoặc giảm phát hay
không. CPI thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong
việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng như chính sách lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước và các NHTM, xác định mức lương cơ bản, nới lỏng hay thắt chặt chính sách
tiền tệ, chính sách tài khóa của chính phủ… từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
sản xuất của các doanh nghiệp, giá thành sản phẩm và đời sống của người dân.
Nghiên cứu lạm phát hiện đang đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn
chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là nghiên cứu theo hướng định lượng. Hiện nay có
rất nhiều nhân tố trên thị trường có khả năng ảnh hưởng tới lạm phát nói chung và mức
tăng CPI nói riêng như: tiền tệ, tổng cầu, giá vàng, giá USD, giá xăng, yếu tố tâm lý…
tuy nhiên chúng ta chưa xác định được mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trên lên CPI
là nhiều hay ít ? theo chiều hướng nào ? và liệu có độ trễ trong việc ảnh hưởng của các
yếu tố tới CPI hay không ?
Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài “Sử dụng mô hình VAR phân tích ảnh
hưởng của một số yếu tố trên thị trường tới CPI Việt Nam thời kỳ 2007 - 2011” để
làm chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu
- Tổng hợp một số lý thuyết về lạm phát nói chung và chỉ số CPI nói riêng. Diễn
biến và nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam những năm vừa qua.
- Phân tích một số nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 2007-2011
dưới góc độ phân tích định lượng sử dụng mô hình VAR.
Phương pháp nghiên cứu
• Sử dụng phương pháp phân tích kinh tế lượng, với bộ số liệu bao gồm các yếu
tố :
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 7 Toán Tài Chính

50
- Lạm phát kỳ vọng: biến đại diện là mức tăng CPI các thời kỳ trước
- Tiền tệ: biến đại diện là mức tăng tổng cung tiền thị trường M2
- Tổng cầu: biến đại diện là mức tăng tổng giá trị sản xuất CN
- Giá lương thực: biến đại diện là mức tăng giá lương thực
- Giá vàng: biến đại diện là mức tăng chỉ số giá vàng
- Giá USD: biến đại diện là mức tăng chỉ số giá USD
- Giá xăng: biến đại diện là mức tăng giá xăng A92 trong nước
Thời gian lấy dữ liệu từ T1/2007 đến T12/2011 (theo tháng), nguồn số
liệu được tổng hợp từ website của Tổng cục thống kê và Phòng Nghiên cứu kinh
tế, Hội sở chính ngân hàng Maritime Bank.
• Sử dụng các mô hình Kinh tế lượng đã được học trong chương trình (đặc biệt là
mô hình VAR) để ước lượng, có tham khảo thêm một số tài liệu về kinh tế vĩ
mô để phân tích kết quả.
Phạm vi nghiên cứu
Do lạm phát là một đề tài nghiên cứu mang tầm vĩ mô với phạm vi kiến thức
rộng lớn, do khả năng và thời gian có hạn nên trong chuyên đề tốt nghiệp này em chỉ
tập trung vào phân tích một số nhân tố có ảnh hưởng lớn đến CPI, để từ đó đưa ra một
số kết luận, dự báo dựa trên các mô hình kinh tế lượng.
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Chung Thủy và các anh chị tại phòng
Nghiên cứu kinh tế, Hội sở chính NHTMCP Hàng Hải Việt Nam Maritime Bank đã
giúp đỡ em trong quá trình viết đề tài. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp,
bổ sung của các thầy cô giáo để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 8 Toán Tài Chính
50
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT

1.1. Vài nét cơ bản về lạm phát
1.1.1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát nếu hiểu đơn giản là hiện tượng dư thừa tiền giấy so với nhu cầu cần
thiết. Tuy nhiên những biểu hiện của nó thì phức tạp hơn nhiều.
Trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới thì lạm phát đã và đang là một vấn
đề hết sức phức tạp đặt ra cho các quốc gia. Lạm phát không chỉ xảy ra ở những nước
có nền kinh tế kém phát triển, mà ngay ở các nước phát triển cũng luôn có bóng dáng
của lạm phát. Lạm phát tác động đến giá cả thị trường, từ đó tác động đến mọi mặt của
đời sống.
Dưới con mắt của các nhà kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian
của mức giá chung trong nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị
thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh giữa các nền kinh tế khác nhau
thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của loại tiền tệ này so với các loại tiền tệ khác. Các
nhà kinh tế học hiện đại cho rằng lạm phát là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh
tế hàng hoá - tiền tệ. Họ cũng nói biểu hiện của lạm phát là khi mức giá chung của
hàng hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ biến trong một khoảng
thời gian đủ dài để biểu hiện rõ thành xu hướng. Do đó nếu giá cả chỉ tăng ở một vài
nhóm hàng hóa mang tính đột biến hay tính thời vụ thì phải loại bỏ các yếu tố đó theo
cách tính chỉ số lạm phát cơ bản.
Như vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Nó sinh ra cùng với việc mở rộng
hệ thống tài chính, các loại tiền tệ theo sự phát triển của nền kinh tế từ công xã nguyên
thủy đến nền kinh tế tự do và đặc biệt là sự xuất hiện của tiền giấy. Đó là hiện tượng
đặc trưng của sự thay đổi mức giá chung, hay là sự tăng lên của mức giá trung bình
theo thời gian.
Theo kinh tế chính trị thì lạm phát là một phạm trù vốn có của kinh tế thị
trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn
trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại
những quan hệ hàng hoá - tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát. Và
lạm phát sẽ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Karl Mark
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy

SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 9 Toán Tài Chính
50
từng viết trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình: "Việc phát hành tiền giấy phải được
giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của
mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành đưa vào
lưu thông vượt quá số lượng vàng bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm
xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Như vậy là lạm phát không có bản chất giai cấp mà chỉ có bản chất kinh tế. Nó
có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp
chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xẩy ra ở bất cứ
nền kinh tế hàng hoá nào với bất kỳ chế độ xã hội nào. Tuy nhiên việc tác động vào thị
trường không thể triệt tiêu hoàn toàn lạm phát mà chỉ kìm giữ nó ở một tỉ lệ nhất định,
vì lạm phát có quan hệ mật thiết với vấn đề thất nghiệp và tiền tệ. Và trên hết, lạm phát
luôn đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại dựa trên 2 tiêu thức, đó là định lượng và định
tính.
1.1.2.1. Phân loại theo định lượng
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động một cách tương đối. Trong thời
kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn
định. Sự ổn định đó được biểu hiện bằng việc giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không
cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn.
Tác động: đây là mức lạm phát mà bình thường các quốc gia phải trải qua và ít
gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó người dân vẫn sẵn sàng giữ
tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính theo đồng nội tệ, họ tin
rằng giá và chi phí của hàng hoá mà họ mua hoặc bán sẽ ko đi chênh lệch quá nhiều
trong tương lai gần.
- Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2

con số một năm.
VD: tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam cuối năm 2007 là 12,63% và đến tháng 4/2008, tỉ
lệ này đã là 21,42%. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 10 Toán Tài Chính
50
tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những
năm đầu thực hiện chính sách cải cách.
Tác động: nếu lạm phát ở mức 2 con số thấp (khoảng 11,12%) thì nói chung các
tác động là không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng
đến hai con số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến
động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc đó sẽ xảy ra hiện tượng người
dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không cho vay tiền ở mức lãi suất
bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì
những tác động tiêu cực không nhỏ của nó. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe
doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế quốc dân.
- Siêu lạm phát: là trường hợp lạm phát 3 con số một năm, xảy ra khi lạm phát
đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh và tốc độ cao. Định nghĩa cổ điển về siêu lạm
phát do nhà kinh tế Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở
lên (nếu tỷ lệ lạm phát này duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm lên
đến 13000 %). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu
lạm phát.
Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung
tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá
lớn. Hơn nữa một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở
nên ko thể kiểm soát được. Dựa trên các bằng chứng lịch sử, dường như thâm hụt ngân
sách kéo dài khi được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng từ 10 đến 12 % GDP sẽ
gây ra siêu lạm phát.
VD: một ví dụ điển hình của siêu lạm phát là vào năm 1913, tức là ngay trước

khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, 1 USD có giá trị tương đương với 4 mark
Đức. Nhưng chỉ 10 năm sau, 1 USD đổi được tới 4 tỉ mark. Vào thời đó, báo chí đã
đăng tải những tranh ảnh biếm họa về vấn đề này như sau: người ta vẽ cảnh một người
đẩy xe tiền đến chợ chỉ để mua một chai sữa, hay một bức tranh khác cho thấy ngày đó
đồng mark Đức được dùng làm giấy dán tường hoặc dùng như một loại nhiên liệu.
Một VD khác: nếu như cuối tháng 2/2008, lạm phát ở Zimbabwe là 165.000%
thì tới tháng 5/2009, con số này đã tiến sát 2.000.000%. Vào thời điểm cuối tháng
3/2008, người ta chỉ mất 15 triệu đô Zimbabwe để mua một ổ bánh mì, thì giờ đây họ
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 11 Toán Tài Chính
50
phải chi tới 600 triệu. Một chai dầu ăn 2 lít khi ấy có giá tới 5 tỷ đô, bằng một tháng
lương của một công nhân có thu nhập thấp.
Tác động: tốc độ và tỷ lệ của siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, tốc độ lưu
thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế
của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn
chính xác, các yếu tố thị trường bị biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào
tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại siêu lạm phát làm cho đời sống và nền
kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.
1.1.2.2. Phân loại theo định tính
- Lạm phát cân bằng: là lạm phát tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người
lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do
đó có thể không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền
kinh tế nói chung.
- Lạm phát không cân bằng: tốc độ tăng giá không tương ứng với tốc độ tăng
thu nhập của người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường xảy ra hơn.
Khi đó mức sống thực tế của người lao động bị giảm sút.
- Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán

trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Lạm phát này không gây thiệt hại lớn
cho nền kinh tế vì dân chúng sẽ làm giảm thiệt hại bằng hai cách: hạch toán thêm tỉ lệ
lạm phát (trượt giá) vào những chỉ tiêu có liên quan hoặc nếu lạm phát dự đoán xảy ra
với tỉ lệ cao, người dân sẽ tránh giữ tiền mà thay vào đó là vàng và ngoại tệ mạnh.
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi.
Từ đó loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế, và niềm tin của nhân
dân vào chính quyền có phần giảm sút. Lạm phát này cũng gây ra sự phân phối lại của
cải trong dân chúng (giữa người đi vay và người cho vay, giữa người trả lương và
người hưởng lương…).
1.1.3. Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 12 Toán Tài Chính
50
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát, tuy nhiên thường được giải thích theo
3 nguyên nhân chính:
- Theo học thuyết tiền tệ: lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung
tiền.
- Theo học thuyết Keynes: lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy: lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí
đẩy).
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể ba nguyên nhân trên và một số
nguyên nhân khác, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
1.1.3.1. Lạm phát do tăng cung tiền
Lạm phát tiền tệ là lạm phát do lượng tiền trong lưu thông trong nền kinh tế tăng lên
(ví dụ do NHNN mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với
trong nước; hay chẳng hạn do NHNN mua công trái theo yêu cầu của nhà nước, hoặc
do nhà nước phát hành thêm tiền khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên và gây

ra lạm phát).
Mô hình cổ điển về lạm phát theo lý thuyết lượng tiền dựa trên phương trình sau:
MV = PT (1.1)
trong đó:
M: là khối lượng cung tiền
V: là vòng quay của tiền
P: là mức giá chung trong nền kinh tế
T: là khối lương giao dịch thực (giả thuyết T bằng với sản lượng Y trong
nền kinh tế)
Trong bối cảnh này, tổng cung AS được giả định là cho trước ở mức độ toàn dụng, hay
nói cách khác, sản lượng đang ở tình trạng cân bằng dài hạn:
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 13 Toán Tài Chính
50
AS = Y (1.2)
với Y là tổng sản lượng thực được xác định bởi hàm sản xuất trong dài hạn. Trong khi
đó, tổng cầu AD được xác định như sau:
AD = (MV)/P (1.3)
Cân bằng trong thị trường hàng hóa và dịch vụ xảy ra khi AD = AS, nói cách khác là
tổng giá trị hàng hóa giao dịch (PY) phải bằng tổng lượng tiền cần thiết để thanh toán
(MV), tức là:
MV = PY (1.4)
Do vậy, từ phương trình (1.4) phương trình số lượng viết dưới dạng sự thay đổi tính
bằng % là:
lnV + lnM = ln P + ln Y (1.5)
% thay đổi M + % thay đổi V = % thay đổi P + % thay đổi Y (1.6)
% thay đổi P = % thay đổi M + % thay đổi V - % thay đổi Y (1.7)
Các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển giả định rằng V là một hằng số bởi
giá trị này phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống tài chính mà điều này không phải

thay đổi ngay được. Riêng Fisher còn đưa thêm giả định rằng Y là một hằng số trong
dài hạn.
Như vậy, lý thuyết lượng tiền đã giải thích điều gì xảy ra khi mức cung ứng tiền
tệ thay đổi. Với giả thiết tốc độ lưu thông tiền tệ không đổi thì bất cứ sự thay đổi nào
trong cung ứng tiền tệ cũng dẫn đến sự thay đổi tương ứng của GDP danh nghĩa. Và vì
các nhân tố sản xuất và hàm sản xuất quyết định mức GDP thực tế và xem GDP thực tế
không đổi, nên mọi sự thay đổi của GDP danh nghĩa phải thể hiện ở sự thay đổi mức
giá. Vì vậy lý thuyết số lượng cho rằng giá cả tỷ lệ thuận với mức cung ứng tiền tệ.
Thuyết số lượng tiền tệ nói rằng NHNN, cơ quan kiểm soát mức cung tiền sẽ
trực tiếp kiểm soát tỷ lệ lạm phát. Nếu NHNN giữ cho mức cung tiền ổn định, thì mức
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 14 Toán Tài Chính
50
giá cũng ổn định. Còn nếu NHNN tăng mức cung tiền lên một cách nhanh chóng thì
mức giá cũng tăng lên một cách tương ứng.
1.1.3.2. Lạm phát do cầu kéo
Loại lạm phát này xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không đổi hoặc
tổng cung tăng chậm hơn tổng cầu.
Có nhiều nguyên nhân làm tăng tổng cầu như:
- Thứ nhất là do tăng chi tiêu của các hộ gia đình hoặc tăng đầu tư của các doanh
nghiệp. Khi đó sẽ có một lượng tiền lớn được tung ra để mua hàng hóa và dịch vụ, từ
đó gây ra sự thừa tiền trong lưu thông dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá.
- Thứ hai là do tăng cán cân thương mại khiến cho nước ngoài tăng mua hàng
hóa trong nước, còn người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.
- Thứ ba là do chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế: nếu chính phủ tăng chi
tiêu cho hàng hoá và dịch vụ thì lượng tiền đó sẽ được đưa trực tiếp vào nền kinh tế
làm gia tăng tổng cầu. Còn nếu Chính phủ giảm thuế hoặc tăng chi tiêu chuyển nhượng
sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của hộ gia đình, chính là tăng
cầu. Hiện nay đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát

cao.
- Và nguyên nhân cuối cùng: do việc kiểm soát lượng cung tiền của NHTW còn
hạn chế: NHTW không kiểm soát được lượng cung tiền hợp lý, cung tiền tăng làm tăng
lãi suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân từ đó làm tăng tổng cầu.
1.1.3.3. Lạm phát do chi phí đẩy
Là lạm phát xảy ra khi 1 số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền
kinh tế ngay cả trong thời kỳ tài nguyên không được sử dụng hết.
Nếu nhìn trong đồ thị AD-AS, một cú sốc sẽ làm đường AS dịch chuyển lên
trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế
đều biến động theo chiều hướng bất lợi: Y giảm, thất nghiệp và lạm phát đều tăng.
Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lam phát kèm
suy thoái. Trong trường hợp này, yêu cầu khôi phục lại trạng thái toàn dụng được đặt
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 15 Toán Tài Chính
50
ra. Thông thường chính phủ sẽ thực hiện chính sách gia tăng chi tiêu, giảm thuế hoặc
tăng cung tiền để tăng tổng cầu.
Có 3 loại chi phí có thể gây ra lạm phát là:
• Tiền lương: khi công đoàn thành công trong viêc đẩy tiền lương tăng cao, các
doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy
đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính
phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách nới lỏng tiền tệ.
• Thuế gián thu: việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất
cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu đóng một
vai trò quan trọng vì chúng tác động trực tiếp tới giá cá hàng hóa. Nếu so sánh
với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao chúng ta có thể
nhận định rắng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn thu từ thuế thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác
động mạnh hơn tới lạm phát.

• Giá nguyên liệu nhập khẩu: đối với các quốc gia có nền kinh tế nhập khẩu,
nhiều loại nguyên liệu cấu thành thiết yếu mà nền công nghiệp trong nước chưa
sản xuất được thì sự thay đổi giá cả của chúng sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến
tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế
giới hay đồng nội tệ giảm mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản
xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác
động tổng hợp làm cho lạm phát gia tăng với tốc độ cao (lạm phát cao) và rất cao (siêu
lạm phát).
1.1.3.4. Một số nguyên nhân khác
 Lạm phát do kỳ vọng
Kỳ vọng về lạm phát là những dự đoán của người dân về mức giá chung trong
tương lai. Kỳ vọng về mức giá trong tương lai của công chúng có tác động giống như
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 16 Toán Tài Chính
50
một cú sốc đối với nền kinh tế. Kỳ vọng mức giá trong tương lai là cơ sở để ra quyết
định trong hiện tại. Nếu công chúng dự kiến lạm phát cao thì những nhà sản xuất muốn
tăng mức giá hàng hóa của họ, người công nhân sẽ đấu tranh đòi tăng tiền lương danh
nghĩa, người cho vay sẽ yêu cầu một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn và mọi người sẽ
đến ngân hàng rút tiền nhiều hơn. Và kết quả là lạm phát thực tế ở mức cao hơn.
Những phân tích vừa rồi sẽ đảo chiều trong trường hợp mọi người kỳ vọng một mức
lạm phát thấp trong tương lai.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc nhằm giải thích sự dốc lên trong ngắn hạn của
đường tổng cung mang những hàm ý về sự phụ thuộc của cung về hàng hóa và dịch vụ
vào nhận thức, tiền lương, giá cả và tất cả đều được ấn định dựa trên mức giá dự kiến.
Có thể biểu diễn tổng cung bằng công thức toán học:
Y = Y* + α(P – P
e

) (1.8)
Trong đó:
Y: là mức sản lượng cung ứng trong ngắn hạn
Y*: là mức sản lượng tiềm năng
P: là mức giá thực tế
P
e
: là mức giá kỳ vọng
α: là hệ số biểu diễn độ dốc của đường tổng cung (0<α<1).
Mức giá kỳ vọng càng lệch so với mức giá thực tế sẽ làm tổng cung càng lệch
so với sản lượng tiềm năng. Theo phương trình này, một mức giá kỳ vọng cao giống
như một cú sốc cung bất lợi sẽ làm giảm sản lượng và tăng lạm phát.
 Lạm phát do cầu thay đổi
Giả sử lượng cầu về một hàng hóa giảm đi, trong khi lượng cầu về một hàng hóa
khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất
cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm) thì hàng hóa mà lượng cầu
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 17 Toán Tài Chính
50
giảm sẽ vẫn không giảm giá, trong khi đó hàng hóa có lượng cầu tăng thì lại tăng giá.
Kết quả là mức giá chung tăng lên, từ đó sẽ dẫn tới lạm phát.
 Lạm phát do xuất, nhập khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm,
từ đó khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát sẽ nảy sinh do tổng cung và tổng
cầu bị mất cân bằng.
Ngược lại, khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước
cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
 Lạm phát do lãi suất

Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo làm tăng chi phí cơ hội
của việc giữ tiền, những người giữ càng nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng
trong các cuộc siêu lạm phát khi tiền mất giá nhanh chóng, tăng mức độ tiền gửi vào
ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có
thể dự trữ. Từ đó gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục
đẩy giá lên cao.
 Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Ngân sách sẽ thâm hụt khi các chính phủ in thêm tiền để trang trải cho chi tiêu,
dẫn tới lượng tiền danh nghĩa tăng lên và là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Một khi
giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới tiếp tục nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng
tiền mới và lạm phát sẽ tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra
trong thời kỳ siêu lạm phát.
Tuy nhiên chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay tiền của nhân dân
thông qua trái phiếu: lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ
lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi)
sẽ lớn đến mức phải in thêm tiền để trang trải. Khi đó thì khả năng có lạm phát là điều
chắc chắn.
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 18 Toán Tài Chính
50
Ngoài các nguyên nhân kể ở trên có thể kể đến các nguyên nhân liên quan đến
chính sách của Nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, các
chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do yếu tố nước ngoài,…
1.1.4. Giới thiệu một số thước đo lạm phát
Các nhà kinh tế sử dụng các chỉ số đo lường mức giá bình quân (mức giá chung)
để phản ánh xu hướng biến động của các loại giá khác nhau. Không tồn tại một phép
đo chính xác hay duy nhất về mức giá chung, vì giá trị của các chỉ số phụ thuộc vào tỷ
trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa/dịch vụ trong rổ hàng hóa và dịch vụ, cũng
như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Một vài chỉ số phổ

biến để đo lường lạm phát là:
1.1.4.1. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator):
Chỉ số này dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội GDP. Nó là tỷ lệ
giữa tổng giá trị GDP theo giá hiện hành (GDP danh nghĩa) với tổng giá trị GDP của
năm gốc (GDP thực tế), từ đó xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay gọi
là GDP thực.

GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 19 Toán Tài Chính
50
1.1.4.2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI):
Là thước đo mức giá chung của một giỏ hàng hoá và dịch vụ điển hình mà
người tiêu dùng mua. Giỏ hàng hoá được ấn định đối với một năm cơ sở. Chỉ số CPI là
một chỉ số Laspeyres.
Cách tính chỉ số CPI không phải là cộng các loại giá cả lại và chia cho tổng khối
lượng hàng hóa mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó trong nền
kinh tế thể hiện bằng tỷ trọng của nó (quyền số trong rổ hàng hóa tính CPI). Chỉ số giá
CPI thường được xem là phương pháp đo lường chi phí sinh hoạt liên quan tới giỏ
hàng hóa và dịch vụ điển hình được mua bởi người tiêu dùng. Việt Nam cũng như đa
số các nước trên thế giới trong những năm qua đã sử dụng chỉ số giá tiêu dùng CPI để
tính tỷ lệ lạm phát của quốc gia mình.
Chi tiết về chỉ số CPI cũng như thực tế về CPI tại Việt Nam những năm vừa qua
sẽ được trình bày trong những phần tiếp theo.
1.1.4.3. Một số chỉ số đo lạm phát khác:
Ngoài hai chỉ số chủ yếu trên người ta còn sử dụng một số các chỉ số khác để đo
lường lạm phát như:
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 20 Toán Tài Chính

50
- Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một
cá nhân so với thu nhập. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để
phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu
vực.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI): là chỉ số đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận
được (không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu). PPI là chỉ số được
xây dựng để tính mức giá chung trong lần bán đầu tiên. Chỉ số này rất có ích lợi vì nó
được tính chi tiết sát với những thay đổi thực tế.
- Chỉ số giá bán buôn (WPI-Whosesale Price Index): đo sự thay đổi trong giá
cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa
chọn. Chỉ số này có nhiều điểm giống với PPI.
- Chỉ số giá bán lẻ (RPI - Retail Price Index): là chỉ số phản ánh tình hình biến
động giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo thời gian (tháng, quý, năm hay
chu kì nhiều năm) và không gian (thị trường thế giới, thị trường toàn quốc, thị trường
theo khu vực, tỉnh, thành phố). Chỉ số này được tính theo phương pháp bình quân gia
quyền số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và giá bán lẻ hàng ở hai thời điểm
khác nhau.
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI): trong "Báo cáo chính sách
tiền tệ cho Quốc hội" tháng 2/2000, Federal Open Market Committee (FOMC) thông
báo rằng tổ chức này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang
"chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.2. Giới thiệu chỉ số giá tiêu dùng CPI
1.2.1. Định nghĩa về CPI
CPI là tên viết tắt tiếng Anh của Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index).
Rất nhiều các quốc gia trên thế giới còn dùng CPI như đại diện cho thông số về lạm
phát, mặc dù không phải bao giờ chỉ số này cũng đúng, hoặc chỉ phản ánh tương đối về
lạm phát.
CPI là thước đo mức giá chung của một giỏ hàng hóa và dịch vụ điển hình mà
người tiêu dùng mua (tính theo % để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng

tiêu dùng theo thời gian). Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này dựa vào một số
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 21 Toán Tài Chính
50
hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng, VD như: gạo, thịt, cá, hàng may mặc,
xăng dầu, vật liệu xây dựng, điện, nước, ). Giỏ hàng hoá được ấn định đối với một
năm cơ sở và có thể thay đổi cho phù hợp với tình hình.
Chỉ số CPI là một chỉ số Laspeyres, được tính bởi công thức:

CPI là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá. Sự thay đổi
của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số
giảm phát GDP hay Chỉ số điều chỉnh GDP đã được đề cập ở phần trên).
1.2.2 Cách tính CPI tại Việt Nam:
Việc tính toán CPI ở Việt nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. Các bước
tính chỉ số CPI được thực hiện như sau:
Bước 1: Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, TCTK sẽ xác định lượng
hàng hoá và dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
Bước 2: Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá
điển hình tại từng thời điểm.
Bước 3: Tính chi phí để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với
giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại với nhau
Bước 4: Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng
bằng công thức sau:
CPI
t
= 100 x (Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t)/(Chi phí để mua giỏ hàng
hoá kỳ cơ sở).
Quyền số để tính CPI được Tổng cục thống kê tính toán dựa trên kết quả của
các cuộc điều tra mức sống dân cư và điều tra kinh tế hộ gia đình Việt Nam. Tính tới

GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 22 Toán Tài Chính
50
tháng 10/2009 , Việt Nam đã có 5 lần bổ sung và sửa đổi quyền số của các mặt hàng
trong rổ hàng hóa tính CPI. Như vậy, tổng số mặt hàng mới sẽ là 564 mặt hàng thay vì
494 mặt hàng như năm 2006.
Bảng 1.1: Quyền số tính CPI của Việt Nam thời kỳ 2006 - 2014
Mã số Các nhóm hàng hóa và dịch vụ
Quyền số thời kỳ
2006-2009(%)
Quyền số thời kỳ
2010-2014(%)
C Tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng
100
100
1 I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
42.85
39.93
11 1. Lương thực
-
8.18
12 2. Thực phẩm
-
24.35
13 3. Ăn uống ngoài gia đình
-
7.4
2 II. Đồ uống và thuốc lá
4.56

4.03
3 III. May mặc, mũ nón, giày dép
7.21
7.28
4
IV. Nhà ở, điện, nước, chất đốt
và vật liệu xây dựng

10.01
9.99
5 V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
8.62
8.65
6 VI. Thuốc và dịch vụ y tế
5.42
5.61
7 VII. Giao thông
9.04
8.87
8 VIII. Bưu chính viễn thông 2.73
9 IX. Giáo dục
5.41
5.72
10 X. Văn hoá, giải trí và du lịch
3.59
3.83
11 XI. Hàng hoá và dịch vụ khác
3.31
3.34


Tổng số mặt hằng trong rổ hàng
hóa 496 573
(Nguồn: tổng cục thống kê)
1.2.3 Đánh giá chỉ số CPI
Một ưu điểm quan trọng của CPI là chỉ số này không cộng các giá cả lại và chia
cho tổng khối lượng hàng hóa mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của
nó trong nền kinh tế thể hiện bằng tỷ trọng của nó. Chính vì điều này mà CPI thường
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 23 Toán Tài Chính
50
được xem như là phương pháp đo lường chi phí sinh hoạt liên quan tới giỏ hàng hóa và
dịch vụ cụ thể được mua bởi người tiêu dùng. Việt Nam cũng như nhiều nước khác
trên thế giới trong những năm qua đã sử dụng CPI để tính tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên CPI cũng có những nhược điểm riêng:
- Chỉ số CPI không đo lường lạm phát một cách chính xác do tác động của độ
lệch cơ cấu và độ lệch thay thế. Theo thời gian, giỏ hàng hóa của người tiêu dùng phải
được thay đổi do sự xuất hiện của hàng hóa tiêu dùng mới. Khi giỏ hàng hóa tính CPI
chậm thay đổi thì chỉ số này sẽ không bao gồm những hàng hóa tiêu dùng mới phát
sinh nhưng được đa số người tiêu dùng sử dụng, dẫn đến độ lệch thay thế.
- Bên cạnh đó nếu giá cả của nhóm hàng hóa có quyền số lớn tăng mạnh dẫn
đến biến động mạnh trong CPI thì CPI sẽ đưa ra thông tin sai về biến động tỷ lệ lạm
phát. Độ lệch cơ cấu được thể hiện là CPI không phản ánh sự điều chỉnh cơ cấu hàng
hóa tiêu dùng cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho
những hàng hóa khác nhau theo thời gian.
Để khắc phục những nhược điểm trên thì ở Việt Nam, giỏ hàng hóa tính chỉ số
CPI được Tổng cục thống kê điều chỉnh theo chu kỳ 5 năm. Đối với một nền kinh tế
nhỏ và mở cửa như Việt Nam hiện nay, sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tính theo CPI
sẽ rất nhạy cảm trước những biến động trong cung cấp nông sản hay sự lên xuống của
giá dầu thế giới,… Chính vì thế tỷ lệ lạm phát tính theo CPI có thể sẽ rất cao trong khi

hầu hết giá cả của các nhóm hàng phi lương thực và nhiên liệu chỉ thể hiện một mức
tăng vừa phải.
- Còn nếu so sánh với một chỉ số tình lạm phát phổ biến khác là D
GDP
thì CPI
cũng có những nhược điểm: trong khi chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh giá của mọi
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước thì CPI chỉ phản ánh mức giá của mọi
hàng hoá và dịch vụ được người tiêu dùng mua. Sự khác biệt này đôi khi rất quan
trọng, ví dụ khi giá dầu tăng lên thì chỉ số giá tiêu dùng tăng nhiều hơn mức gia tăng
của chỉ số điều chỉnh GDP.
- Một sự khác biệt thứ hai giữa chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số CPI liên quan
đến việc gán quyền số cho các loại giá cả khác nhau. Giỏ hàng hoá khi tính CPI là cố
định (tại Việt Nam được thay đổi theo chu kỳ 5 năm), trong khi đó nhóm hàng hoá và
dịch vụ dùng để tính chỉ số điều chỉnh GDP tự động thay đổi theo thời gian. Sự khác
biệt này không quan trọng lắm nếu mọi giá cả đều thay đổi theo cùng tỷ lệ, song nếu
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 24 Toán Tài Chính
50
chúng thay đổi với những tốc độ khác nhau thì cách gán quyền số rất quan trọng khi
tính tỷ lệ lạm phát, từ đó dẫn đến những sai lệch khi tính toán lạm phát từ 2 chỉ số này.
Tóm lại, dù vẫn có nhược điểm song trong các thước đo lạm phát thì CPI vẫn là
chỉ số quan trọng nhất và được quan tâm chú ý nhất. Nó cũng là chỉ số đo lường sự
thay đổi trong chi phí sinh hoạt được biết đến nhiều nhất. CPI được sử dụng để điều
chỉnh tiền lương, phúc lợi xã hội, lương hưu, thuế và các chỉ số kinh tế khác nữa. Nó
cũng cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin về những biến động có thể xảy ra trên
thị trường tài chính - nơi mà cổ phiếu có mối quan hệ cả trực tiếp và gián tiếp đối với
CPI. Nắm chắc chỉ số giá cả trong tay, các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đầu
tư phù hợp và bảo vệ mình bằng cách mua các công cụ đầu tư.
1.2.4 Thực tiễn về chỉ số CPI tại Việt Nam

Kinh tế Việt Nam từ những năm 1980 đến nay đã trải qua sự biến đổi sâu sắc: từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, từ tăng trưởng thấp những năm 80 sang tăng trưởng cao những năm 90, từ
khủng hoảng sang ổn định và phát triển.
Ngay sau khi đổi mới nền kinh tế, nước ta đã phải đương đầu với tình trạng suy
thoái và siêu lạm phát. Trong giai đoạn 1986-1988, mặc dù Chính phủ rất cố gắng đưa
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tuy nhiên kết quả rất hạn chế: tỷ lệ lạm phát
vẫn rât cao trong khi suy thoái kinh tế có xu hướng kéo dài. Phải đến năm 1989, với
việc áp dụng những công cụ chính sách vĩ mô cơ bản của kinh tế thị trường như: chính
sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá hối đoái, lãi suất thì thị lạm phát mới dần được kiểm soát.
Từ giai đoạn này nền kinh tế bắt đầu ổn định và phát triển, thể hiện sự hiệu quả của
công cụ chính sách vĩ mô. Diễn biến lạm phát trong thời kì đất nước đổi mới (từ 1986
tới nay) được mô tả ở bảng sau:
Bảng 1.2: tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam thời kỳ 1986-2011
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Lạm 774.7 223.1 393.8 34.7 67.1 67.5 17.5 5.2 11.4 12.7 4.5 3.6 9.2
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy
Chuyên đề thực tập 25 Toán Tài Chính
50
phát
Tăng
trưởng 2.84 3.63 6.01 4.68 5.1 5.8 8.6 8.1 8.8 9.6 9.3 8.8 6.1
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Lạm
phát 0.1 -0.6 0.8 4 3 9.5 8.4 6.6 12.63 19.89 6.88 11.75 18.6
Tăng
trưởng 7.8 8.4 8.2 8.47 6.23 7.8 8.4 8.2 8.47 6.23 5.32 6.78 5.89
(Nguồn: TCTK)
Hình 1.1: Tỉ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2011

(Nguồn: TCTK)
Dựa vào xu hướng biến động của tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng được thể
hiện trên Hình 1.2, chuyên đề sẽ phân thành 4 giai đoạn lạm phát như sau:
- Giai đoạn 1986-1991: giai đoạn lạm phát cao
GVHD: Th.S Trần Chung Thủy
SV: Chu Quang Huy

×