Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
MỤC LỤC
CHƯƠNG III.................................................................................................51
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CHÍNH.....................51
TỚI LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO....................................................................51
3.1 Mô hình hồi quy...................................................................................52
3.2 Mô hình ARIMA ................................................................................59
Trong phần này chúng ta sẽ dùng một phương pháp thông dụng dùng
trong dự báo chuỗi thời gian: Mô hình ARIMA. Mô hình này nhằm
phân tích thống kê các giá trị quan sát cuả một chuỗi nhằm dự báo giá
trị của chuỗi này trong tương lai.............................................................59
CHƯƠNG IV.................................................................................................64
KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ.............................................................64
4.1 Kết luận chung.....................................................................................64
4.2 Kiến nghị .............................................................................................64
TỔNG KẾT....................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................69
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
DANH MỤC BẢNG SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
CHƯƠNG III.................................................................................................51
CHƯƠNG III.................................................................................................51
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CHÍNH.....................51
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CHÍNH.....................51
TỚI LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO....................................................................51
TỚI LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO....................................................................51
3.1 Mô hình hồi quy...................................................................................52
3.1 Mô hình hồi quy...................................................................................52
3.2 Mô hình ARIMA ................................................................................59
3.2 Mô hình ARIMA ................................................................................59
Trong phần này chúng ta sẽ dùng một phương pháp thông dụng dùng
trong dự báo chuỗi thời gian: Mô hình ARIMA. Mô hình này nhằm
phân tích thống kê các giá trị quan sát cuả một chuỗi nhằm dự báo giá
trị của chuỗi này trong tương lai.............................................................59
Trong phần này chúng ta sẽ dùng một phương pháp thông dụng dùng
trong dự báo chuỗi thời gian: Mô hình ARIMA. Mô hình này nhằm
phân tích thống kê các giá trị quan sát cuả một chuỗi nhằm dự báo giá
trị của chuỗi này trong tương lai.............................................................59
CHƯƠNG IV.................................................................................................64
CHƯƠNG IV.................................................................................................64
KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ.............................................................64
KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ.............................................................64
4.1 Kết luận chung.....................................................................................64
4.1 Kết luận chung.....................................................................................64
4.2 Kiến nghị .............................................................................................64
4.2 Kiến nghị .............................................................................................64
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
TỔNG KẾT....................................................................................................67
TỔNG KẾT....................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................69
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 07/11/2006 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng là VN chính thức
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh
dấu bước chuyển mình mới của nền kinh tế VN với nhiều cơ hội và thách
thức mới. Một trong những thay đổi quan trọng mà VN cần phải thực hiện để
theo kịp đà tiến của các nước trong khu vực là phải mở rộng thị trường cho
các đối tác thương mại và cho phép tư nhân tham gia vào mọi hoạt động kinh
tế, nhanh chóng mở cửa thị trường nội địa cho các nhà đầu tư quốc tế trong
các lĩnh vực dịch vụ và chế tạo, đồng thời bãi bỏ hàng rào thuế quan đánh trên
các mặt hàng nhập khẩu. Tiến trình mở rộng kinh tế nhanh hơn và nhiều hơn
đã gây nguy hại cho các nhà sản xuất trong nước cũng như sách lược phát
triển kinh tế-xã hội của chính phủ. Để hội phập kinh tế thế giới VN đã phải
thay đổi rất nhiều: điều chỉnh và ban hành thêm những điều luật mới, thay đổi
chính sách tiền lương, điều chỉnh lại giá cả... Sự thay đổi kinh tế quá nhanh
cùng với những biến động của thị trường thế giới đã đưa đến tình trạng bong
bóng đầu tư, giá cả hàng hoá tăng nhanh, lạm phát...trong khi đó thì năng lực
quản lý cũng như các công cụ điều tiết nền kinh tế của chính phủ còn chưa
theo kịp và chưa thực sự phát huy hiệu quả, dẫn đến hậu quả là lạm phát ngày
càng cao, gây khó khăn cho đời sống của nhiều tầng lớp dân cư đặc biệt là
người nghèo. Lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vì nó làm giảm
năng suất lao động, lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh
qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu
tư và sự phân bổ của các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm
mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài
sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích luỹ vốn. Trong
thời kỳ có lạm phát, hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
4
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
đi, dẫn đến các nhà đầu tư có thể mắc sai lầm trong việc đưa ra quyết định
đầu tư của mình, hiệu quả kinh tế giảm, chi phí sản xuất tăng cao,... nhiều
doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất, giá cả hàng hoá tăng sẽ gây nhiều khó
khăn cho đời sống dân cư khi mà tiền lương và lãi suất không kịp thích ứng.
Tuy nhiên, trước những khó khăn và thách thức mới buộc Viêt Nam phải tự
mình nỗ lực vươn lên, chính phủ không ngừng tìm kiếm và cải thiện các công
cụ, chính sách điều tiết để khắc phục và giải quyết hậu quả, các doanh nghiệp
phải tự đổi mới sản xuất để cải thiện lợi nhuận...Thách thức cũng là cơ hội để
cho VN phát triển, hội nhập thế giới.
Mục đích nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng vấn đề lạm phát, đặc biệt là trong quá
trình hội nhập của nước ta hiện nay, qua thời gian ngắn thực tập tại Viện khoa
học tài chính, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sử dụng mô hình Kinh tế
lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo
lạm phát ở VN” nhằm đi sâu và tìm hiểu rõ hơn về vấn đề lạm phát, từ đó vận
dụng vào thực tế, đưa ra những dự báo và giải pháp về vấn đề này.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, em đã sử dụng phương pháp
phân tích kinh tế, phân tích thống kê và mô hình kinh tế lượng. Phần mềm
được sử dụng trong phân tích là Eviews. Thay vì nghiên cứu trực tiếp em đã
sử dụng phương pháp nghiên cứu gián tiếp, thông qua CPI để đánh giá ảnh
hưởng của một số nhân tố chính tới lạm phát.
Giới hạn nghiên cứu
Do lạm phát là một đề tài nghiên cứu mang tầm vĩ mô, do trình độ và
thời gian có hạn nên trong đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình, em
chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu và phân tích các tác động của các nhân tố
cơ bản tới lạm phát, đưa ra một số kết luận, dự báo, mạnh dạn đề ra một số
các giải pháp khắc phục.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì kết cấu luận văn tốt nghiệp của em
được chia làm bốn phần:
Chương I: Tổng quan về lạm phát
Chương II: Thực trạng lạm phát ở VN
Chương III: Phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và
dự báo lạm phát.
Chương IV: Kết luận và các kiến nghị
Trong quá trình hoàn thiện đề tài này em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các anh chị ở Phòng dự án-Bộ tài chính, chú Bùi Ngọc Tuyến-Viện khoa
học tài chính, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của cô Nguyễn Thị
Minh. Em xin chân trọng cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu trên đã giúp em
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Đây là một đề tài cấp thiết, lĩnh vực nghiên cứu ở phạm vi vĩ mô, với
nhiều lý thuyết và cách thức phân tích. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do vốn
kiến thức và trình độ còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh
khỏi những thiếu sót, em mong nhận được những sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
6
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Các quan điểm của các nhà kinh tế học về lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá
chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ
khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền
tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì ta
hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển và cận đại thì lạm phát
dưới chủ nghĩa tư bản là sự tràn ngập trên các kênh lưu thông một khối lượng
dấu hiệu giá trị (tiền giấy) quá thừa dẫn đến làm mất giá từng phần dấu hiệu
giá trị so với mệnh giá danh nghĩa của nó. Khi đó các nhà kinh tế cho rằng
khối lượng tiền bơm ra lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết hay sức
hấp thụ của thị trường hàng hóa; Biểu hiện của hiện tượng này là tiền giấy
mất giá so với hàng, với vàng, với ngoại tệ. Người dân không muốn giữ tiền
và không muốn đem tiền đến gửi tại các ngân hàng mà chuyển vào đầu tư trực
tiếp hoặc ồ ạt rút tiền về để mua sắm bất động sản, tích trữ vàng. Kết quả là
hệ thống ngân hàng thì thiếu tiền mặt nghiêm trọng, nạn khất nợ trở thành phổ
biến trong khi tiền ngoài lưu thông tràn ngập, các nhu cầu vay qua ngân hàng
bị từ chối vì không có nguồn để đáp ứng, người có hàng thì mặc sức tăng giá
với tốc độ lớn hơn tốc độ lạm phát, người có thu nhập bằng tiền thì bị tước
đoạt dần. Cũng theo các nhà kinh tế học cổ điển thì dường như nạn lạm phát
dưới chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn do ý chí chủ quan của giai cấp bóc lột
thông qua quyền thao túng hệ thống các ngân hàng (trước hết là ngân hàng
phát hành) gây ra.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là một
căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ. Nó không có bản
chất giai cấp mà chỉ có bản chất kinh tế. Nó có tính thường trực, nếu không
thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp chống lạm phát thường
trực, đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xẩy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng
hoá nào với bất kỳ chế độ xã hội nào.
Các nhà kinh tế này cho rằng biểu hiện của lạm phát là: khi mức chung
của giá cả hàng hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ biến
trong một khoảng thời gian đủ dài để nhận rõ xu hướng này. Do đó nếu giá cả
chỉ tăng ở một vài nhóm hàng mang tính đột biến hay tính thời vụ thì phải loại
bỏ các yếu tố đó theo cách tính chỉ số lạm phát cơ bản. Lạm phát phản ánh
thuần tuý quan hệ hàng-tiền trên một qui mô phổ biến và có một thời gian đủ
dài để khẳng định xu hướng của nó.
1.2 Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông
thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các
liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của
các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả
trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm.
Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với
mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc.
Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng
của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để
dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả
cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI): là sự tăng trên lý thuyết
giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với
nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI
dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có
thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt
trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao
động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
"người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia
công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này
là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường
được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong
muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng
của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả
sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng
của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và
cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI
là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được
bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh
toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này
cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày
mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ
số là khác nhau, một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các
dịch vụ.
Ở VN, lạm phát thường được hiểu là sự tăng lên trong chỉ số giá
tiêu dùng.
Tỷ lệ lạm phát: Là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế (giá cả
trung bình). Nó cho thấy mức độ lạm phát của nền kinh tế. Thông thường,
người ta tính tỷ lệ lạm phát dựa vào một chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng. Chỉ
số có thể được tính cho một tháng, một quý, nửa năm hay một năm.
Tỷ lệ lạm phát được xác định:
100
1
1
×
−
=
−
−
t
tt
t
CPI
CPICPI
π
Trong đó:
t
π
: tỷ lệ lạm phát thời điểm t (biểu thị bằng %)
t
CPI
: Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t
1−t
CPI
: Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t-1
Ý nghĩa
Tỷ lệ lạm phát là thước đo tỷ lệ giảm xuống sức mua của đồng tiền. Nó
là một biến số được sử dụng để tính toán lãi suất thực cũng như để điểu chỉnh
mức lương.
Có một số công thức khác nữa, ví dụ:
Tỷ lệ lạm phát = (log P
o
- log P
-1
) x 100%
Về phương pháp tính ra tỷ lệ lạm phát, hai phương pháp thường được
sử dụng là:
Căn cứ thời gian: đo sự thay đổi giá cả của giỏ hàng hóa theo thời gian
Căn cứ thời gian và cơ cấu giỏ hàng hóa. Phương pháp này ít phổ biến
hơn vì còn phải tính toán sự thay đổi cơ cấu, nội dung giỏ hàng hóa
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
10
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
1.3 Các nguyên nhân chính của lạm phát
Nguyên nhân của lạm phát bao gồm một tổ hợp rất nhiều nhân tố trong
đó có thể chia ra thành một số nhóm chủ yếu là: Lạm phát do cầu kéo; Lạm
phát do chi phí đẩy; Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế và Lạm phát do
tình trạng không ổn định về kinh tế- chính trị- xã hội tạo thành tâm lý đẩy giá
lên và đồng tiền bị mất uy tín trong nền kinh tế. Trong các nhân tố nói trên thì
ba nhóm nhân tố đầu tiên có tác động mang tính thường xuyên và cơ bản nhất
đến các cấp độ phát sinh của lạm phát.
1.3.1Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về cung-cầu hàng
hoá dịch vụ mà trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng
hoá hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng
của sản xuất, kết quả là trên thị trường, hàng hoá khan hiếm tương đối so với
tiền do đồng thời cả hai nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc
hậu, kém phát triển, năng suất lao động thấp, năng lực sản xuất đã hầu như
đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng tiền
vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van: Chi ngân sách quá lớn
so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu,
vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những
"hợp lực" kích cầu lên cao hơn so với cung...
1.3.2Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy là hiện tựơng mặt bằng giá cả thị trường bị đẩy
lên do chi phí sản xuất gia tăng quá mức trung bình mà nền kinh tế có thể chịu
đựng được: Tăng giá nguyên, nhiên vật liệu; Tốc độ tăng tiền lương lớn hơn
tốc độ tăng năng suất lao động quân bình; Chi phí khấu hao lớn trong khi thiết
bị lại lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên liệu và sức lao động nhưng năng suất
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
11
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
thấp; Chi phí gián tiếp chiếm tỷ trọng quá cao trong tổng chi phí cho phép
làm cho (C+V) chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng giá cả (C+V+M). Đặc điểm
của loại lạm phát chi phí đẩy là thường diễn ra trong điều kiện nền sản xuất
chưa đạt tới mức giá trị sản lượng tiềm năng so với năng lực hiện tại. Lạm
phát này xuất hiện thường đồng thời kéo tốc độ suy thoái kinh tế rất nhanh và
khó khắc phục hơn nhiều so với chống lạm phát cầu kéo...;
1.3.3Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế
Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không
bình thường trong các cân đối cơ bản của nền kinh tế như Công nghiệp -
Nông nghiệp, Công nghiệp nặng - Công nghiệp nhẹ; Sản xuất - dịch vụ; Xuất
- nhập khẩu và Tích luỹ - tiêu dùng...Các quan hệ nói trên không được đặt
trong một hoàn cảnh kinh tế cụ thể để có định hướng cân đối một cách hợp lý
sẽ lập tức gây ra hiện tượng đông cứng một bộ phận nguồn lực kinh tế, giữa
chúng không chuyển hoá được cho nhau tạo ra một trạng thái vừa thừa, vừa
thiếu các năng lực sản xuất một cách giả tạo. Vì vậy, còn có thể gọi nhóm
nguyên nhân gây ra loại lạm phát này là sự ách tắc các nguồn vốn. Các lợi thế
so sánh giữa các vùng trong nội bộ nền kinh tế và lợi thế so sánh giữa các
quốc gia không được khai thác làm cho sức phát triển bị "đóng băng" hoá.
1.3.4Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một
mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và
giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm),
thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng
có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là
lạm phát.
1.3.5Lạm phát do xuẩt khẩu
Xuẩt khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
12
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
phẩm được huy động cho xuẩt khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy
sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
1.3.6Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi
giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường
OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá
bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá
chung bị giá nhập khẩu đội lên.
1.3.7Lạm phát do tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do NHTW mua ngoại tệ vào để giữ cho
đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do NHTW
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu
thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.3.8Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới
đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu
trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
1.4 Các cấp độ của lạm phát
1.4.1Lạm phát ỳ
Là mức độ lạm phát thấp nhất từ 0% đến không quá vài %. Cấp độ lạm
phát này chủ yếu phản ánh tính khách quan tuyệt đối của hiện tượng lưu
thông hàng hoá- tiền tệ trong điều kiện chế độ tiền giấy. Lạm phát này có thể
lặp đi lặp lại trong một chuỗi thời gian dài và nếu chỉ có nó, người ta có thể
chủ động tính vào thành các chỉ tiêu cân bằng trung hoà của nền kinh tế.
Người ta chấp nhận và sẵn sàng chung sống hoà bình với loại lạm phát được
ví như căn bệnh kinh niên này của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ;
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
13
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
1.4.2Lạm phát vừa
Mức độ cao hơn từ trên vài % đến mức lớn hơn không nhiều so với tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được gọi là lạm phát vừa phải hay lạm phát
kiểm soát được. Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến thuật phát
triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các chính phủ có thể chủ động định hướng mức
khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số
mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu
và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định. Tuy nhiên chỉ có
thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều kiện nền kinh tế còn chưa đạt
tới giá trị sản lượng tiềm năng so với điều kiện hiện tại, khi mà nhiều nhân tố
của sản xuất vẫn còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa có phương án
khả thi để phát huy các tiềm năng đó.
1.4.3Lạm phát phi mã
Là cấp độ cao thứ 3 có tỷ lệ lạm phát bình quân /năm từ mức trung
bình của 2 con số đến đỉnh cao của 3 con số. Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra
ngoài khả năng kiểm soát của NHTW. Giải pháp để chống lại hiện tượng lạm
phát này đòi hỏi phải là sự tổng lực của toàn nền kinh tế quốc dân trong các nỗ
lực thắt chặt tiền tệ, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường đầu tư, thu hút mạnh các
nguồn vốn, kích thích đầu tư trong nước, cải cách lại cơ cấu kinh tế, nâng cao
trình độ công nghệ, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho lưu thông hàng hoá
và đẩy mạnh sản xuất hàng thay thế nhập khẩu để tăng cung cho nội bộ nền
kinh tế đang tràn ngập quá mức tổng phương tiện thanh toán.
1.4.4Cấp độ siêu lạm phát
Là hiện tượng khủng hoảng kinh tế đã đến mức rất nghiêm trọng. Tỷ lệ
lạm phát đã lên đến trên 3 con số, thậm chí người ta không thể đo lạm phát
bằng số % mà là bằng số lần tăng giá trong năm. Thế giới đã từng kinh hoàng
về nạn siêu lạm phát ở Đức trong các năm từ 1921 đến 1923 sau đại chiến thế
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
giới thứ nhất. Đây là mức siêu lạm phát lớn nhất trong lịch sử tiền tệ trên thế
giới tính cho đến nay: Chỉ số giá trong vòng 22 tháng từ 1/1921 đến 11/1923
tăng tới 10 triệu lần; Kho tiền của Đức trong 2 năm đó tăng 7 tỷ lần tổng giá
trị danh nghĩa. Tính tước đoạt của cuộc siêu lạm phát này được lượng hoá
bằng con số kinh khủng: Nếu ai đó có một tấm ngân phiếu 300 triệu DM thì
chỉ sau 2 năm nói trên, giá trị thực của tấm ngân phiếu này hầu như chỉ còn
lại là số 0; Cuộc siêu lạm phát lớn thứ 3 xẩy ra ở Mỹ thời kỳ nội chiến 1860:
Riêng trong năm 1860 giá cả hàng hoá tăng lên 20 lần = 2000%, người ta đã
miêu tả bằng hình ảnh về cuộc lạm phát này rằng tiền mang đi chợ phải đựng
bằng sọt, còn hàng hoá mua đựơc thì bỏ vào túi áo, mọi hàng hoá trên thị
trường trở nên cực kỳ khan hiếm trừ tiền. Cuộc siêu lạm phát gần đây và là
cuộc lạm phát lớn thứ 2 trong lịch sử kinh tế hàng hoá - tiền tệ thế giới (chỉ
sau cuộc siêu lạm phát ở Đức) xẩy ra ở Nam Tư bắt đầu từ 5/1992 đến hết
năm 1994: Chỉ tính riêng tỷ giá 6 tháng cuối năm 1993, giá cả hàng hoá tăng
hơn 25 lần: Tiền lương năm 1991 của công chức bình quân 5.300 Đina /tháng
tương đương với 400 USD thì năm 1993 tiền lương bình quân tăng lên 2 tỷ
Đina /tháng nhưng chỉ tương đương với 6 USD /tháng. Tuy nhiên, siêu lạm
phát là một hiện tượng kinh tế cực kỳ hiếm, nó thường xuất hiện gắn liền với
các cuộc chiến tranh thế giới hoặc nội chiến khốc liệt.
Vậy một điều cần rút ra là: Dù theo quan điểm nào chăng nữa thì nói
chung lạm phát vẫn là một hiện tượng kinh tế khách quan và là đối tượng cần
đặc biệt quan tâm của mọi chính phủ. Trong nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ nói
chung, nền kinh tế thị trường nói riêng, người ta không thể chối bỏ lạm phát
nhưng nếu có nhận thức đúng bản chất kinh tế của nó thì vẫn có thể chế ngự và
kiểm soát được lạm phát. Mặt khác nguyên nhân của lạm phát là không hoàn
toàn do chiếc máy bơm tiền của NHTW tạo ra mặc dù suy cho cùng thì bản chất
của lạm phát vẫn là hiện tượng kinh tế được nẩy sinh trong mối quan hệ không
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
tương thích một cách phổ biến giữa cung và cầu hàng hoá trong cơ chế thị
trường mà ở đây, "cung" là hàng và "cầu" là tiền. Cần phải bình tĩnh nhận định
và chủ động chế ngự các khả năng bùng nổ những nhân tố tiềm ẩn của lạm phát.
1.5 Tác động của lạm phát
1.5.1Lạm phát dự kiến
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn
gâyra những tổn thất cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ
tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên
lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ
cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã
dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất
tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với
không có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các
doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường
hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh
chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên, giá sẽ trở nên rẻ
tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ
nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu
quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái
với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng
của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
16
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp
thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập
thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
1.5.2Lạm phát không dự kiến
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại
của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín
dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự
kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm
phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu
thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát
nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác
động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do
lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm
phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã
hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc
đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách
chống lại loại lạm phát này.
1.6 Mối quan hệ của một số nhân tố cơ bản tới lạm phát
1.6.1Mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát
Hàm cầu tiền của Friedman
Năm 1956, Friedman đã giới thiệu lý luận của mình về cầu tiền, theo đó
lượng cầu về tiền của nền kinh tế phụ thuộc vào một vài biến số kinh tế lớn
như các thu nhập thường xuyên, lãi suất dự tính của trái phiếu, chứng khoán,
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
tỷ lệ lạm phát dự tính và lợi tức từ tiền. Friedman còn giả định rằng, người ta
sẽ chuyển tài sản của mình từ dạng tiền sang hàng hóa nếu phát hiện tỷ lệ lạm
phát dự tính tăng lên. Như vậy, chính là cung tiền tăng làm tăng tiêu dùng và
do đó làm tăng tổng cầu, gây ra biến động kinh tế.
Thuyết số lượng tiền tệ
Irving Fisher là người đã đưa ra thuyết số lượng tiền tệ vào năm 1911
với "đẳng thức trao đổi" theo đó lượng cung tiền nhân với tốc độ lưu thông sẽ
vừa đúng bằng sản lượng thực tế nhân với mức giá chung: MV = PY.
Nếu mức giá điều chỉnh để giữ cho sản lượng thực tế duy trì ở mức sản
lượng tiềm năng Y*, mức sản lượng này được giả định là không thay đổi thì
khi đó M và P sẽ phải vận động cùng nhau, nếu như tốc độ lưu thông V không
thay đổi. Mặt khác, M/P = Y/V, vế trái là cung tiền thực tế còn vế phải là cầu
tiền thực tế. Cầu tiền thực tế biến thiên cùng chiều với thu nhập thực tế và
ngược chiều với tốc độ lưu thông. Nhưng cầu tiền lại tỷ lệ thuận với thu nhập
thực tế và tỷ lệ nghịch với lãi suất danh nghĩa. Do vậy tốc độ lưu thông phản
ánh tốc độ của lãi suất tới cầu tiền, lãi suất danh nghĩa càng cao sẽ làm giảm
cầu tiền thực tế
Friedman đã diễn giải lại đẳng thức này ở dạng động học với những giả
thiết mới gồm: (1) sản lượng thực tế cố định vì ở mức toàn dụng nhân lực, (2)
tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi, (3) cung tiền là biến ngoại sinh vì
NHTW là cơ quan quyết định nó. Kết quả là tốc độ tăng cung tiền sẽ bằng tỷ
lệ lạm phát. Từ đó kết luận, chính là NHTW gây ra lạm phát khi tăng cung
tiền. Lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Quan hệ giữa lạm phát và mất giá tiền tệ
Hễ người ta dự tính lạm phát sẽ cao, thì lãi suất trên thị trường mở sẽ
được nâng lên khiến cho nội tệ mất giá so với các ngoại tệ ổn định.
Quan hệ giữa cung tiền và lạm phát
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Thu nhập quốc dân danh nghĩa bằng thu nhập quốc dân thực tế nhân
với chỉ số giảm phát GDP (tỷ lệ lạm phát).
Thu nhập quốc dân danh nghĩa cũng bằng tốc độ lưu thông tiền tệ nhân
với cung tiền.
Do đó, tỷ lệ lạm phát bằng tốc độ lưu thông tiền tệ nhân với cung tiền
rồi chia cho thu nhập quốc dân thực tế. Nếu hai yếu tố còn lại không đổi, tốc
độ thay đổi của tỷ lệ lạm phát bằng đúng tốc độ thay đổi của cung tiền
Tiền tệ và lạm phát
Có mối liên hệ giữa lượng tiền danh nghĩa và giá cả, và do vậy cũng có
mối liên hệ giữa tăng trưởng tiền tệ và lạm phát
Mọi người có nhu cầu đối với tiền vì có thể dùng nó để mua hàng hoá.
Họ có nhu cầu đối với lượng tiền thực tế. Khi thu nhập thực tế là Y và lãi suất
là r thì ký hiệu L(Y,r) sẽ phản ánh lượng cầu tiền thực tế. Nó tỷ lệ thuận với
thu nhập thực tế Y bởi vì lợi ích của việc giữ tiền tăng lên. Nó tỷ lệ nghịch
với lãi suất bởi vì chi phí của việc giữ tiền sẽ tăng lên. Cung tiền thực tế M/P
bằng cung tiền danh nghĩa M chia cho mức giá P:
M/P = L(Y,r)
Tại trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ, cung tiền thực tế và cầu
tiền thực tế bằng nhau, lãi suất thay đổi linh hoạt sẽ duy trì dự cân bằng liên
tục của thị trường tiền tệ.
Nếu tiền lương danh nghĩa và mức giá điều chỉnh chậm chạp trong
ngắn hạn, tăng cung tiền danh nghĩa M ban đầu sẽ làm tăng lượng tiền thực tế
M/P khi mức giá P chưa kịp điều chỉnh. Sự dư cung về tiền thực tế sẽ đẩy lãi
suất giảm xuống. Điều này làm tăng cầu hàng hoá, dần dần nó sẽ đẩy giá cả
hàng hoá tăng lên, trên thị trường lao động tiền lương danh nghĩa cũng bắt
đầu tăng. Sau khi tiền lương và giá cả điều chỉnh hoàn toàn, sự tăng cung tiền
danh nghĩa sẽ dẫn tới sự gia tăng tương ứng của tiền lương và giá cả. Sản
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
19
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
lượng, việc làm, lãi suất và lượng tiền thực tế sẽ quay trở lại giá trị ban đầu.
Sau quá trình điều chỉnh hoàn thành, cầu tiền thực tế sẽ không đổi theo đúng
tỷ lệ thay đổi ban đầu của cung tiền danh nghĩa.
Tăng trưởng cung tiền danh nghĩa cũng có liên hệ với lạm phát, tức
làtốc độ tăng giá (Theo lý thuyết về số lượng tiền tệ )
Tiền tệ, giá cả, mối quan hệ nhân quả
Giả sử rằng cầu tiền thực tế không đổi theo thời gian. Để cân bằng thị
trường tiền tệ, cung tiền thực tế M/P cũng phải không đổi. Nếu chính sách
tiền tệ cố định lượng tiền danh nghĩa thì cung tiền sẽ xác định mức giá P sao
cho M/P đúng bằng với cầu tiền. Ngược lại, chính sách tiền tệ có thể lựa chọn
một tiến trình mục tiêu đối với mức giá P (và do vậy sẽ là tiến trình của lạm
phát, nó sẽ chỉ phụ thuộc vào việc so sánh mức giá thời kỳ này với mức giá
thời kỳ trước). Những thay đổi của tiến trình này khi đó sẽ gây ra sự thay đổi
của cung tiền danh nghĩa để đạt được mức cung tiền danh nghĩa cần thiết.
Phương trình trên nói rằng giá cả và tiền tệ có mối quan hệ với nhau, nhưng
mối quan hệ nhân quả theo chiều nào thì không thể biết được, nó tuỳ thuộc
vào dạng thức của chính sách tiền tệ mà quốc gia đó theo đuổi. Khi mục tiêu
trung gian là lượng tiền danh nghĩa thì quan hệ nhân quả diễn ra theo chiều từ
tiền tệ tới giá cả. Khi mục tiêu là giá cả hay lạm phát thì quan hệ nhân quả
diễn ra theo chiều ngược lại
Dù quan hệ nhân quả theo chiều nào thì lạm phát cuối cùng vẫn là một
hiện tượng của tiền tệ. Lạm phát kéo dài chỉ khi NHTW liên tục in thêm tiền.
Nếu lượng tiền danh nghĩa được giữ cố định thì lạm phát diễn ra cuối cùng sẽ
làm suy giảm lượng tiền thực tế và khiến cho lãi suất cân bằng tăng lên rất
cao và điều này làm suy giảm mức lạm phát đi. Chấm dứt tăng trưởng lượng
tiền danh nghĩa sẽ làm tắt ngọn lửa lạm phát.
Lạm phát, tiền tệ và thâm hụt
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
20
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Lạm phát kéo dài phải đi kèm với tăng trưởng tiền tệ liên tục. Chính
phủ đôi khi phải in thêm tiền để tài trợ cho mức thâm hụt ngân sách lớn của
mình. Do vậy thâm hụt ngân sách có thể giải thích tại sao chính phủ phải in
tiền thường xuyên hơn. Nếu vậy chính sách tài khoá thắt chặt là một việc làm
cần thiết để ngăn chặn lạm phát và khiến mọi người tin tưởng vào chính sách
lạm phát thấp của chính phủ
Mức GDP cũng tác động tới số lượng thuế mà chính phủ thu được với
suất đã có. Nếu nợ chính phủ tương đối thấp so với GDP thì chính phủ có thể
tài trợ khoản thâm hụt bằng cách đi vay. chính phủ có đủ nguồn thu từ thuế để
trang trải cho các khoản nợ và tiền lãi. Đối với các chính phủ có nợ thấp,
người ta không tìm thấy mối liên hệ nào giữa lạm phát và lượng tiền mà chính
phủ đó in ra.
Tuy nhiên nhiều năm thâm hụt liên tiếp có thể khiến chính phủ rơi vào
tình trạng nợ nhiều so với GDP. Khi các tổ cức cho vay cảm thấy e sợ thì
chính phủ có thể không tài trợ khoản thâm hụt bằng cách đi vay được nữa. Nó
phải thắt chặt tài khoá để giảm bớt thâm hụt hoặc phải in tiền cho khoản thâm
hụt đang tiếp diễn.
Thâm hụt, tăng trưởng tiền tệ và nguồn thu thực tế
Thời kỳ síêu lạm phát là một thời kỳ mà chính phủ không thể kiểm soát
được chính sách tài khoá. Một chính phủ có mức thâm hụt cao kéo dài, khoản
thâm hụt được tài trợ bằng đi vay, sẽ đến lúc nợ quá nhiều và không ai dám
cho chính phủ đó vay nữa, khi đó chính phủ sẽ phải in tiền để tài trợ cho thâm
hụt. chính phủ có vai trò độc quyền đối với việc in tiền. Chi phí sản xuất bỏ ra
để in tiền nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị của số tiền in ra. chính phủ in tiền
mà không mất mát gì, sau đó chính phủ có thể sử dụng số tiền đó để trả lương
hoặc xây dựng các công trình công cộng.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
21
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Cầu tiền thực tế M/P tỷ lệ thuận với thu nhập thực tế. Tăng trưởng dài
hạn của thu nhập thực tế có thể làm cho chính phủ tăng một lượng M nhất
định mà không phải tăng P. Đây được gọi là thuế đúc tiền. Một nguồn thu
thực tế tiềm năng khác là thuế lạm phát.
Giả sử rằng thu nhập thực tế và sản lượng được giữ nguyên, một chính
phủ yếu kém không thể giảm khoản thâm hụt ngân sách và có tiền để trang
trải cho khoản thâm hụt ngân sách này. Nếu
M∆
là lượng tiền mặt mới in
thêm thì chính phủ sẽ tài trợ cho một khoản chi thực tế bằng
( )
PM /∆
, nó đúng
bằng (
M∆
/M )*(M/P), tốc độ tăng trưởng tiền mặt nhân với cầu tiền mặt thực
tế. Tăng lượng tiền danh nghĩa sớm muộn sẽ làm thay đổi mức giá. Giả sử
rằng tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ danh nghĩa (
M∆
/M ) bằng với tỷ lệ lạm phát
π
.
Do đó : Nguồn thu thực tế từ lạm phát =
π
*(M/P)
Lạm phát giúp chính phủ giảm giá trị của các khoản nợ không sinh lãi
của chính phủ, tức là tiền mặt.
1.6.2Lạm phát, thất nghiệp và sản lượng
Đường Phillips
Đường Philips chỉ ra rằng tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đi kèm với tỷ lệ
thất nghiệp thấp hơn. Nó hàm ý rằng chúng ta có thể đánh đổi nhiều lạm phát
hơn để có thất nghiệp thấp hơn hoặc ngược lại.
Năm 1958, Giáo sư Phillips của trường kinh tế Luân Đôn đã phát hiện
ra mối quan hệ thống kê giữa tỷ lệ lạm phát hàng năm và tỷ lệ thất nghiệp
hàng năm ở nước Anh. Những mối quan hệ tương tự cũng được phát hiện ở
các quốc gia khác. Đường Phillips dường như là một chiếc la bàn hữu ích để
đưa ra lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô. Bằng cách lựa chọn các chính sách
tài khoá và tiền tệ, chính phủ có thể xác lập mức tổng cầu và do vậy là mức
thất nghiệp trong nền kinh tế. Đường Phillips cho biết điều gì sẽ xảy ra với
lạm phát sau đó. Tổng cầu cao hơn sẽ đẩy mức lương và mức giá lên cao, và
nó làm tăng lạm phát, tuy nhiên mức thất nghiệp sẽ giảm xuống.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
Hình 1.1: Đường Phillips
Đường Phillips trong Hình 1.1 thể hiện mối quan hệ đánh đổi mà công
chúng tin rằng họ đã phải đối mặt trong những năm 1960. Vào thời ký đó, tỷ
lệ thất nghiệp ở Anh hiếm khi vượt quá mức 2%. Mọi người đã tin rằng nếu
như giảm tổng cầu cho tới khi thất nghiệp tăng lên 2,5% thì lạm phát sẽ giảm
xuống con số không.
Kể từ đó đã có nhiều năm mà nền kinh tế phải trải qua đồng thời cả
mức lạm phát và mức thất nghiệp trên 10%.
Đường Phillips dài hạn thẳng đứng
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức sản lượng tự nhiên là các giá trị trạng
thái cân bằng dài hạn.
Tại trạng thái cân bằng dài hạn, nền kinh tế vừa đạt mức sản lượng tiềm
năng vừa có mức thất nghiệp cân bằng. Đôi khi, người ta gọi đây là mức sản
lượng tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Cả hai đều được quyết định bởi
các yếu tố thực chứ không phải là các yếu tố danh nghĩa. Chúng phụ thuộc
vào lượng cung đầu vào, trình độ công nghệ, mức thuế suất,… Chúng không
phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát nếu tất cả các mức giá P và mức lương danh
nghĩa W đều tăng cùng nhau. Mức thất nghiệp tự nhiên phụ thuộc vào tiền
lương thực tế W/P.
Do đường tổng cung dài hạn là đường thẳng đứng tại mức sản lương
tiềm năng, sản lượng không chịu tác động của lạm phát, nên đường Phillips
dài hạn sẽ thẳng đứng tại mức thất nghiệp cân bằng. Mức thất nghiệp cân
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
bằng không phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, lạm
phát không thay đổi. Mọi người sẽ dự kiến chính xác mức lạm phát và điều
chỉnh tốc độ tăng lương danh nghĩa để giữ cho mức lương thực tế không đổi,
mức lương thực tế sẽ duy trì ở mức lương cân bằng dài hạn. Tương tự, lãi suất
danh nghĩa cũng đủ lớn để bù đắp mức lạm phát và duy trì mức lãi suất thực
tế tại trạng thái cân bằng của nó. Mọi người sẽ thích nghi với lạm phát vì
người ta đã dự kiến đầy đủ về nó.
Hình 1.2: Đường Phillips dài hạn
Giả sử rằng tỷ lệ lạm phát bằng 10% một năm. Đây là mức lạm phát phù
hợp với các dạng chính sách tiền tệ. Chúng ta có thể xem chính sách tiền tệ có
mức tăng trưởng tiền tệ mục tiêu là 10% hoăc mức lạm phát mục tiêu là 10%
một năm. Trong Hình 1.2 trạng thái cân bằng dài hạn nằm tại điểm E. Lạm phát
bằng 10% đúng như mọi người kỳ vọng. Lượng tiền danh nghĩa tăng trưởng
hàng năm là 10%. Mức thất nghiệp duy trì tại trạng thái thất nghiệp tự nhiên.
Đường Phillips ngắn hạn
Xuất phát từ điểm E, giả sử có một dữ kiện làm tăng tổng cầu. Mức thất
nghiệp sẽ giảm, lạm phát sẽ tăng lên và nền kinh tế nằm tại điểm A. Khi đó
ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để đạt mức mục tiêu của nó (ở một
trong hai dạng), và nền kinh tế từ từ vận động dọc theo đường Phillips ngắn
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
24
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh
hạn từ điểm A về lại điểm E. Bởi vì, cần một khoảng thời gian để lãi suất tác
động tới tổng cầu, do vậy quá trình này thường kéo dài từ một tới hai năm.
Ngược lại, nếu xuất phát từ điểm E, một cú sốc cầu bất lợi sẽ làm nền
kinh tế đi tới điểm B trong ngắn hạn. NHTW sẽ thay đổi lãi suất để đưa nền
kinh tế từ từ quay trở lại điểm E.
Đường Phillips ngắn hạn chỉ ra rằng trong ngắn hạn, mức thất nghiệp
cao hơn đi kèm với mức lạm phát thấp hơn. Chiều cao của đường Phillips
ngắn han phản ánh lạm phát kỳ vọng, vị trí cân bằng dài hạn nằm tại E, khi đó
kỳ vọng được điều chỉnh trọn vẹn.
Đường Phillips ngắn hạn tương ứng với đường tổng cung ngắn hạn.
Với mức lương đã có từ trước, mức giá cao hơn sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
sản xuất nhiều hơn và cần thuê thêm nhiều lao động hơn. Tại mọi mức giá của
thời kỳ trước, mức giá cao hơn ngày hôm nay hàm ý rằng tỷ lệ lạm phát cao
hơn. Tương tự, chiều cao của đường Phillips ngắn hạn phản ánh tốc độ tăng
trưởng tiền lương danh nghĩa của nền kinh tế đã có.
Khi công nhân và doanh nghiệp kỳ vọng lạm phát cao, họ sẽ thống nhất
lương danh nghĩa. Nếu lạm phát diễn ra đúng như kỳ vọng thì tiền lương sẽ
giống như dự tính và tăng trưởng tiền lương danh nghĩa sẽ vừa đủ. Nếu lạm
phát cao hơn mức kỳ vọng thì tiền lương thực tế sẽ thấp hơn so với dự tính.
doanh nghiệp sẽ tăng sản xuất và thuê thêm nhiều lao động hơn. Lạm phát cao
(so với kỳ vọng) sẽ đi kèm với mức thất nghiệp thấp hơn. Đường Phillips
ngắn hạn có độ dốc đi xuống. Chiều cao của nó phản ánh kỳ vọng lạm phát
được thể hiện trong hợp đồng tiền lương đã có trước đó.
Điều này giải thích tại sao hầu hết các nền kinh tế đều đã phải trải qua
thời kỳ lạm phát cao tại mỗi mức thất nghiệp trong những năm 1970 và 1980:
đường Phillips ngắn hạn đã dịch chuyển lên trên. chính phủ đã in tiền nhanh
hơn trước kia. Tỷ lệ lạm phát cân bằng dài hạn cao và được kỳ vọng là sẽ cao.
Vũ Thị Huyền Trang Lớp: Toán Kinh tế 46
Lớp: Toán KINH Tế 46
25