Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Đánh giá hoạt động quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Thạch Thành- Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.95 KB, 88 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
MỤC LỤC
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH : Bảo Hiểm Xã Hội
BHYT : Bảo Hiểm Y tế
BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
BHTM : Bảo hiểm thương mại
NSNN : Ngân sách Nhà nước
UBND : Ủy ban nhân dân
HCSN : Hành chính sự nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
NQD : Ngoài quốc doanh
TNLĐ – BNN : Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
NLĐ : Nguời lao động
NSDLĐ : Người sử dụng lao động
NS : Ngân sách
BLĐTBXH : Bộ lao động thuơng binh xã hội
ASXH : An sinh xã hội
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
LỜI MỞ ĐẦU
BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng, Nhà nước và có vai trò rất quan
trọng đối với hàng triệu người lao động nhằm đảm bảo về mặt vật chất và về mặt


tinh thần cho họ và gia đình khi người lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả
năng lao động, mất việc làm. Và trong điều kiện nền kinh tế đất nước luôn luôn thay
đổi và ngày càng phát triển ở một mức độ cao hơn thì việc thực hiện tốt chính sách
BHXH còn đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động trong xã hội. Với vai
trò như vậy nên ngay từ khi thành lập đến bây giờ, ngành BHXH Việt Nam đã được
Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta quan tâm và tạo điều kiện để phát triển.
Hoạt động của BHXH ngày càng hiệu quả và thể hiện rõ được vai trò của nó
đặc biệt là từ sau năm 1995 khi hoạt động của quỹ BHXH được hình thành độc lập
và tách khỏi ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH là xương sống của bất kỳ một hệ
thống BHXH nào vì các chế độ đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập
cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan BHXH phải có một cơ chế thu các chế
độ BHXH bắt buộc được triển khai rộng rãi và hiệu quả hơn. Bởi vì Công tác thu
BHXH là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ
thống BHXH và quyết định sự thành bại của toàn ngành BHXH Việt Nam bởi vì có
thu đúng, thu đủ thì người lao động sẽ được chi trả và hưởng BHXH một cách
nhanh chóng và kịp thời khi có rủi ra xảy ra.
Song trên thực tế vẫn còn những tồn tại và thiếu sót trong quá trình triển khai
thực hiện đặc biệt là trong công tác thu các chế độ BHXH bắt buộc.
Để hoạt động BHXH phát huy được hiệu quả cao nhất, cân đối thu – chi
nguồn quỹ BHXH và đảm bảo quyền lợi cho những đối tượng tham gia và thụ
hưởng luôn là quan tâm hàng đầu của những người làm công tác BHXH.
Là sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc Dân và dựa trên cơ sở lý thuyết đã
được thầy cô giảng dạy trên giảng đường. Việc áp dụng cơ sở lý thuyết vào thực tế
là rất quan trọng nên em chọn thực tập tại BHXH huyện Thạch Thành – tỉnh Thanh
Hóa để có cơ hội đi sâu và có cái nhìn toàn diện hơn trong công việc thực tế của
ngành BHXH đặc biệt là trong công tác quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn
huyện. Được sự hướng dẫn và thực hành các công việc nghiệp vụ thu BHXH và
nhận thấy được tầm quan trọng trong công tác thu nên em đã chọn đề tài “ đánh giá
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
5

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
hoạt động quản lý thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Thạch Thành- Thanh
Hóa”. Mục đích nghiên cứu là đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách BHXH
nói chung và công tác thu BHXH bắt buộc nói riêng trên địa bàn huyện Thạch
Thành – Thanh Hóa. Qua đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng
cao chất lượng BHXH đặc biệt là công tác thu BHXH góp phần đảm bảo quyền lợi
cho người lao động ngày một đầy đủ hơn.
Chuyên đề bao gồm 3 chương sau:
Chương I : Khái quát về BHXH và công tác thu BHXH.
Chương II : Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện
Thạch Thành- Thanh Hóa.
Chương III : Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại
BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Thạch Thành – Thanh Hóa.
Trong thời gian thực tập tổng hợp tại đơn vị, Em đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ, tạo điều kiện của các bác, các cô, chú, anh ,chị tại cơ quan BHXH huyện
Thạch Thành và sự hướng dẫn tận tình của giảng viên- Tiến sỹ Nguyễn Thị Hải
Đường.
Mặc dù đã thu thập được nhiều tài liệu cũng như số liệu song do thời gian viết
chuyên đề và trình độ còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn nên
chuyên đề chưa thực sự hoàn thiện. Em mong nhận được sự góp ý kiến của thầy cô
và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC
THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 Tổng quan về Bảo Hiểm Xã Hội
1.1.1 khái niệm Bảo Hiểm Xã Hội và tính tất yếu khách quan của Bảo Hiểm Xã
Hội:

1.1.1.1 Khái niệm Bảo Hiểm Xã Hội:
Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người ta đã đưa ra khái niệm về bảo hiểm ở nhiều
góc độ khác nhau.
Thứ nhất dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng : “Bảo hiểm là một hoạt
động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát mong đợi”.
Hai là dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “ Bảo hiểm là
một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản
tiền ( phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người
thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi
thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với
toàn bộ rủi, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống kê”.
Ba là dưới góc độ kinh doanh Bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm
thương mại trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “ Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế
này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công
ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người rủi ro cho công ty được bảo hiểm
các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những
người được bảo hiểm”….
Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo hiểm
trên các khía cạnh về rủi ro giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thông qua
phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo hiểm gặp phải
rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh đó, khái niệm về bảo hiểm có thể
được hiểu như sau: “ Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó
một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo
hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm
cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù

trừ chúng theo quy luật thống kê”.
Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao quát
được phạm vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm ( BHTM, BHXH,
BHTN, BHYT).
1.1.1.2 Tính tất yếu khách quan của Bảo Hiểm Xã Hội:
Sự xuất hiện của cac loại hình quỹ tương hỗ, đặc biệt là sự ra đời của cac loại
hình bảo hiểm đac đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Từ đây những nỗi lo toan phiền muộn về cac biến cố bất
lợi xảy ra trong cuộc sống con người đã đực giải tỏa. Con người cảm thấy an toàn
hơn với sự giúp đỡ của các công ty, các tổ chức BHXH. Hoạt động của loại hình
này đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của người lao động, cho sự ổn
định hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức và các công ty. Có thể thấy rằng sự
xuất hiện của BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống của người lao
động.
Xét từ phía người lao động: trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao
động luôn gặp phải những rủi ro mang tính khách quan như: ốm đau, tai nạn lao
động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp gây ra làm cho họ mất hoặc giảm khả năng
lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập của họ bị giảm đi hoặc
không còn nữa; hoặc người lao động bị chết trong khi con cái đang tuổi vị thành
niên, bố mẹ già không nơi nương tựa; hoặc về già không còn khả năng lao động để
có thu nhập từ tiền lương, tiền công, hơn thế nữa bệnh tật ốm đau lại xảy ra thường
xuyên hơn gây nhiều khó khăn cho người lao động. Những rủi ro này không chỉ làm
giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm nguồn lực tài chính của họ và
gia đình do các chi phí mới phát sinh như: chi phí khám chữa bệnh, chi phí chăm
sóc, phục hồi sức khỏe, chi phí mai táng. Do đó cuộc sống của người lao động trong
hoàn cảnh này là rất khó khăn cần được giúp đỡ về mặt tài chính là cần thiết, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng.
Xét từ phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường mối quan hệ giữa giới
chủ và thợ là mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm
của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao

động, phải trả công cho họ vừa phải có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp
phải rủi ro trong quá trình lao động như: tai nạn lao động, ốm đau. Chính các chi
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
phí phát sinh này làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đặc biệt
là những đợt dịch bệnh, trường hợp tích tụ rủi ro, rủi ro mang tính thảm họa. Điều
này ảnh hưởng trực tiếp đễn hoạt động sản xuất kinh doanh để trang trải cho các chi
phí đó.
Xét từ phía xã hội: Sự vận động cua các quy luật nội tại trong nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, trong nhiều trường hợp đã đẩy một số doanh
nghiệp vào tình trạng bất ổn, thậm chí là phá sản dẫn đến hàng loạt người bị mất
việc làm, không đảm bảo được cuộc sống và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp. Vì thế,
để đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển bình thường, xét từ phía trách nhiệm của
Xã hội, Nhà nước buộc pải tiến hành phân phối lại qua ngân sách Nhà nước hoặc
buộc các doanh nghịp phải tự tạo quỹ tài chính cho vấn đề trên.
Như vậy, đứng trước những rủi ro trong cuộc sống của người lao động. Trong
quá trình lao động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và cả xã hội đều cần
phải có một nguồn lực tài chính đủ lớn nhằm đảm bảo cho sự ổn định cuộc sống của
người lao động, hoạt động của các tổ chức và sự ổn định về mặt chính trị, xã hội.
Để có nguồn tài chính này thì con người đã có nhiều biện pháp khác nhau như: né
tránh rủi ro, san sẻ tổn thất trong cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc thành lập các quỹ
tương hỗ. Tuy nhiên, các biện pháp nêu trên là không hiệu quả hoặc là hiệu quả
không cao ( quỹ tương hỗ) biện pháp hữu hiệu nhất là tham gia BHXH tức là trong
quá trình lao động cả người lao động và người sử dụng lao động đều trích ra một
phần thu nhập của mình để cùng Nhà nước thành lập quỹ tài chính BHXH.
1.1.1.3:Bản chất và chức năng của Bảo Hiểm Xã Hội:
* Bản chất:
Mục đích chính của Bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những
người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trinhg phân phối lại tổng sản phẩm quốc
nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát
sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên,
phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều và phần lớn không mang
tính bồi hoàn trực tiếp ( loại trừ một số loại hình bảo hiểm như: bảo hiểm nhân thọ,
bảo hiểm hưu trí).
BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một yếu tố tất yếu khách quan cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, đã có rất nhiều khái niệm về BHXH, nhưng dù định
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
nghĩa như thế nào đi nữa vẫn phải thể hiện được bản chất của BHXH. Có thể nói
rằng BHXH thực chất là sự phân phối lại thu nhập dựa vào sự tập trung, san sẻ rủi
ro dựa vào một quỹ tiền tệ tập trung, san sẻ rủi ro mang tính chất xã hội. Sự tập
trung san sẻ rủi ro dựa vào một quỹ tiền tệ được đóng góp bởi NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nước hỗ trợ một phần. Bản chất của BHXH được thể hiện cụ thể qua những ý
cụ thể như sau:
Thứ nhất, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội,
nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối
quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế càng
phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Thứ hai, mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và quan hệ quản lý xã hội, gồm ba bên: Bên tham gia BHXH có thể chỉ là
người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH
( bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập
ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều
kiện ràng buộc cần thiết. Trên cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên là
quỹ tài chính của BHXH vì quỹ này do ba bên đóng góp và mức đóng góp của từng
bên là do sự thỏa thuận của các bên sau đó được luật hóa và thực hiện.

Thứ ba, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên ngoài ý muốn chủ quan của con người
như: ốm đau, TNLĐ- BNN, hoặc những trường hợp xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên
như: tuổi già, thai sản…đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và
ngoài quá trình lao động.
Thứ tư, phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến
cố, rủi ro được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn
tích lại. Nguồn quỹ do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn
có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nhưng sự bù đắp thay thế của BHXH sẽ nhỏ hơn
mức thu nhập của họ khi đang làm việc, như vậy sẽ kích thích được NLĐ tham
gia lao động, sản xuất…
Cuối cùng, mục tiêu của BHXH nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của
NLĐ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã
được ILO cụ thể như sau:
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Do đó, ở nước ta BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách an sinh
xã hội( ASXH). Ngoài BHXH ra, chính sách ASXH còn có cứu trợ xã hội, ưu đãi
xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo…
* Chức năng của BHXH:
Thứ nhất, BHXH góp phần Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
nguời lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất
hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất

khả năng lao động thì sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động
theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao
động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ
cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời
hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó
quyết đinh nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Trong cuộc sống hàng ngày hay trong lao động SXKD, bất cứ người lao động
nào cũng có thể gặp phải rủi ro như: ốm đau, TNLĐ - BNN, hết tuổi lao động lao
động hoặc bị chết dẫn đến giảm hoặc mất khả năng lao động…dẫn đến thu nhập của
họ bị mất một phần hoặc giảm một phần.
Và dù ở thời điểm nào thì khi những rủi ro này xảy ra nó sẽ gây ra những khó
khăn về vật chất, về tinh thần cho người lao động, kéo theo đó là gây ảnh hưởng
đến đời sống của gia đình người lao động (đặc biệt là khi người lao động là người
trụ cột trong gia đình).
Là một trong những chính sách KTXH của Nhà nước, BHXH góp phần trợ
giúp cho người lao động (tức là thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập mà người
lao động bị giảm hoặc bị mất do rủi ro gây ra) để khắc phục khó khăn, ổn định cuộc
sống thông qua các khoản trợ cấp BHXH. Vì vậy có thể nói đây là chức năng cơ
bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt
động của BHXH.
Thứ hai, Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
người tham gia BHXH.
- Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng
lao động, sự đóng góp của các bên sẽ hình thành nên quỹ BHXH và quỹ này sẽ
được dùng để trợ cấp cho một số người tham gia khi họ không may gặp rủi ro dẫn
đến bị mất hoặc giảm thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp.

Như vậy, BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia được
tiến hành tuân theo nguyên tắc số đông bù số ít ( nghĩa là rủi ro của một hoặc một
số người sẽ được chia sẻ của nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu).
Theo cách đó, những gánh nặng mà người lao động và gia đình họ phải gánh
chịu khi không may gặp rủi ro (biến cố bất lợi) sẽ trở nên nhẹ bớt đi khi được san sẻ
cho những người khác cùng tham gia BHXH.
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội theo
chiều dọc và chiều ngang:
- Phân phối lại thu nhập theo chiều ngang theo nguyên tắc của BHXH là sự
phân phối giữa những người khoẻ mạnh và những người ốm đau hoặc những người
không may gặp tai nạn lao động và mắc bệnh nghề nghiệp, giữa những người đang
làm việc và những người đã nghỉ việc, giữa những người chưa có con và những
người có gánh nặng gia đình. Phân phối theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ
những người được hưởng quyền trợ cấp
- Phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản, sức mua
của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập thấp, vì vậy, mức
đóng góp BHXH ở khu vực thành thị luôn cao hơn so mức đóng góp BHXH ở nông
thôn nhưng mức hưởng lại tương đương, mức đóng góp BHXH bắt buộc (đối với
những người làm công ăn lương) lớn hơn mức đóng góp BHXH tự nguyện (đối với
người lao động, HS –SV) nhưng mức hưởng lại tương đương nhau.Thực hiện chức
năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Đây là một điểm
có ý nghĩa nhân đạo mà chỉ có BHXH mới có.
Ba là, Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất,
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Khi khỏe mạnh và tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử
dụng lao động trả lương hoặc trả tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ hoặc khi
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
về già đã có BHXH trợ cấp, thay thế phần thu nhập bị giảm hoặc bị mất. Nhờ thế

cuộc sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ
dựa. Do đó mà người lao động luôn cảm thấy yên tâm, gắn bó, tận tình với công
việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế, phát huy khả năng sáng tạo. Chức năng này biểu hiện
như một đòn bảy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá
nhân kéo theo là năng suất lao động xã hội cũng tăng.
Bốn là, Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động,
giữa người lao động với xã hội.
Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động
vốn có những mẫu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công và thời gian
lao động v.v…thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hòa và giải
quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo
vệ chính điều này giúp họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với nhau.
. Về phía người sử dụng lao động , sự đóng góp một phần BHXH giúp cho
người sử dụng lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền
lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Bên cạnh đó,
nó cũng góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp do người lao động đòi quyền lợi
buộc người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với những thiệt hại do rủi ro
gây ra cho họ, ngoài ra nó còn thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp giữa giới chủ và
thợ từ đó người lao động sẽ yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy khả năng
sáng tạo, góp phân nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho người
sử dụng lao động.
. Về phía người lao động, sự tham gia đóng góp một phần BHXH cho mình,
điều này thể hiện trách nhiệm của người lao động đối với bản thân họ trước rủi ro.
Sự tham gia đóng góp một phần BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh
chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi
của NLĐ một cách chặt chẽ
Đối với NN và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu
quả nhất đồng thời vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và
gia đình họ, giúp làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát

triển và an toàn hơn.
Bên cạnh đó, Ai cũng có nhu cầu làm việc, lao động và mong muốn được trả
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
lương trả công xứng đáng với công sức mà mình bỏ ra. Nhưng trên thực tế, có nhiều
biến cố xảy ra làm cho khả năng làm việc , khả năng có việc làm không ổn định.
Khi gặp phải những biến cố trên, các nhu cầu cần thiết hàng ngày như: ăn, mặc, ở…
không mất đi mà còn có cái tăng lên, thậm chí xuất hiện thêm 1 số nhu cầu mới làm
gia tăng những chi phí như: khám chữa bệnh khi ốm đau và cần thêm người chăm
sóc khi bị tai nạn lao động…Để giải quyết những khó khăn, con người và xã hội tìm
ra các cách như: vay mượn, tiết kiệm, sự san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ
cộng đồng… Tuy nhiên những giải pháp trên chỉ là mang tính tạm thời và hoàn toàn
thụ động.
Mặt khác, khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn lao động trở lên
phổ biến hơn. Người chủ lao động không chỉ phải cam kết trả tiền công lao động mà
còn phải bảo đảm cho người lao động làm thuê có 1 số thu nhập nhất định để họ có
thể trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, bệnh tật, TNLĐ-
BNN…Trong thực tế, các trường hợp trên có thể không xảy ra nhưng cũng có thể
xảy ra dồn dập làm cho người chủ sử dụng lao động phải bỏ ra những khoản tiền
lớn dù họ không mong muốn. Điều này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa giới chủ và giới
thợ, gây nên 1 tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Để khắc phục tình trạng
khá phổ biến này, Nhà nước đứng ra can thiệp, điều hòa mâu thuẫn bằng cách huy
động sự đóng góp của cả từ phía chủ và thợ, bản thân Nhà nước cũng tham gia hỗ
trợ 1 phần để hình thành nên 1 quỹ tài chính với mục đích bảo vệ quyền lợi cho cả
người lao động và người sử dụng lao động đây là cách mà BHXH ra đời như một
nhu cầu tất yếu.
1.2 Nguyên tắc và nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội
1.2.1 Nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội:
•Mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng trợ cấp BHXH:

Thực hiện được nguyên tắc này sẽ góp phần đảm bảo quyền bình đẳng giữa
những người lao động trên phương diện xã hội, nhất là trong điều kiện BHXH có sự
bảo trợ của Nhà nước. Vì vậy mà ngày nay, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của
người lao động, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Ở Việt Nam quyền tham
gia và hưởng BHXH của người lao động đã được ghi trong hiến pháp của bộ luật
lao động. Một trong các tiêu chí đánh giá sự thành công của hệ thống BHXH là diện
bao phủ của nó so với lực lượng lao động trong phạm vi cả nước. Cho nên, các hệ
thống bảo hiểm thường thiết kế để ngay cả những người ít có khả năng cũng có cơ
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
hội tham gia bảo hiểm ở mức độ nhất định. Quyền tham gia BHXH không bị phân
biệt về khu vực, ngành nghề, thành phần kinh tế, giới tính, có tham gia quan hệ lao
động… tuy nhiên khả năng chhia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu còn phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội và thể chế chính trị của mỗi quốc gia.
•Mức hưởng trợ cấp BHXH phải tương quan với mức đóng góp:
BHXH là một trong những hình thức phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia Bảo hiểm nên cần xác định mức hưởng một cách chính xác, hợp lý, công
bằng. Mức đóng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức hưởng BHXH. Nếu
người lao động đã đóng tiền bảo hiểm cho mức thu nhập của mình có nghĩa là họ đã
mua bảo hiểm cho mức thu nhập đó. Khi mức thu nhập này giảm hoặc mất thì
BHXH phải đảm bảo cho người tham gia hưởng bằng mức đã nhận bảo hiểm. Tuy
nhiên mức đóng góp và thu nhập được bảo hiểm thường bị khống chế ở mức trần
nhất định.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, mức bảo hiểm còn phải dựa trên thời gian
đóng bảo hiểm, yếu tố này đặc biệt quan trọng đối với các chế độ dài hạn, tuy nhiên
căn cứ đóng căn cứ vào mức đóng bảo hiểm không có nghĩa là người lao động đóng
bảo hiểm bao nhiêu thì họ sẽ được hưởng bấy nhiêu, bởi vì BHXH còn thực hiện
mục đích chia sẻ rủi ro trong cộng đồng nên trong tương quan với tiền lương, các hệ
thống BHXH thường thiết kế sao cho mức thu nhập được bảo hiểm không thể cao

hơn, thậm chí phải thấp hơn mức lương khi người lao động đang làm việc. Như vậy
người lao động không thể chia hết rủi ro của mình cho cộng đồng mà họ vẫn phải
gánh chịu một phần.
Mức trợ cấp bảo hiểm cho người lao động được tính toán hợp lý trong tương
quan với rất nhiều yếu tố, trong đó mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ là những
yếu tố chủ yếu nhất. Việc xác định mức trợ cấp bảo hiểm hợp lý là những yếu tố
chủ yếu nhất. Việc xác định mức trợ cấp bảo hiểm hợp lý là nguyên tắc quan trọng
đảm bảo tính hấp dẫn và tính bền vững của BHXH. Đây cũng là nguyên tắc thể hiện
rõ nét yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội của hình thức bảo hiểm xã hội.
•Nguyên tắc số đông bù số ít:
khi tham BHXH , người lao động được bảo đảm một khoản thu nhập khi bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Khoản thu nhập thay thế này
nói chung cao hơn nhiều so với khoản phí BHXH mà họ đã đóng góp. Để làm được
điều này BHXH phải thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít. Mặt khác đối với mối
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
người lao động, thời gian làm việc có thu nhập thường lớn hơn thời gian ngừng
hoặc nghỉ việc không có thu nhập. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia
thì san sẻ rủi ro càng thực hiện được dễ dàng.
•Nhà nước thống nhất quản lý Bảo hiểm xã hội:
BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Nhà nước, với tư cách là đại diện chính thức về mặt quản lý xã hội, phải có trách
nhiệm thực hiện chính sách xã hội, quản lý các hoạt động của BHXH để đảm bảo
ổn định và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, BHXH còn là một yếu tố quan trọng để
hình thành và phát triển thị trường lao động. Nhà nước quản lý sẽ đảm bảo được
tính thống nhất và là yêu cầu khách quan, nhất là trong giai đoạn đầu thực hiện
BHXH theo yêu cầu của cơ chế thị trường.
•Kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội của đất nước:

Khác với Bảo hiểm thương mại, BHXH ngoài mục đích là đảm bảo thu nhập
cho người lao động còn phải tính đến lợi ích chung và lợi ích của người sử dụng lao
động, kết hợp với các mục tiêu đó là mục tiêu xã hội. Vì vậy, kết hợp hài hòa các
lợi ích, các mục tiêu đó vừa là cơ sở thiết kế hệ thống, vừa là điều kiện để tổ chức
thành công BHXH.
Thực tế cho thấy, không chỉ người lao động mà các bên tham gia BHXH đều
nhận được những lợi ích nhất định, trong đó, mỗi chủ thể vừa hướng lợi ích chung
để lợi ích nhất định, trong đó, mỗi chủ thể vừa hướng lợi ích chung để phát triển
BHXH bền vững, vừa cố gắng để lợi ích của mình đạt được ở mức cao nhất. Nếu
nhà nước không tổ chức tốt BHXH thì không thực hiện được ASXH và điều này sẽ
có ảnh hưởng lớn tới các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội.
1.2.2 Nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội:
1.2.2.1 Đối tượng của Bảo hiểm xã hội:
Thứ nhất, Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ bị biến động giảm
hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất hoặc khả năng lao động, mất việc làm của
những NLĐ tham gia BHXH.
Chúng ta cần phải phân biệt rõ giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia
BHXH và với đối tượng quản lý BHXH:
+ Đối tượng tham gia BHXH chính là NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, khi mới
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
ban hành và tổ chức thực hiện BHXH các nước thường áp dụng cho các viên chức
Nhà nước, những người làm công hưởng lương.
+ Đối tượng của quản lý BHXH chính là phương pháp, kĩ năng, cơ chế vận
hành, tổ chức và quản lý một cơ quan BHXH.
Ngoài ra, trong BHXH còn có mối quan hệ ba bên như trên phần bản chất đã
nghiên cứu đó là mối quan hệ hữu cơ khăng khít : người sử dụng lao động đóng góp
vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mmaf họ sử
dụng, còn cơ quan Nhà nước nhận sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ thì phải có

trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với
NLĐ. Những mối quan hệ các cấp trong bản thân nghành BHXH, mối quan hệ giữa
BHXH với các cấp, các nghành và các cơ quan có liên quan trong nước và quốc tế.
Do đó, đối tượng nghiên cứu của BHXH còn là mối quan hệ giữa các bên trong
BHXH.
1.2.2.2 Các chế độ trợ cấp của Bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết, sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với NLĐ.
Hay nói cách khác, đó là 1 hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng
hưởng trong đó nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể được
quy định như sau.
Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952
tại Giơnevơ quy định hệ thống các chế độ BHXH bao gồm các chế độ sau:
1. Chăm sóc y tế,
2. Trợ cấp ốm đau,
3. Trợ cấp thất nghiệp,
4. Trợ cấp tuổi già,
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
6. Trợ cấp gia đình,
7. Trợ cấp sinh đẻ,
8. Trợ cấp khi tàn phế,
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng),
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro và chia sẻ tài chính
Mỗi chế độ được chi trả đều dựa chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham
gia BHXH

+ Phần lớn các chế độ phải chi trả định kỳ
+ Đồng tiền được sử dụng là phương tiện để chi trả và thanh quyết toán
+ Chi trả Bảo hiểm xã hội như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH
+ Mức chi trả còn phụ thuộc nhiều vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu
tư có hiệu quả thì mức chi trả sẽ ổn định và hiệu quả hơn.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh theo định kỳ để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế- xã hội theo từng thời kỳ. Mỗi chế độ BHXH trong
hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế xã hội như: cơ cấu
ngành kinh tế quốc dân, tiền lương, tiền công, thu nhập của người lao động, hệ
thống tài chính quốc gia…Nội dung cụ thể của từng chế độ như sau:
Chế độ Chăm sóc y tế:
Mục đích của chăm sóc y tế là duy trì, phục hồi hay nâng cao sức khỏe của
những người được bảo trợ…, phục hồi và nâng cao khả năng làm việc, khả năng
tham gia các nhu cầu cá nhân của họ.
Chăm sóc ý tế có thể được tổ chức trực tiếp hay gián tiếp tại các cơ sở y tế của
đơn vị sử dụng lao động hoặc tại các bệnh viện, cơ sở y tế của tư nhâ, Nhà nước
thông qua các hợp đồng được ký kết giữa cơ quan BHXH với cơ sở y tế, bệnh viện
đó. Chế độ này cũng giúp người tham gia BHXH nhanh chóng phục hồi sức khỏe
và đảm bảo ASXH.
Chế độ Trợ cấp ốm đau:
Chế độ ốm đau được chi trả khi người được bảo hiểm hoặc bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau hay tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám
định.
Tỷ lệ hưởng trợ cấp được tính dựa trên mức tiền công, tiền lương nhận được
trước khi bị ốm đau hay tai nạn và thời gian tham gia đóng BHXH.
Thời gian hưởng chế độ này tùy vào quy định từng nước. Thời gian trợ cấp tối
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
đa là 26 tuần/một lần nghỉ ốm nhưng phụ thuộc vào quy định và điều kiện cụ thể

của từng nước.
Chế độ Trợ cấp thất nghiệp:
Theo ILO: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số lớn người trong độ
tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương đang
thịnh hành hoặc làm việc không đủ số giờ theo yêu cầu thực tế ”.
Trợ cấp thất nghiệp nhằm mục đích trợ giúp cho người lao động bị thất nghiệp
một khoản tiền để họ ổn định, đảm bảo cuộc sống ở mức nhất định từ đó tạo điều
kiện chô họ tham gia vào thị trường lao động để có thể tìm được một việc làm mới.
Mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải thấp hơn thu nhập của người lao động khi
đang làm việc, được xác định dựa vào các yếu tố:
- Mức lương tối thiểu
- Mức lương bình quân cá nhân
- Mức lương tháng cuối cùng trước khi bị thất nghiệp
Để được hưởng trợ cấp BHTN, người lao động phải đáp ứng được các điều kiện
sau:
- Phải tham gia nộp phí BHTN đầy đủ trong một thời gian nhất định.
- Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động – phải đăng ký thất
nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do Nhà
nước quy định.
- Phải sẵn sàng làm việc
- Có sổ bảo hiểm thất nghiệp để chứng nhận có tham gia đóng BHTN đủ thời
hạn quy định.
Chế độ Trợ cấp sinh đẻ
Chế độ trợ cấp sinh đẻ có mục đích là bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
bị mất cho lao động là nữ khi thai nghén, sinh đẻ và nuôi con (kể cả trường hợp xin
con nuôi là trẻ sơ sinh). Sự hỗ trợ về tài chính này giúp họ nhanh chóng hồi phục
sức khỏe để tái hòa nhập vào quá trình hoạt động xã hội và yên tâm hơn trong cuộc
sống. Bằng cách cung cấp:
- Chăm sóc y tế trước, trong và sau khi sinh
- Nghỉ phép hưởng lương trong thời gian quy định.

SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Bên cạnh đó, chế độ này cũng góp phần thực hiện quyền bình đẳng với tất cả mọi
phụ nữ trong lực lượng lao động và an toàn sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh góp
phần giúp lao động nữ thực hiện tốt quyền làm mẹ của mình.
Trong đó điều kiện hưởng trợ cấp thai sản là phải có một khoảng thời gian
tham gia BHXH tối thiểu, tùy thuộc vào pháp luật của quốc gia quy định.
Với thời gian trợ cấp và mức trợ cấp được quy định cụ thể tùy theo điều kiện
từng quốc gia.
Chế độ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp:
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp bao gồm sự mất khả năng lao động
trong thời gian ngắn, tàn tật và các chế độ tử tuất.
Trong quá trình thực hiện chế độ này phải được xác định rõ ràng cụ thể về
những trường hợp nào là tai nạn lao động, trường hợp nào là bệnh nghề nghiệp để
phân biệt được với các chế độ bảo hiểm tương tự từ đó để xác định mức hưởng trợ
cấp cho đúng.
Mục đích của chế độ này nhằm duy trì, khôi phục hoặc cải thiện sức khỏe của
người được bảo vệ và khả năng làm việc của người đó và chăm sóc cá nhân người
đó nếu thấy cần thiết. Mặt khác, cũng góp phần tạo ra các định hướng nghề nghiệp,
với mục đích tạo lập một công việc phù hợp cho người tàn tật và đảm bảo sự cung
cấp chắc chắn cho việc tạo việc làm cho những người tàn tật.
Chế độ tuổi già
Chế độ hưu trí là cung cấp thu nhập thay thế cho người lao động khi họ đến
tuổi về hưu và ngừng tham gia vào thị trường lao động để đảm bảo cuộc sống cho
họ và gia đình khi về già.
Điều kiện để dược hưởng trợ cấp ( tùy theo quy định của từng nước):
+ Đến tuổi về hưu
+ Tham gia đóng BHXH đầy đủ, đúng thời gian quy định
Chế độ Trợ cấp khi tàn phế:

Mục đích của chế độ là hỗ trợ về tài chính cho những NLĐ bị đau ốm không
thể khắc phục được sự suy giảm sức khỏe này, và bị tàn tật dẫn đến tình trạng
không thể tiếp tục lao động như trước nữa, góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và
gia đình họ, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
Chế độ cho người còn sống
Đây là chế độ có tính nhân đạo nhất trong chín chế độ nhằm mục đích hỗ trợ
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
về mặt tài chính cho gia đình NLĐ khi NLĐ chết và vợ con họ bị mất phương tiện
sinh sống ( nếu người đó là lao động trụ cột trong gia đình). vì vậy, khắc phục
những khó khăn tức thời để ổn định cuộc sống cho các thành viên trong gia đình họ.
Chế độ Trợ cấp gia đình
Mục đích hỗ trợ cho những người lao động đông con có được những trợ giúp
vật chất tối thiểu để chăm sóc và nuôi dạy con cái với mục đích giảm nhẹ gánh nặng
về con cái và giúp NLĐ yên tâm hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh; cũng góp
phần khuyến khích NLĐ tham gia BHXH và tạo nguồn lao động trong tương lai.
9 chế độ trên hình thành nên 1 hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện kinh
tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở
mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có
1 trong năm chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động –
bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống, và tùy theo điều
kiện của mỗi quốc gia.
Hệ thống các chế độ có đặc điểm chủ yếu sau:
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước
- Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính: BHXH
thực hiện theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, san sẻ rủi ro giữa các nhóm người
trong cộng động, góp phần ổn định về mặt tài chính cho những người gặp hoàn
cảnh khó khăn. Từ đó, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên

tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn
thì mức chi trả sẽ cao và ổn định hơn.
- Hầu hết các chế độ được chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm
phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi
chế độ BHXH.
- Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có
hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao hơn và ổn định
- Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế - xã hội. Hệ thống chế độ BHXH có tính ổn định tương
đối, chỉ khi nào tình hình kinh tế có những biến chuyển lớn, đòi hỏi phải có sửa đổi
chính sách BHXH cho phù hợp thì hệ thống các chế độ BHXH mới có các điều chỉnh.
Cơ sở để xác định điều kiện hưởng Bảo hiểm xã hội phải tính đến một loạt các
yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ Bảo hiểm xã
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
hội cụ thể như sau: Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã
hội tuổi già, phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động
là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi
quốc gia có những khác biệt nhất định. Tùy theo quy định của mỗi quốc gia, hoặc
khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp phải tính đến các yếu tố như: Điều kiện và môi trường lao động; bảo hộ lao
động v.v…Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều
ảnh hưởng đến điều kiện Bảo hiểm xã hội của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các
chế độ Bảo hiểm xã hội.
Việt Nam hiện nay tiến hành thực hiện 6 chế độ là: chế độ trợ cấp ốm đau, thai
sản, chế độ tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và tử tuất, từ năm
2009 bắt đầu đưa chế độ trợ cấp thất nghiệp vào thực tiễn.
1.2.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.2.3.1 Khái niệm và Đặc điểm:

* Khái niệm:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ có mục đích và chủ thể riêng, trong đó mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để
chi trả cho NLĐ, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp phải các biến cố hoặc rủi ro.
Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp hình thành nên
quỹ, do đó có thể bao gồm cả NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
Quỹ BHXH cũng là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là quỹ dự phòng. Nó vừa
mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan
trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên cần phân biệt giữa quỹ BHXH và Ngân sách nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình
Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập của
quốc gia nhằm tạo lập quỹ tiền của Nhà Nước và phân phối sử dụng nó cho việc
trang trải các chi phí bộ máy Nhà Nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội
theo kế hoạch của Nhà nước.
• Sự giống nhau giữa quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước:
- Việc tạo lập và sử dụng mỗi nguồn quỹ đều được biểu thị dưới hình thái
tiền tệ. Quá trình lập và sử dụng các quỹ này đều được thực thi theo các
quy định của pháp luật và việc quản lý được tiến hành theo nguyên tắc cân
bằng thu- chi
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
- Quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước là những khâu tài chính độc lập trong
hệ thống tài chính quốc gia, chức năng của Ngân sách Nhà nước mang tính
rộng rãi hơn so với quỹ BHXH.
- Hoạt động của cả hai đều không nhằm mục đích kinh doanh, kiếm lời mà
mang đậm tính xã hội, tính cộng đồng và tính nhân văn sâu sắc.
* Sự khác nhau giữa quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước:
Ngân sách Nhà nước Quỹ Bảo hiểm xã hội

- Điều kiện tồn tại và phát triển của
NSNN gắn liền với các chức năng
kinh tế xã hội của Nhà nước ở từng
giai đoạn.
- Tính chất pháp lý: của ngân sách
Nhà nước cao hơn so với quỹ BHXH.
Quá trình phân phối của ngân sách
Nhà nước chủ yếu là dựa vào quyền
lực kinh tế, chính trị của Nhà nước.
- Quan hệ phân phối: NSNN mang
tính phân phối lại và không mang tính
hoàn trả, chủ thể đóng góp và thụ
hưởng NSNN là tách rời nhau. Phản
ánh lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia
và chi phối các quan hệ lợi ích bộ
phận, lợi ích cá nhân nhằm đảm bảo
cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội.
- Sự ra đời và phát triển của quỹ
BHXH gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa với quan hệ thuê
mướn nhân công. Khi nền kinh tế
hàng hóa càng phát triển, thu nhập
của người lao động càng cao thì phạm
vi các chế độ BHXH càng mở rộng,
mức độ thỏa mãn của NLĐ khi tham
gia bảo hiểm xã hội càng cao.
- Tính pháp lý: hoạt động thu- chi của
quỹ BHXH cũng được thực hiện dựa
vào các văn bản pháp luật nhưng chủ
yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ

lợi ích của những người tham gia theo
nguyên tắc có đóng có hưởng.
- Quan hệ phân phối: quỹ BHXH
mang tính chất hoàn trả vừa mang
tính không hoàn trả. Quan hệ phân
phối trong quỹ BHXH trước hết là
thỏa mãn nhu cầu cá nhân rồi mới đến
lợi ích đơn vi, xã hội.
* Đặc điểm:
Quỹ BHXH có các đặc điểm sau:
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
Thứ nhất, Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định
cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất
thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm
lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là cân bằng thu – chi.
Hai là, Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không
hoàn trả. Trong đó, tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, NLĐ là đối tượng tham gia và đóng
góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ
BHXH cho dù chế độ, thời gian được nhận trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ
khác nhau tùy thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức
đóng góp và thời gian đóng góp của họ. Và Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ,
cùng thời gian tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp
nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có người được ít lần hơn, thậm
chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên 1 số đối tượng được hưởng mức
trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược
lại. Qua đó thể hiện được tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
Ba là, Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn tài chính đối với
quỹ BHXH là 1 vấn đề mang tính nguyên tắc. Đây cũng là một nguyên tắc cơ bản,

đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về
thu nhập cho NLĐ. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy
cơ mất an toàn về tài chính. Bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH trở thành 1
yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
Bốn là, Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó
là khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp
hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia.
Năm là, Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.
Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ
BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH với NLĐ càng được nâng cao. Đồng thời khi
kinh tế - xã hội phát triển, NLĐ và NSDLĐ sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng
có điều kiện tham gia đóng góp BHXH…
1.2.3.2 Phân loại quỹ
Căn cứ vào hình thức BHXH, phân ra hai loại quỹ như sau:
- Quỹ BHXH bắt buộc
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Hải Đường
- Quỹ BHXH tự nguyện
Phân loại theo tiêu thức này giúp các cơ quan quản lý Nhà nước kiểm tra giám
sát chặt chẽ cho từng nhóm tham gia BHXH.
Căn cứ vào tính chất sử dụng quỹ, ta có:
- Quỹ BHXH ngắn hạn: dùng để chi trả cho các chế độ ngắn hạn.
- Quỹ BHXH dài hạn: dùng để chi trả cho các chế độ BHXH dài hạn như hưu
trí, tử tuất
Phân loại này giúp cho việc quản lý chặc chẽ và tính phí BHXH chính xác
hơn.
Căn cứ vào từng chế độ BHXH, người ta chia ra các quỹ thành phần, mỗi chế
độ một quỹ riêng. Đây là cách phân loại mà Việt Nam hiện nay cần chú ý. Vì cách

phân loại này đã giúp tách được chế độ hưu trí ra khỏi chế độ liên quan vì đây là
chế độ phải chi trả nhiều nhất trong tổng quỹ, tách riêng quỹ BHTN ra khỏi quỹ
BHXH. Hay nói cách khác là tách các chế độ dài hạn ra khỏi các chế độ ngắn hạn.
1.2.3.3 Mục đích:
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau:
Thứ nhất, chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH nhằm góp phần ổn định cuộc
sống cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ gặp phải các rủi ro và sự kiện bảo hiểm.
Đây là khoản chi lớn nhất và quan trọng nhất và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của
từng quốc gia.( đây là mục đích quan trọng nhất của việc tạo lập quỹ).
Thứ hai, chi cho đầu tư tăng trưởng quỹ nhằm đảm bảo tính lâu dài bền vững
cho quỹ trong tương lai.
Thứ ba, chi cho quản lý BHXH ở tất cả các cấp và chi dự phòng.
1.2.3.4 Nguồn hình thành:
Theo luật BHXH hiện hành thì quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
- Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động
và Nhà nước hỗ trợ thêm trong đó :
+ Nhà nước bù thiếu và tài trợ hoàn toàn cho một số chế độ cho
những người thụ hưởng từ trước năm 1995.
+ Nhà nước cũng đóng góp nhất định cho quỹ với tư cách là người sử dụng
lao động đối với công nhân viên chức.
SV: Lại Hải Yến Lớp: Bảo hiểm xã hội 49
25

×