Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
MỤC LỤC
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang cùng nhân loại bước vào kỉ nguyên mới. Trong mục tiêu
chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước ta nêu rõ: “Phát huy mọi nguồn lực để
phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi
thế; đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước; tăng năng suất lao động xã hội và nâng
cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích lũy cho đầu
tư phát triển”.
Cùng với phát triển ngày càng sâu rộng của các nước trên thế giới, thị trường
Việt Nam cũng là một mảnh đất đầu tư đầy tiềm năng cho nhiều nhà đầu tư. Trong
nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các doanh nghiệp được tự chủ trong mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời cũng đòi hỏi các doanh nghiệp này
phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy thì mới
có thể tồn tại và phát triển được trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, đặc biệt khi Việt Nam tham gia hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương tiền thân là Công
ty khai thác, chế biến đá và khoáng sản Hải Dương. Sau khi cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước, công ty đổi tên thành Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng
sản Hải Dương. Nằm trên khu công nghiệp phát triển khá sôi động với nhiều nhà
máy,xí nghiệp, Công ty cổ phần khai thác chế biến khoáng sản Hải Dương đã góp
một phần lớn cung cấp nguyên liệu cho các Nhà máy xi măng. Đây là nơi tiêu thụ
nhiều sản phẩm nhất mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty. Trong những năm qua,
Công ty luôn chú trọng mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh và củng cố uy
tín trên thị trường. Nhờ vậy mà Công ty đã đạt được một số kết quả kinh doanh tích
cực và dần khẳng định vị thế của mình trong ngành khai thác khoáng sản.
Muốn chiến thắng trong cạnh tranh và đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của mỗi doanh nghiệp thì bản thân mỗi doanh nghiệp phải có một chiến lược đầu tư
phát triển phù hợp với từng thời điểm, từng thời kì. Đứng trước sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt và khốc liệt ấy, Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải
Dương đã nhận thức được tầm quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là quá trình đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ từ các bác, các cô,
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
các chú và các anh chị trong Công ty cũng như sự hướng dẫn tận tình của
TS.Nguyễn Hồng Minh, em đã tổng hợp một số báo cáo phân tích và nghiên cứu để
rút ra được những nhận định chung về Công ty, về tình hình sản xuất kinh doanh và
tình hình đầu tư phát triển tại Công ty. Để nghiên cứu một cách cụ thể hoạt động
đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty, em xin chọn đề tài: “Đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần khai thác, chế biến
khoáng sản Hải Dương: thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề khá phức tạp, trong phạm
vi chuyên đề này em chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh và các vấn đề còn tồn tại, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp khai khoáng.
Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương.
Do thời gian nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận và thực tiễn không nhiều,
cùng với trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn TS.Nguyễn Hồng Minh đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình lựa chọn và hoàn thiện chuyên đề này. Đồng thời em cũng xin gửi
lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ, nhân viên trong Công ty cổ phần khai thác, chế biến
khoáng sản Hải Dương đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại đơn vị.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP KHAI KHOÁNG
1.1. Khái quát về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
khai khoáng:
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh:
1.1.1.1. Cạnh tranh:
Thuật ngữ "cạnh tranh" được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực
như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được
nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông
tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng từ nhiều góc độ khác
nhau. Chính vì vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
- Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành động
ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành
được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, phần thưởng hay những thứ
khác.
- Trong kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người sản
xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau
(mua được hàng rẻ hơn); giữa những người sản xuất (điều kiện tốt hơn trong sản
xuất và tiêu thụ).
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá,…) hoặc cạnh
tranh phi giá cả (quảng cáo,…); cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một
Quốc gia là ở các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất ra các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế.
Trong thế kỷ XX, nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại ra đời như: lý thuyết
của Micheal Porter, J.B.Barney, P.Krugman… Trong đó phải kể đến lý thuyết “lợi
thế cạnh tranh” của Micheal Porter, ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp
tham gia cạnh tranh thương mại quốc tế cần phải có “lợi thế cạnh tranh” và “lợi thế
so sánh”. Ông phân tích lợi thế cạnh tranh tức là sức mạnh nội sinh của doanh
nghiệp, của quốc gia; còn lợi thế so sánh là điều kiện tài nguyên thiên nhiên, sức lao
động, môi trường tạo cho doanh nghiệp, quốc gia thuận lợi trong sản xuất cũng như
trong thương mại. Ông cho rằng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có quan hệ
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so sánh,
lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh. Theo ông, cạnh tranh là giành lấy thị
phần, bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn
mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là
sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ
quả giá cả có thể giảm đi.
Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với
các đối thủ trong cùng một ngành.
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh
nghiệp, ngành, quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia điều này chỉ khác
nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở quy mô doanh nghiệp hay quốc gia mà thôi.
Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi
nhuận trên cơ sở cạnh tranh Quốc gia hay Quốc tế, thì đối với một Quốc gia mục
tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
Qua những quan điểm của các lý thuyết cạnh tranh trên cho thấy: cạnh tranh
không phải là sự triệt tiêu lẫn nhau của các chủ thể tham gia, mà cạnh tranh là động
lực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh góp phần cho sự tiến bộ của
khoa học, cạnh tranh giúp cho các chủ thể tham gia biết quý trọng hơn những cơ hội
và lợi thế mà mình có được, cạnh tranh mang lại sự phồn thịnh cho đất nước. Thông
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
qua cạnh tranh, các chủ thể xác định cho mình những điểm mạnh, điểm yếu cùng
với những cơ hội và thách thức trước mắt và trong tương lai, để từ đó có những
hướng đi có lợi nhất cho mình khi tham gia vào quá trình cạnh tranh. Mục đích cuối
cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận và với người tiêu dùng là tiện ích tiêu dùng.
1.1.1.2. Các loại hình cạnh tranh:
Có nhiều hình thức được dùng để phân loại các loại hình cạnh tranh như: căn
cứ vào chủ thể tham gia, phạm vi ngành kinh tế và tính chất của cạnh tranh.
Căn cứ chủ thể tham gia:
Cạnh tranh giữa người mua và người bán: do sự đối lập nhau của hai chủ
thể tham gia giao dịch để xác định giá cả của hàng hóa cần giao dịch, sự cạnh tranh
này diễn ra theo qui luật “mua rẻ, bán đắt” và giá cả của hàng hóa được hình thành.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: sự cạnh tranh này hình thành
trên quan hệ cung - cầu. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này chỉ xảy ra trong điều kiện
cung của một hàng hóa dịch vụ có chất lượng ít hơn nhu cầu của thị trường.
Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Đây có lẽ là hình thức tồn tại nhiều
nhất trên thị trường với tính chất gây go và khốc liệt. Cạnh tranh này có ý nghĩa
sống còn đối với doanh nghiệp nhằm chiếm lĩnh thị phần và thu hút khách hàng.
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Đây là hình thức cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hóa hoặc
dịch vụ nào đó, trong đó các đối thủ luôn tìm cách thôn tính lẫn nhau, giành giật
khách hàng về phía mình, chiếm lĩnh thị trường. Biện pháp cạnh tranh chủ yếu của
hình thức này là cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng
suất lao động, giảm chi phí. Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành làm cho kỹ thuật
phát triển, điều kiện sản xuất trong một ngành thay đổi, giá trị hàng hóa được xác
định lại, tỷ suất sinh lời giảm xuống và sẽ làm cho một số doanh nghiệp thành công
và một số khác phá sản, hoặc sáp nhập.
Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khác
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
nhau trong nền kinh tế nhằm tìm kiếm mức sinh lợi cao nhất, sự cạnh tranh này hình
thành nên tỷ suất sinh lời bình quân cho tất cả mọi ngành thông qua sự chuyển dịch
của các ngành với nhau.
Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh trên thị trường thì cạnh tranh gồm có
cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mà ở đó không có người sản
xuất hay người tiêu dùng nào có quyền hay khả năng khống chế thị trường, làm ảnh
hưởng đến giá cả. Cạnh tranh hoàn hảo được mô tả: Tất cả các hàng hóa trao đổi
được coi là giống nhau; tất cả những người bán và người mua đều có hiểu biết đầy
đủ về các thông tin liên quan đến việc mua bán, trao đổi; không có gì cản trở việc
gia nhập hay rút khỏi thị trường của người mua hay người bán. Để chiến thắng
trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp phải tự tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành
hoặc tạo nên sự khác biệt về sản phẩm của mình so với các đối thủ khác.
Cạnh tranh không hoàn hảo: là một dạng cạnh tranh trong thị trường khi
các điều kiện cần thiết cho việc cạnh tranh hoàn hảo không được thỏa mãn. Các loại
cạnh tranh không hoàn hảo gồm: Độc quyền; Độc quyền nhóm; Cạnh tranh độc
quyền; Độc quyền mua; Độc quyền nhóm mua. Trong thị trường cũng có thể xảy ra
cạnh tranh không hoàn hảo do những người bán hoặc người mua thiếu các thông tin
về giá cả các loại hàng hóa được trao đổi.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số
kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng sản phẩm
để khai thác các cơ hội trên thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực canh tranh của
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đấy là các
yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… một cách riêng biệt
mà còn phải đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động trên cùng lĩnh
vực, cùng một thị trường.
Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với
ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường.
Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần
mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh,…
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e chưa đủ, bởi trong
điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực
tế chứng minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên
trong yếu nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như
hiện nay.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng
thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp
dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và
cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn các công ty đối thủ về doanh
thu, thị phần, khả năng sinh lời và đạt được thông qua các hành vi chiến lược, được
định nghĩa như là một tập hợp các hành động tiến hành để tác động tới môi trường
nhờ đó làm tăng lợi nhuận công ty, cũng như bằng những công cụ Marketing khác.
Nó cũng đạt được thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà sự sáng tạo sản
phẩm là những khía cạnh rất quan trọng của quá trình cạnh tranh.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam có đặc trưng
chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các điều kiện về vốn, năng lực công nghệ
và thị trường vẫn còn thấp, điều này đã cản trở nhiều cơ hội kinh doanh của các
doanh nghiệp. Nhưng mặt khác, đối với các doanh nghiệp nhỏ khi môi trường kinh
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
doanh mở cửa tính đa dạng của nhu cầu cũng tạo ra nhiều nhóm khách hàng có nhu
cầu tại chỗ riêng biệt để chuyển đổi, hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
có tính linh hoạt cao, dễ thích nghi với các điều kiện kinh tế chính trị thay đổi. Như
vậy, bên cạnh những mặt hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể phát huy
những lợi thế về tính độc đáo đơn nhất và đáp ứng các nhu cầu tại địa phương mình.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp khai khoáng:
1.1.3.1. Chất lượng sản phẩm:
Trên thị trường nếu nhiều sản phẩm có cùng công dụng giá cả tương đương
nhau, dễ thay thế cho nhau thì người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền mua sản phẩm có
chất lượng cao hơn. Hơn nữa khi đời sống của người dân càng cao thì việc cải thiện
chất lượng sản phẩm càng trở nên cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp. Do đó đây là
công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
khai khoáng nói riêng sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh. Bởi nâng cao chất
lượng sản phẩm dẫn tới tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, kéo dài chu kì sống của sản
phẩm, tăng uy tín và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm phụ
thuộc vào các yếu tố: Kĩ thuật, công nghệ, trình độ tay nghề lao động, nguyên vật
liệu, trình độ quản lý, tâm huyết của con người.
1.1.3.2. Giá:
Giá cả sản phẩm quyết định tới khả năng sinh lời và thị phần của doanh
nghiệp khai khoáng. Cạnh tranh bằng giá thường thể hiện thông qua: Kinh doanh
với mức chi phí thấp, bán với mức giá hạ. Muốn kinh doanh với chi phí thấp, doanh
nghiệp phải có những biện pháp hữu hiệu trong việc giảm chi phí đầu vào, tăng khả
năng sinh lời của vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu đầu vào.
Cách khác là bán với mức giá hạ, đây là phương thức cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ
thực hiện trong cạnh tranh bởi giá hạ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh
nghiệp, khi thu nhập của đại đa số người dân tăng lên thì việc sử dụng mức giá
giảm chưa phải là biện pháp hữu hiệu, đôi khi còn bị đánh đồng giá rẻ đồng nghĩa
với chất lượng kém. Vì vậy khi sử dụng biện pháp này cần kết hợp linh hoạt với chu
kì sống của sản phẩm.
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
1.1.3.3. Cạnh tranh về phân phối và bán hàng:
Thể hiện qua các nội dung chủ yếu như: Đa dạng hóa kênh phân phối và
chọn được kênh chủ lực, hệ thống bán hàng phong phú, dịch vụ bán hàng và hậu
mãi hợp lý; kết hợp hợp lý giữa phương thức bán với phương thức thanh toán.
Mạng lưới chi nhánh và kho là công cụ cạnh tranh về kênh phân phối của
doanh nghiệp. Mạng lưới chi nhánh cho phép doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc
tiếp cận với khách hàng, mở rộng khách hàng và giảm bớt chi phí vận chuyển lưu
kho. Việc xem xét mở rộng hay thu hẹp mạng lưới chi nhánh, kho bãi, cửa hàng tùy
thuộc vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở nghiên cứu về cầu thị
trường và triển vọng phát triển tại khu vực.
Bên cạnh đó, để bán hàng có hiệu quả, doanh nghiệp cần phát triển quảng
cáo, phát triển mối quan hệ khách hàng, vì đó là công cụ trực tiếp tác động đến
doanh số tiêu thụ sản phẩm và tạo lập mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Đối
với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khoáng sản, việc duy trì khách hàng
truyền thống có ý nghĩa quan trọng do đó vấn đề quan hệ khách hàng giành được
nhiều sự quan tâm từ phía doanh nghiệp.
1.1.3.4. Kế hoạch đầu tư đúng đắn:
Ngoài các công cụ kể trên, một công cụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khoáng sản là kế
hoạch đầu tư đúng đắn. Nếu doanh nghiệp có các kế hoạch đúng đắn về đầu tư cho
máy móc thiết bị công nghệ, đầu tư nguồn nhân lực, đầu tư Marketing… thì hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp sẽ tăng và nâng cao được hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4. Chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh:
1.1.4.1. Thị phần của công ty:
Thị phần của một công ty cho biết khả năng chiếm giữ thị trường của công ty
đó, cụ thể thông qua tỷ lệ phần trăm của từng công ty so với tổng thể. Để tồn tại và
duy trì tốt năng lực cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm cách chiếm
lĩnh thị phần, mở rộng quy mô tiêu thụ hàng hoá. Thông qua thị phần ta đánh giá
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
được hiệu quả của việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vì suy cho cùng thì
mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thương mại nói chung và công
ty về ngành khai khoáng nói riêng là thu hút được nhiều khách hàng tiêu thụ sản
phẩm của mình.
1.1.4.2. Năng lực tài chính:
Để cạnh tranh có hiệu quả, vấn đề năng lực tài chính của công ty có tính chất
rất quan trọng, một công ty có năng lực cạnh tranh cao là một công ty có quy mô
lớn về vốn đầu tư và vốn kinh doanh. Một quy mô vốn lớn là nền tảng đảm bảo cho
công ty tiến hành các hoạt động hướng tới lợi nhuận cao nhất, mở rộng thêm các
lĩnh vực hoạt động và đầu tư được công nghệ tiên tiến góp phần nâng cao chất
lượng sản phẩm. Khi một công ty tham gia vào một thị trường nào đó với quy mô
nhỏ thì phải chấp nhận bất lợi về khả năng tài chính, do vậy rất khó có thể cạnh
tranh với các đối thủ khác.
Một số chỉ tiêu năng lực tài chính:
- Lượng vốn điều lệ
- Lượng vốn chủ sở hữu
- Tổng tài sản ngắn hạn, dài hạn
- Tổng thuế phí nộp ngân sách nhà nước
- Tổng sản lượng
- Tổng doanh thu,…
1.1.4.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Cơ sở vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
công ty. Một công ty có trang thiết bị tiên tiến, công nghệ hiện đại có thể đảm bảo
đáp ứng yêu cầu tốt nhất cho khách hàng và bên cạnh đó nâng cao năng suất sản
xuất thành phẩm do đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các công ty đối thủ.
Một số chỉ tiêu đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật:
- Nguồn gốc công nghệ, thiết bị
- Năng suất máy
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Mức khấu hao máy,…
- Ngoài ra, còn có một số chỉ tiêu về tổ chức quản lý sản xuất liên quan
đến vận hành máy móc thiết bị như: Trình độ vận hành, trình độ tổ chức chuyên
môn hóa,…
1.1.4.4. Nguồn nhân lực:
Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển, con người cũng
chính là chủ thể của mọi quá trình lao động sản xuất. Vì thế mà con người chính là
nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty. Một công
ty có lực lượng lao động dồi dào, chất lượng cao sẽ là một trong những thế mạnh
lớn, nhờ đó mà công ty có thể gặt hái được rất nhiều thành công.
Các chỉ tiêu nguồn nhân lực bao gồm:
- Số lượng cán bộ nhân viên.
- Số lượng cán bộ nhân viên có trình độ đại học và trên đại học.
- Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý cao cấp của công ty…
1.1.4.5. Thương hiệu và uy tín của công ty:
Thương hiệu cũng như uy tín của công ty là tài sản vô cùng quý giá của công
ty bởi thương hiệu, uy tín được hình thành không phải trong một chốc, một lát mà là
cả một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn
của mình. Khách hàng luôn có xu hướng lựa chọn những công ty uy tín, có kinh
nghiệm hoạt động lâu năm trên thị trường. Đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông
tin phát triển một thương hiệu uy tín luôn tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn cho công ty.
Một thương hiệu lớn cũng đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
1.1.4.6. Số lượng, chất lượng sản phẩm và dịch vụ của công ty:
Yếu tố quyết định cho việc khách hàng có sử dụng nhiều sản phẩm của công
ty hay không chính là chất lượng sản phẩm và dịch vụ của công ty, nhất là công ty
hoạt động trên lĩnh vực sản xuất và kinh doanh khoáng sản. Khoáng sản chất lượng
phải đi kèm với giá cả hợp lý và dịch vụ khuyến mãi có khả năng cạnh tranh với
doanh nghiệp khác. Vì vậy chất lượng sản phẩm dịch vụ đóng vai trò quyết định tới
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
sự tồn tại, phát triển và năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường.
1.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp:
1.2.1. Sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh:
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ
ra. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản vật chất, tài sản tài chính,
tài sản trí tuệ… và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn.
Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì những khoản đầu tư này thể hiện:
- Đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc, thiết bị hiện đại.
- Đầu tư cho đào tạo, tuyển dụng nhân viên có trình độ.
- Đầu tư cho hoạt động marketing, phát triển thương hiệu.
- Đầu tư cho công tác quản lý.
Doanh nghiệp có hoạt động đầu tư hợp lý sẽ làm tăng năng lực của doanh
nghiệp, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đồng
thời năng lực cạnh tranh cũng có tác động trở lại hoạt động đầu tư. Khi sức cạnh
tranh của doanh nghiệp tăng lên, thị phần tăng kéo theo doanh thu và lợi nhuận của
doanh nghiệp tăng, như vậy doanh nghiệp sẽ có nhiều tiền hơn để tái đầu tư.
Có thể nói đầu tư và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ
qua lại mật thiết với nhau. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược đầu tư
hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Như
vậy, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một bộ phận của đầu tư phát triển.
1.2.2. Mối quan hệ giữa đầu tư với việc nâng cao năng lực cạnh tranh:
Như phân tích ở trên cho thấy đầu tư và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.2.2.1. Đầu tư có tác động quyết định làm biến đổi năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp:
Trên cơ sở nguồn vốn đầu tư vào một số lĩnh vực còn yếu kém sẽ giúp doanh
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
nghiệp khắc phục được các khuyết điểm, đồng thời quá trình đầu tư sẽ tạo ra những
năng lực cạnh tranh mới còn đang ở dạng tiềm ẩn.
Sự đầu tư vốn có trọng tâm, trọng điểm dựa trên năng lực thực tế và thế
mạnh sẵn có sẽ giúp doanh nghiệp có phương hướng đầu tư đúng đắn, cắt giảm
gánh nặng về chi phí của việc đầu tư dàn trải trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Từ
đó, doanh nghiệp phát huy được những lợi thế trong cạnh tranh.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải luôn có những điều chỉnh để
thích nghi với những thay đổi của môi trường bên ngoài và theo kịp đối thủ cạnh
tranh. Lúc này, nguồn vốn đầu tư đóng vai trò cực kì quan trọng giúp cho doanh
nghiệp có thể kịp thời tiến hành được những thay đổi về chiến lược cạnh tranh, kinh
doanh phù hợp, giảm thiểu chi phí và rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận.
Tóm lại, đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hướng tới mục tiêu là sự
phát triển bền vững của doanh nghiệp và các lợi ích khác của Quốc gia.
1.2.2.2. Năng lực cạnh tranh có tác động trở lại đến hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp:
Doanh nghiệp có sức cạnh tranh càng mạnh thì khả năng chiếm lĩnh thị phần
càng cao, kéo theo doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng thêm, từ đó
có thêm nguồn vốn để tái đầu tư và đầu tư thêm.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong từng giai đoạn sẽ ảnh hưởng
đến cơ cấu đầu tư. Khả năng và vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
cao hay thấp sẽ ảnh hưởng đến việc nên đầu tư nhiều hay ít; đầu tư vào lĩnh vực
nào; và đầu tư bao nhiêu để phát huy được thế mạnh, nâng cao sức cạnh tranh.
Dựa trên việc đánh giá năng lực cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện
mặt mạnh cũng như điểm yếu kém còn tồn tại để đánh giá hoạt động đầu tư trong
hiện tại có hiệu quả hay không. Từ đó sẽ chuyển đổi và phân bố lại các nguồn lực từ
nơi đầu tư hiệu quả thấp đến nơi đầu tư có hiệu quả cao hơn, góp phần giải quyết tối
ưu nhất bài toán cạnh tranh.
1.3. Các nhân tố tác động đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh:
Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chịu sự
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tác động của nhiều nhân tố. Để doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và cạnh
tranh được với các doanh nghiệp khác, cần phải xác định các nhân tố gây ảnh
hưởng và từng bước khắc phục nó. Các nhân tố gây ảnh hưởng đó được chia thành
2 nhóm chính đó là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan.
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan:
- Khả năng tài chính và tình hình huy động vốn là một trong những nhân tố
then chốt quyết định khối lượng đầu tư. Khả năng tài chính mạnh sẽ giúp doanh
nghiệp tăng cường hoạt động đầu tư hợp lý từ đó nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Năng lực tài chính lớn, ổn định cho phép doanh
nghiệp đối phó với các rủi ro của môi trường tốt hơn, cũng như giúp doanh nghiệp
có khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay tốt hơn các doanh nghiệp có năng lực tài
chính không ổn định.
- Năng lực kỹ thuật, máy móc thiết bị cũng như mức độ hiện đại của nó là yếu
tố quyết định đến chủng loại, chất lượng sản phẩm, chất lượng công trình, năng suất
lao động và hiệu quả đầu tư. Một công nghệ tiên tiến sẽ là một lợi thế cạnh tranh
lớn của doanh nghiệp, nó quyết định đến chi phí và chất lượng sản phẩm. Công
nghệ càng tiên tiến, hiện đại thì càng tạo ra sức cạnh tranh lớn. Ngày nay, do nhu
cầu của người tiêu dùng thay đổi rất nhanh, các tiến bộ khoa học công nghệ không
ngừng được cải tiến vì vậy nếu doanh nghiệp không có khả năng đổi mới công nghệ
thì không thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường dẫn tới sức cạnh tranh giảm,
thậm chí không thể tồn tại. Vì vậy, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cũng bao
hàm đầu tư để nâng cao năng lực máy móc thiết bị.
- Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất. Con người
với khả năng sáng tạo vô tận là nguồn lực duy nhất có thể điều khiển mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh, mọi giai đoạn của hoạt động đầu tư. Nhân tố con người cũng
ảnh hưởng đến khả năng khai thác và vận hành các loại máy móc thiết bị phục vụ
cho sản xuất, do đó ảnh hưởng tới khâu sản xuất sản phẩm và ảnh hưởng đến uy tín
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hay có thể nói, nhân sự ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả đầu tư nói riêng. Đầu tư nâng cao
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
năng lực con người là một nội dung quan trọng trong đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh. Chính vì thế, công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương rất
chú trọng nhân tố này khi thực hiện hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình.
- Một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức tốt, hợp lý, phân công rõ trách nhiệm
quyền hạn sẽ hoạt động tốt, năng suất cao.Việc lựa chọn được mô hình tổ chức hợp
lý với doanh nghiệp sẽ giảm chi phí, tăng hiệu quả, thu hút được các nguồn lực có
chất lượng. Đội ngũ quản lý tài giỏi, đủ đức đủ tài sẽ là người cầm lái doanh nghiệp
đạt được mục tiêu, đem lại kết quả và hiệu quả từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh hiệu quả thể hiện ở việc đầu tư vào
đúng thị trường, đúng đối tượng, đúng hàng hóa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng,
như vậy mới có thể tồn tại trên thị trường. Ngoài ra, chiến lược hiệu quả của doanh
nghiệp còn thể hiện qua việc lường trước các xu hướng của thị trường, đi đầu trong
các lĩnh vực khai thác có tiềm năng, đề ra các biện pháp thích ứng được với sự thay
đổi của thị trường.
- Hệ thống phân phối kinh doanh hợp lý có tác động rất lớn tới các chỉ tiêu
hiệu quả của doanh nghiệp. Nếu không có hệ thống phân phối tốt, việc tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, sản phẩm khó tiếp cận tới tay người
tiêu dùng, đồng thời việc phản hồi thông tin từ phía khách hàng là hạn chế.
1.3.2. Nhóm nhân tố khách quan:
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, nhưng bên cạnh đó, những nhân tố
khách quan cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình này.
- Chính sách kinh tế vĩ mô: Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ điều
tiết cả nền kinh tế và tạo ra môi trường phát triển cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi trong chính sách vĩ mô tác động đến doanh
nghiệp nói chung và hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nói riêng. Khi chính
phủ thực hiện các chính sách kích cầu nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển kinh
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tế thì đó là cơ hội thuận lợi cho hoạt động đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trái lại khi chính phủ thực hiện các chính sách kiềm
chế lạm phát và ổn định môi trường vĩ mô thì việc thu hẹp sản xuất kinh doanh là
cần thiết. Doanh nghiệp phải nắm bắt được các chính sách kinh tế vĩ mô của chính
phủ để xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển phù hợp và bền vững.
- Khách hàng là yếu tố quan trọng có tác động rất lớn tới chiến lược đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vì khách hàng chính là nguồn thu
của doanh nghiệp. Khách hàng còn là nhân tố quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp. Một trong những mục tiêu then chốt của doanh nghiệp trong quá trình phát
triển là mở rộng thị phần. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải
không ngừng nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu
thị hiếu của khách hàng là yếu tố cần tính đến trong quá trình hoạch định kinh
doanh và chiến lược đầu tư. Nếu xây dựng chiến lược đầu tư mà không xem xét đến
thị hiếu, nhu cầu của khách hàng, thị trường thì chiến lược đầu tư đó sẽ không hiệu
quả, rất có thể doanh nghiệp sẽ làm ăn thua lỗ.
- Các nhà cung cấp, nguồn cung: Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với yếu
tố đầu vào cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Đó là nguyên vật liệu, thiết bị, nhân
công, vốn. Các nhà cung cấp có thể gây áp lực cho doanh nghiệp như: ép giá, giao
hàng không đúng hạn, không đúng số lượng chủng loại, ảnh hưởng đến kế hoạch
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, mối quan hệ của công ty với các nhà
cung cấp cũng là yếu tố rất quan trọng. Nếu doanh nghiệp tạo dựng được lòng tin
với các nhà cung cấp, có mối quan hệ làm ăn tốt với họ thì có thể mua nợ được
hàng, giảm bớt gánh nặng tài chính trong ngắn hạn của công ty.
- Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp: Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường
công ty cũng cần quan tâm đến yếu tố đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này
đòi hỏi công ty phải xem xét đến tình hình thực tế năng lực cạnh tranh của cả mình
và các đối thủ cạnh tranh, xác định thị phần và dự đoán tình hình kinh doanh trong
tương lai để chọn phương thức đầu tư hợp lý, tạo ra lợi thế riêng cho doanh nghiệp
mình so với doanh nghiệp khác, có như thế mới giành ưu thế về mình trong cuộc
cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN KHAI THÁC, CHẾ BIẾN KHOÁNG SẢN
HẢI DƯƠNG
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải
Dương:
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty:
Tên công ty : Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương
Tên giao dịch: Hai Duong Mineral Exploiting Processing Joint Stock Company
Tên viết tắt: HAMICO
Địa chỉ : Thị trấn Phú Thứ - huyện Kinh Môn - tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 03203821297. – 03203821338.
Fax : 03203821557.
Mã số thuế : 0800282498
Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương nằm trên khu
công nghiệp phát triển khá sôi động với nhiều nhà máy, xí nghiệp : nhà máy xi
măng Hoàng Thạch, công ty xi măng Hải Dương, Công ty xi măng Phúc Sơn, Công
ty xi măng Cường Thịnh, Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải
Dương đã góp một phần lớn cung cấp nguyên liệu cho các Nhà máy xi măng. Đây
là nơi tiêu thụ nhiều sản phẩm nhất mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty.
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển:
Tháng 7 năm 1958 do nhu cầu về vật liệu đá vôi để xây dựng các công trình
cầu đường, đê kè cho công cuộc kiến thiết, phục hồi đất nước nên Mỏ đá vôi Thống
Nhất được thành lập trên cơ sở công trường khai thác đá Trại Sơn, sau đó mở rộng
một số công trường khai thác đá nhỏ ở Kinh Môn là Phúc Sơn, Lỗ Sơn, Duyên Linh
và một phân xưởng sản xuất đá vôi.
Đến ngày 15/09/1994 được thành lập lại theo nghị định số 338 của chính phủ và
theo quyết định số 707/QĐ-UB của UBND tỉnh Hải Hưng cho đến ngay15/08/1997
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
theo quyết định 1973 của UBND tỉnh Hải Dương Mỏ đá vôi Thống Nhất được đổi
tên thành công ty khai thác, chế biến đá và khoáng sản Hải Dương.
Đến ngày 01/08/2003 để thích ứng với hoàn cảnh thực tế của nền kinh tế thị
trường, căn cứ Quyết định số 8682003/QĐ-UB ngày 02/04/2003 của UBND tỉnh
Hải Dương về việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Công ty khai thác, chế
biến đá và khoáng sản Hải Dương chính thức chuyển sang cổ phần hoá và đổi tên
thành Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương.
Những năm đầu thành lập Mỏ đá đã gặp rất nhiều khó khăn, lực lượng lao
động khá đông, trên 2 nghìn lao động nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, trang
thiêt bị lạc hậu, làm bằng thủ công là chính. Trong cơ chế hành chính bao cấp, hoạt
động sản xuất kinh doanh đều thực hiện theo kế hoạch Nhà nước. Tuy vậy với khí
thế thi đua lao động sản xuất theo tinh thần làm chủ tập thể, hàng năm Mỏ đá đều
vượt các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng miền
Bắc XHCN và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay công ty đã đầu tư, lắp đặt dây chuyền sản xuất mới, mua sắm
nhiều trang thiết bị phục vụ sản xuất, chú trọng nâng cao trình độ, năng lực cho đội
ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật đáp ứng nhu cầu chất lượng nhân lực ngày càng
cao.
Đến nay, trải qua 49 năm phấn đấu bền bỉ, không mệt mỏi, Công ty ngày một
trưởng thành, vững vàng trong cơ chế thị trường, được Đảng và Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (1973), 2 Huân chương Lao động hạng Nhì
(1977 và 1997) , Huân chương Lao động hạng Nhất (2003) và nhiều giải thưởng
cao quý khác do Nhà nước trao tặng. Công ty quyết tâm giữ vững vai trò nhiệm vụ
then chốt, là con chim đầu đàn trong ngành khai thác khoáng sản, không chỉ phấn
đấu cho mục tiêu lợi nhuận mà còn tạo công ăn việc làm cho người lao động và thúc
đẩy kinh tế trong khu vực phát triển ngày càng mạnh mẽ.
2.1.2.1. Những thuận lợi của Công ty:
- Tài nguyên thiên nhiên:
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Với ưu thế nằm trên địa bàn có nguồn tài nguyên dồi dào về số lượng, phong
phú về chủng loại, đặc biệt là đá vôi với trữ lượng lớn, Công ty hoàn toàn không lo
lắng về vấn đề nguyên liệu đầu vào.
- Giao thông:
Có thể nói, cơ sở hạ tầng trong khu vực cũng là một lợi thế của Công ty khi
mà bao quanh khu vực là các con sông nối dài đi các tỉnh lân cận. Đường bộ cũng
khá hoàn thiện, các tuyến đường liên tỉnh, liên huyện, liên xã đã được làm mới,
nâng cấp thuận lợi cho các khách hàng đến giao dịch với Công ty và vận chuyển sản
phẩm đến nơi tiêu thụ.
- Nhân tố con người và công nghệ:
Hiện tại, Công ty đang có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực
quản lý, có chuyên môn kỹ thuật và giàu kinh nghiệm. Công nghệ sản xuất tương
đối đồng bộ, các trang thiết bị liên tục được đầu tư, sửa chữa, nâng cấp và mua sắm
mới, đảm bảo không bị tụt hậu về công nghệ.
2.1.2.2. Những khó khăn của Công ty:
Trong những năm còn bao cấp, Công ty là đơn vị có quy mô lớn về lao động.
Hơn nữa, trang thiết bị kỹ thuật còn giản đơn, lao động chủ yếu là lao động thủ
công, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo kế hoạch của Nhà nước. Do vậy, khi xoá
bỏ bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh độc lập tự chủ, số lao động dôi dư
nhiều, quy mô sản xuất bị thu hẹp, thị trường tiêu thụ lại nhỏ lẻ trong khi mức độ
cạnh tranh với khu vực kinh tế tư nhân ngày càng gay gắt, khiến Công ty phải đối
mặt với khá nhiều thách thức: Tinh giảm bộ máy quản lý, cắt giảm công nhân dôi
dư, đổi mới công nghệ…
Điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của
Công ty vì công nhân lao động chủ yếu là thủ công, sự biến đổi thời tiết (mưa, bão,
…) cũng ảnh hưởng tới năng suất lao động của công nhân.
Thị trường đầu ra cũng là vấn đề được Công ty quan tâm: Sức ép từ khách
hàng khi mà có ngày càng nhiều Công ty cũng như hộ cá thể hoạt động trong lĩnh
vực khai thác khoáng sản trong khu vực cung cấp sản phẩm cùng loại với giá cả hợp
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
lý. Khách hàng mua hàng trả chậm, quay vòng vốn kinh doanh chậm, ảnh hưởng tới
kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty:
Loại hình sản xuất của Công ty là khai thác mỏ lộ thiên, chế biến sản phẩm,
khai thác với trữ lượng lớn. Công ty tổ chức sản xuất trên phạm vi lớn về không
gian theo vị trí địa hình của từng mỏ đá vôi và điểm quặng, đất sét; ở mỗi mỏ đá tổ
chức thành một khai trường sản xuất, đội sản xuất.
2.1.3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty :
Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương có các phòng
ban chức năng và các phân xưởng sản xuất, giúp việc cho ban lãnh đạo công ty
trong việc quản lý điều hành mọi hoạt động.
Mỗi phòng ban phân xưởng khi thành lập đều được giao nhiệm vụ nhất định,
nhưng trong quá trình quản lý kinh doanh các chức năng nhiệm vụ được bổ sung
cho nhau và ngày càng hoàn thiện nhằm phát huy tối đa chức năng tham mưu cho
lãnh đạo trong công tác quản lý cũng như trong chuyên môn nghiệp vụ của các
phòng ban.
Công ty cổ phần khai thác, chế biến khoáng sản Hải Dương đã ban hành các
quy định về chức năng nhiệm vụ tổ chức bộ máy hoạt động và mối quan hệ của các
phòng ban, phân xưởng để phát huy tính chủ động linh hoạt sáng tạo trong công
việc, đảm bảo hiệu quả trong điều hành bộ máy quản lý của Công ty.
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Sơ đồ 2.1. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Chú thích:
Quan hệ chỉ đạo trực tiếp
Quan hệ nghiệp vụ
• Chủ tịch hội đồng quản trị
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
22
Đội khai thác
chế biến đá
Áng Dâu
Đội khai thác
chế biến đá
Thống Nhất
Đội khai thác
chế biến đá
Phúc Long
Đội khai thác
chế biến đá
Áng Bát
Đội khai
thác chế
biến đá Tân
Phú
Phòng
kinh
doanh
Phòng
Hành
chính
Phòng tổ
chức lao
động
Phòng
kế hoạch
kỹ thuật
Phòng an
toàn
Phòng
kế toán
tài vụ
PGĐ phụ trách hành chính
tổ chức
PGĐ phụ trách kỹ thuật
Chủ tịch HĐQT
Ban Giám đốc
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Là người chịu trách nhiệm trước Công ty về các kế hoạch, chiến lược kinh
doanh. Có trách nhiệm giám sát, điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty, chức năng định hướng là quan trọng nhất và thực hiện mọi nghĩa vụ với
nhà nước.
• Ban giám đốc
Làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc và phụ trách chung toàn
Công ty về các hoạt động sản xuất kinh doanh.
• Phòng kế toán tài vụ
Chịu trách nhiệm về quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh của Công ty, thực hiện đầy đủ các chế độ báo cáo tài chính và hạch toán kế
toán theo Luật của Nhà nước.
• Phòng kế hoạch kỹ thuật
Với chức năng tham mưu cho Giám đốc trong việc ra các quyết định về đầu
tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị tìm hiểu thị trường, giám sát các đội sản
xuất. Nghiên cứu, thiết kế, kểm tra, sản lượng sản phẩm tìm hiểu nguyên nhân dẫn
đến quá trình sản xuất ra sản phẩm có khối lượng nhiều hay ít để có biện pháp cải
tiến kỹ thuật nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
• Phòng an toàn
Chịu trách nhiệm khâu huấn luyện an toàn lao động theo từng công việc đối
với công nhân và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về mọi chế độ chính sách về bảo
hiểm lao động của công nhân viên chức theo luật định.
• Phòng kinh doanh
Là phòng quan hệ với khách hàng và tiếp thị bán hàng, giới thiệu sản phẩm,
làm các công việc liên quan đến bán hàng như: hợp đồng bán hàng, thanh toán với
khách hàng.
• Phòng tổ chức lao động
Tham mưu cho Giám đốc về công tác tổ chức cán bộ, đào tạo nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân viên đồng thời chịu trách nhiệm về công
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tác quản lý lao động triển khai thực hiện mọi chế độ chính sách của Nhà nước theo
luật định.
• Phòng hành chính
Giám đốc giao nhiệm vụ phụ trách đời sống, y tế, nhà trẻ, văn hoá thể dục
thể thao phát động các phong trào thi đua khen thưởng và các hoạt động của Công
ty.
• Các đội sản xuất
Gồm đội Tân Phú, Thông Nhất, Phúc Long, Áng Bát, Áng Dâu… đây là
những đội sản xuất tham gia trực tiếp vào quá trình khai thác và sản xuất sản phẩm.
Mỗi đội sản xuất bao gồm đội trưởng, đội phó, các an toàn viên, nhân viên kinh tế,
kế toán viên và công nhân sản xuất trực tiếp. Dưới sự chỉ đạo của Giám đốc và
Công ty, các đội sản xuất này sẽ hoạt động và cung cấp số liệu cho công ty.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty đã có nhiều thay đổi và
cải tiến bộ máy quản lý phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty và
phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ chế sản xuất kinh doanh. Với sơ đồ quản lý
bộ máy hiện nay Công ty đã đảm bảo được tính gọn nhẹ tập trung, các phòng ban
được phân công nghiệp vụ rõ ràng, không chồng chéo đảm bảo được tính chủ động
trong sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.1.3.2. Các chủng loại sản phẩm:
Từ việc khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có của tự nhiên, chế biến thành các
loại sản phẩm như sau:
- Đá 300 x 350mm
- Đá 40 x 60mm
- Đá 20 x 40mm
- Đá 10 x 20mm
- Đá 5 x 10mm
- Đá Base
- Mạt
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Đá Subbase
Ngoài ra doanh nghiệp còn có sản phẩm là đất cộn và đá liệu sản xuất xi
măng.
Một số sản phẩm khác cũng do Công ty sản xuất và kinh doanh, bao gồm các
loại đất sét đỏ, sét trắng từ loại chất lượng tốt cho đến loại có chất lượng trung bình
tuỳ thuộc vào nhu cầu và mục đích, thị hiếu của khách hàng mà Công ty phục vụ.
2.1.3.3. Tình hình trang thiết bị kỹ thuật của Công ty :
Ngay từ năm đầu thành lập, Công ty đã rất quan tâm đến trang thiết bị kỹ
thuật, để đảm bảo an toàn sản xuất cho công nhân. Trang thiết bị sản xuất và công
nghệ sản xuất được kết hợp vừa thủ công vừa cơ giới, vừa thô sơ vừa hiện đại.
Trong những năm gần đây Công ty chú trọng đầu tư máy móc thiết bị để tăng năng
suất và chất lượng sản phẩm đáp ứng kịp thời với nhu cầu thị trường hiện nay. Công
ty đã tích cực đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ từ sản xuất đá dăm thủ công
năng suất thấp. Nay thay bằng các dây chuyền nghiền sàng hiện đại với công suất
100 tấn /h. Trong đó có dây chuyền nghiền sàng hiện đại của Italia, 2 máy xúc lật
bánh lốp, 1 máy gạt, ô tô vận tải, nhà xưởng, trạm biến áp 560 KVA, cầu cảng xuất
đá và 6 chiếc cầu rót hàng.
Ở khối văn phòng Công ty còn trang bị máy vi tính, điện thoại, máy điều
hoà, tủ cá nhân cho mỗi nhân viên, Hiệu quả của việc đầu tư trang thiết bị thể hiện
ở năng suất lao động, khối lượng sản phẩm sản xuất gia tăng rõ rệt.
Ngoài ra, Công ty có đội ngũ công nhân kỹ thuật được đào tạo chuyên sâu,
với kinh nghiệm lâu năm nên công tác vận hành các phương tiện, máy móc đảm bảo
đúng kỹ thuật. Mặt khác, tất cả mọi cán bộ công nhân viên và công nhân sản xuất
đều được học tập và huấn luyện chuyên môn nên công tác an toàn được đảm bảo.
Hoàng Thị Nhung Lớp: Đầu tư 49B
25