Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung-dài hạn tại chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.04 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những giải pháp quan trọng để
hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có
thể thực hiện được điều đó nhất thiết phải tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới
công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời có sự nâng cấp, mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế, từ đó tạo nền tảng cho sự phát
triển kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên, với nguồn vốn chủ sở hữu có giới hạn, bản
thân các doanh nghiệp không có khả năng tự tài trợ một lượng vốn lớn cho các dự
1
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
án nên để khắc phục những khó khăn về vốn, họ cần được cung cấp những khoản
vốn vay ngân hàng đặc biệt là vay trung và dài hạn.
Vì vậy, hoạt động cho vay trung và dài hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đó cũng chính là một trong
những hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Những hạn chế,
tồn tại trong hoạt động này cũng là sự quan tâm, lo lắng của không chỉ riêng các
ngân hàng mà còn là một vấn đề chung của nền kinh tế. Bên cạnh sự khuyến khích,
ưu tiên của Nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư trung và dài hạn, cần thiết phải có sự
nghiên cứu, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của các khoản vốn
vay cũng như các hoạt động cho vay trung và dài hạn, trên cơ sở đó nâng cao chất l-
ượng cho vay, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lý Nhân
tỉnh Hà Nam là một đơn vị hoạt động kinh doanh về nội tệ và ngoại tệ, phần lớn các
khoản vay trung và dài hạn ở đây là cho vay nội tệ. Do vậy, trước sự biến động của
nền kinh tế nước ta, Ngân hàng Nông nghiệp huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam cũng đã
gặp phải không ít những khó khăn, vướng mắc và những rủi ro vốn có trong hoạt
động cho vay của mình. Trong quá trình thực tập tại ngân hàng em đã lựa chọn đề
tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung-dài hạn tại chi nhánh Ngân
Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam” làm


khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu của đề tài được chia làm 3 chương:
 Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng và chất lượng tín dụng
trung–dài hạn
 Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng trung-dài hạn tại chi
nhánh NHN
o
& PTNT Lý Nhân.
 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung-dài hạn tại
chi nhánh NHN
o
& PTNT Lý Nhân
2
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN VÀ CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN
1.1 Tín dụng Ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về tín dụng
Ngân hàng bắt nguồn từ việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những
người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm giữ
3
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Hà Nam, ngày 18, tháng 11, năm 2010
Sinh Viên
Nguyễn Tiến Khương
hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì
ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho

những người cần tiền. Là trung gian tài chính, ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội và dùng chính tiền đó cho cá nhân và tổ chức vay lại. Tín dụng là một
trong những hoạt động của ngân hàng, hoạt động này mang lại lợi nhuận lớn cho
ngân hàng.
Thuật ngữ “tín dụng” ra đời cùng với sự xuất hiện tiền tệ. Tín dụng xuất phát
từ chữ la tinh là CREDO (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế tín dụng được hiểu
theo nhiều nghĩa khác nhau:
Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể. Ví dụ trong hoạt động thương mại một công ty bán
hàng trả chậm cho một công ty khác, như vậy người bán đã chuyển giao hàng hóa
cho bên mua và theo thỏa thuận sau một thời gian nhất định bên mua phải trả tiền
cho bên bán. Hoặc giao dịch giữa ngân hàng với các định chế tài chính khác, với
doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay và cũng sau một thời gian
nhất định người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng.
Với chức năng cơ bản của ngân hàng, tín dụng là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính) và bên
đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận,
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán.
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
Quan hệ tín dụng tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, nhưng dù vận
động ở phương thức nào tín dụng đều mang những đặc trưng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Khi xã hội phát triển thì

hình thức cho thuê cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ.
4
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả - người cho vay phải nhận được tài sản sau
một thời gian nhất định từ người đi vay.
Giá trị mà người cho vay nhận được phải lớn hơn giá trị ban đầu mà họ cho vay.
Chênh lệch này chính là giá nhận được do việc chuyển nhượng quyền sử dụng vốn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn
trả vô điều kiện hay quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể là do uy tín của người đi vay, do
giá trị tài sản thế chấp hoặc do sự bảo lãnh của người thứ ba.
1.1.3 Vai trò của tín dụng
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế:
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Từ nguồn
vốn đó, các chủ thể mở rộng hoạt động kinh doanh, đưa tiền vào nền kinh tế đẩy
mạnh sản xuất và tiêu dùng-hai mắt xích quan trọng của quá trình tái sản xuất và
như thế tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy sản xuất phát triển.
Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu
đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho
các chủ thể kinh doanh.
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ
động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi
nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này
giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực
sản xuất của xã hội.
Khi nền kinh tế có những thay đổi, thông qua việc điều chỉnh các điều kiện
tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động

của nguồn vốn tín dụng nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về
quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín
dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác.
1.1.3.2 Đối với các tổ chức tín dụng.
Ngày nay, mặc dù các ngân hàng đã mở rộng các hoạt động như tư vấn, bảo
lãnh…nhưng hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động
của ngân hàng và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng đó. Bản thân
5
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chệnh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.1.4 Phân loại tín dụng
1.1.4.1 Phân loại theo mục đích vay vốn
Theo căn cứ này thì tín dụng được chia ra các loại sau:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản như nhà ở, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp , thương mại
và dịch vụ. Đối với loại hình cho vay này ngân hàng được đảm bảo bằng chính tài
sản thực: đất đai, nhà cửa và các công trình khác.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống vật nuôi cây trồng cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động, nhiên liệu.
- Cho vay các định chế tài chính: là việc cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các
định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân như nhà ở, ô tô và các vật dùng thiết yếu khác.

- Cho thuê: bao gồm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho
thuê bao gồm bất động sản và động sản mà chủ yếu là máy móc, thiết bị. Đây là
nghiệp vụ mà ngân hàng đảm nhận việc thanh toán tiền mua máy móc, thiết bị và
giữ quyền sở hữu máy móc, thiết bị đó còn người đi thuê được quyền lựa chọn thiết
bị phù hợp với nhu cầu kinh doanh và lắp đặt tại nơi tiến hành hoạt động kinh
doanh của mình trong suốt thời gian thuê. Kết thúc hợp đồng thuê, ngân hàng sẽ
nhận được tiền từ người đi thuê, bên đi thuê có thể mua lại tài sản đó theo giá bán
được định trước khi kí kết hợp đồng thuê.
1.1.4.2 Phân loại theo mục đích tín nhiệm: tín dụng gồm có hai loại
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở bảo đảm như thế chấp
hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy
tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Sự bảo đảm
này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn
nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
6
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay này dựa trên uy tín của khách
hàng. Với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cho vay mà không cần nguồn thu
nợ bổ sung.
1.1.4.3 Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này tín dụng chia làm hai loại
- Cho vay trực tiếp: đây là việc ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu
cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Loại
cho vay này gồm có chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng và nghiệp
vụ bao thanh toán.

1.1.4.4 Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Gồm có cho vay có thời hạn và cho vay không có thời hạn cụ thể
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Loại cho vay này gồm các loại sau:
 Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ là loại cho vay thanh toán một lần theo
thời hạn đã thỏa thuận.
 Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ cụ thể (cho vay trả góp) là loại cho vay mà
khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kì.
 Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn nợ cụ thể, việc trả
nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Với loại cho vay này khách
hàng có thể trả nợ trước hạn, nhưng ngân hàng được quyền thu lãi toàn bộ kì hạn trả
nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi
vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lí, thời
gian này có thể thỏa thuận trong hợp đồng.
1.1.4.5 Phân loại theo thời hạn cho vay: gồm ba loại
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng, được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 60 tháng.
7
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
1.2 Tín dụng trung – dài hạn
1.2.1 Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng trung-dài hạn là các khoản cho vay có thời gian trên 1 năm, nhưng
không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay. Việc
phân chia cụ thể tín dụng trung-dài hạn tuỳ thuộc vào qui định của mỗi quốc gia.
Theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các khoản tín dụng

có thời gian từ trên 1-5 năm được gọi là tín dụng trung hạn. Các khoản trên 5 năm
được gọi là tín dụng dài hạn. Đối tượng tín dụng trung dài hạn rất đa dạng, phong
phú. Ngân hàng có thể cho vay nhiều đối tượng khác nhau mà pháp luật không cấm.
Trong tín dụng trung-dài hạn là các công trình, hạng mục dự án đầu tư, mua
sắm tài sản cố định nâng cấp hạ tầng cơ sở của các đơn vị kinh tế, nhà nước hay cá
nhân có luận chứng kinh tế tốt, xác thực có tính khả thi cao, những khoản cho vay
dài hạn thường được thực hiện cho vay với khách hàng là doanh nghiệp nhà nước
để đầu tư những dự án lớn công trình trọng điểm quốc gia, những dự án quy mô lớn
như nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện công trình giao thông, cơ sở hạ tầng hay lĩnh vực
mũi nhọn nền kinh tế. Các khoản tín dụng dài hạn thường được áp dụng phương
pháp giải ngân và trả nợ nhiều lần.
1.2.2 Vai trò tín dụng trung–dài hạn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Thứ nhất: Vốn trung và dài hạn tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng
của thị trường vốn ngắn hạn do những khoản trung và dài hạn đã thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, tạo năng lực sản xuất mới với chu kỳ ngắn hơn. Do đó, những
yêu cầu về các khoản vốn vay ngắn hạn cho việc đảm bảo vốn lưu động như mua
sắm nguyên vật liệu, tiền lương tăng lên. Đồng thời các khoản thu nhập tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất cũng tăng lên, chu kỳ sản xuất ngắn lại làm cho
chu kỳ các khoản phải thu cũng ngắn lại. Đây là những cơ sở cần thiết để thị trường
vốn ngắn hạn được mở rộng, đáp ứng nguồn vốn lưu động cho các thành phần kinh
tế, mở rộng và nâng cao quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Hoạt động tín dụng trung-dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan
hệ kinh tế đối ngoại: trong điều kiện hiện nay, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
luôn gắn liền với thị trường thế giới. Các hoạt động tín dụng trung-dài hạn đã trở
thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau bằng các kinh
doanh cho vay quốc tế như: các hình thức giữa các chính phủ, giữa các cá nhân với
8
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD

chính phủ, giữa cá nhân với cá nhân, các hình thức tài trợ, cho vay không hoàn lại
của chính phủ các nước.
Thứ ba: Tín dụng trung-dài hạn là hình thức đầu tư chiều sâu, là hình thức
cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất mua sắm tài sản cố định, cải
tiến và đổi mới kỹ thuật hoặc chuyển giao công nghệ. Trên cơ sở đó, các doanh
nghiệp, các hộ sản xuất có điều kiện tái đầu tư, mở rộng sản xuất, nhất là đầu tư mở
rộng phát triển kinh tế. Hơn nữa, những khoản vay trung và dài hạn tạo động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh
bằng các hình thức tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Được sự
hỗ trợ nguồn vốn trung-dài hạn, không những doanh nghiệp sẽ đứng vững, củng cố
vị trí trên thị trường truyền thống mà còn dựa vào thế mạnh đó mở rộng thị trường
mới, hạn chế rủi ro và tăng thu nhập.
Thứ tư: Khoản tín dụng trung-dài hạn đã góp phần làm tăng lợi nhuận, tạo
cơ sở mở rộng phạm vi kinh doanh và làm tăng trưởng nguồn vốn cho mỗi Ngân
hàng. Chính vì vậy, mặc dù những khoản tín dụng trung-dài hạn thường gặp nhiều
rủi ro hơn nhưng vẫn là hoạt động đem lại nguồn lợi nhuận trước mắt và lâu dài lớn
nhất, đảm bảo thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mỗi ngân hàng.
1.2.3 Các loại tín dụng trung–dài hạn.
- Cho vay theo dự án đầu tư
Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét khẳng
định tính hiệu quả, tính khả thi của dự án đó. Do vậy, công việc của ngân hàng
không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn thẩm định lại các vấn đề: chi phí sản xuất,
giá thành thị trường tiêu thụ, quy trình công nghệ. Bởi vì việc quyết định cấp một
khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay một khoảng thời gian dài tùy
theo từng dự án cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kĩ
các rủi ro xảy ra. Hình thức cho vay theo dự án gồm:
 Tín dụng hợp vốn (cho vay đồng tài trợ)
Cho vay đồng tài trợ là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng cho
một dự án do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để
thực hiện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
Quan hệ tín dụng dưới hình thức đồng tài trợ gồm hai bên tham gia: bên
đồng tài trợ và bên nhận tài trợ.
9
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Bên đồng tài trợ: tối thiểu phải có từ hai ngân hàng thành viên trở lên, mỗi
ngân hàng thành viên là một tổ chức tín dụng hoặc nhiều khi cũng có thể là một chi
nhánh của một tổ chức tín dụng được ủy quyền. Các ngân hàng thành viên sẽ bàn
bạc cùng nhau chọn ra một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Nhìn chung mọi quan hệ
về tín dụng giữa bên đồng tài trợ và bên nhận tài trợ đều được thông qua tổ chức tín
dụng làm đầu mối.
Bên nhận tài trợ: thường là một pháp nhân hoặc cá nhân có nhu cầu vay vốn
đầu tư cho dự án.
 Tín dụng trực tiếp
Đây là hình thức tín dụng trung–dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Ngân hàng tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với từng dự
án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ. Thực tế cho thấy việc lựa
chọn dự án tốt là yếu tố quyết định nhất của hình thức tín dụng này.
 Tín dụng tuần hoàn
Tín dụng tuần hoàn được coi là tín dụng trung–dài hạn khi thời hạn của hợp
đồng kéo dài từ một đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi
có nguồn, trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Trong các doanh nghiệp cổ phần khi có nhu cầu về vốn trung–dài hạn, doanh
nghiệp có thể gia tăng việc phát hành cổ phiếu, nhưng cũng có thể vay ngân hàng
dưới hình thức tín dụng tuần hoàn, sau đó sử dụng phần lợi nhuận tính trả cho cổ
đông để trả nợ, đồng thời tăng vốn góp của cổ đông lên. Thực chất đây là một hình
thức cải biến cơ cấu tài chính của doanh nghiệp, chuyển nợ vay ngân hàng thành
vốn trung–dài hạn.
Doanh nghiệp vay vốn cũng có thể yêu cầu ngân hàng chuyển tín dụng tuần

hoàn thành tín dụng trung–dài hạn và thậm chí có thể ra hạn kéo dài nhiều năm với
điều kiện có tài khoản đảm bảo cho khoản vay một cách chắc chắn. Việc chuyển đổi
này thường được diễn ra vào cuối giai đoạn của hợp đồng và điều đó còn phụ thuộc
vào mức độ hợp đồng và tình hình tài chính của khách hàng vay vốn.
- Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là một kiểu cho thuê tài sản để sử dụng. Tài sản cho thuê
gồm động sản và bất động sản như nhà cửa, máy móc, thiết bị văn phòng.
Đối với người cho thuê (ngân hàng): đa dạng hóa việc sử dụng vốn, mở rộng
dạng khách hàng, tăng thêm sản phẩm ngân hàng, giảm mức độ rủi ro so với cấp tín
dụng hoặc bảo lãnh. Vì trong thời gian cho thuê, ngân hàng vẫn có quyền sở hữu
10
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
pháp lí đối với thiết bị thuê nên ngân hàng có khả năng nhanh chóng lấy lại thiết bị
nếu người đi thuê không tuân thủ theo hợp đồng thuê. Tín dụng thuê mua bảo đảm
sử dụng đúng đắn số vốn tài trợ, tỉ lệ sử dụng vốn cao.
Đối với người đi thuê: người đi thuê không phải bỏ ngay một số tiền để mua
sắm thiết bị nhưng vẫn có thiết bị sử dụng, có thể tiếp cận được công nghệ tiên tiến
đồng thời hạn chế được sự lỗi thời nhanh chóng của thiết bị. Mô hình tín dụng thuê
mua có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển đất nước, tạo điều kiện giúp đỡ những
doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể thuê được máy móc, thiết bị hiện đại,
thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
1.2.4 Nội dung nghiệp vụ tín dụng trung–dài hạn
Khi khách hàng có nhu cầu được cấp tín dụng trước hết ngân hàng tiếp nhận
hồ sơ sau đó tiến hành thẩm định dự án mà khách hàng có nhu cầu vay. Việc thẩm
định này là cơ sở để quyết định nên hay không nên cấp vốn cho khách hàng. Sau
khi quyết định cho vay, ngân hàng và khách hàng ký kết hợp đồng cho vay. Hợp
đồng cho vay phải có nội dung về: điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, cách
thức giải ngân và sử dụng vốn vay, phương thức và kỳ hạn trả nợ, hình thức bảo
đảm tiền vay giá trị tài sản đảm bảo nợ vay, biện pháp xử lý tài sản làm bảo đảm, và

những cam kết khác được các bên thoả thuận.
* Nguyên tắc vay vốn
Khách hàng vay vốn của ngân hàng phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng cho vay.
- Phải hoàn trả tiền gốc và tiền lãi vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng cho vay.
* Điều kiện cho vay
Các pháp nhân là doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, Công ty TNHH, công
ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác, hộ gia
đình, các cá nhân phải có đủ các điều kiện sau:
- Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật
- Tình hình tài chính kinh tế lành mạnh.
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích.
- Dự án đầu tư khả thi và có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật.
- Phải có tài sản đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
* Mục đích cho vay trun –dài hạn
11
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Cho vay trung-dài hạn nhằm đầu tư vào các dự án có thời gian tương đối dài
như mua sắm máy móc thiết bị đổi mới trang thiết bị công nghệ, xây dựng sửa chữa
nhà xưởng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh,và
phát triển trong tương lai của khách hàng.
* Nguồn vốn để cho vay:
- Vốn tự có và quỹ dự trữ: Đây là nguồn vốn chủ yếu hình thành nguồn vốn
cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại góp vốn hoặc tích luỹ trong
quá trình kinh doanh. Các ngân hàng có vốn lớn sẽ có nhiều ưu thế trong cho vay
trung-dài hạn.
Ngân hàng có thể huy động vốn từ dân cư dưới hình thức phát hành trái

phiếu dài hạn hoặc huy động định kỳ dài hạn để cho vay trung dài-hạn. Nguồn vốn
này hiện nay rất hạn chế do dân chúng ít người muốn gửi tiền dài hạn vì giá cả thị
trường biển đổi không ổn định.
- Vốn huy động và đi vay trong nước và nước ngoài có kỳ hạn dưới 01 năm
do Thống đốc NHN
O
quy định trong từng thời kỳ.
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương tình hoặc dự án
đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế-tài chính-cho vay-xã hội ở trong và
ngoài nước.
* Đối tượng cho vay
Ngân hàng thương mại cho vay các đối tượng:
Các công trình, hạng mục công trình hay dự án đầu tư có thể tính toán được
hiệu quả kinh tế trực tiếp, nhanh chóng phát huy tác dụng, đảm bảo thu hồi vốn
nhanh. Cụ thể đối tượng cho vay trung–dài hạn là:
+ Giá trị máy móc thiết bị
+ Công nghệ chuyển giao
+ Sáng chế phát minh
+ Chi phí nhân công và vật tư
+ Chi phí mua bảo hiểm cho tài sản thuộc dự án đầu tư
+ Chi phí khác
+ Các công trình xây dựng cơ bản mới
+ Công trình xây dựng cải tạ, hay mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
+ Công trình khôi phụ, thay thế tài sản cố định
+ Cải tiến kĩ thuật hợp lý
12
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Các đối tượng cho vay được ưu tiên theo thứ tự trên cơ sở mục tiêu phát triển
kinh tế-xã hội:

 Theo ngành kinh tế
 Theo yêu cầu mở rộng và phát triển thị trường
 Theo tính chất đầu tư
 Theo khả năng thu hút lực lượng lao động
* Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay tính từ khi bên vay nhận khoản vốn đầu tiên cho đến khi
trả hết nợ gốc và lãi.
Căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, khả
năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của ngân hàng mà ngân hàng xác
định thời hạn vay cho khách hàng. Đối với các pháp nhân Việt Nam và nước ngoài,
thời hạn cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập
hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam, với cá nhân nước ngoài thì thời hạn cho
vay không quá thời hạn sinh sống, hoạt động tại Việt Nam.
Thời hạn cho vay gồm thời hạn ân hạn và thời hạn trả nợ.
Thời hạn ân hạn là thời gian kể từ khi công trình, dự án đã hoàn thành, đưa
vào sử dụng cho đến khi bên vay bắt đầu trả nợ cho ngân hàng.
Thời hạn trả nợ là thời gian kể từ ngày bên vay bắt đầu trả nợ cho đến ngày
toàn bộ số nợ được trả hết cho ngân hàng
* Lãi suất cho vay
Về cơ bản, khoản đầu tư có kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng lớn, vì thế lãi suất
cho vay trung-dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay
được xác định tuỳ vào dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách của. Mức lãi
suất cho vay do ngân hàng nơi cho vay và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy
định của NHTM về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng cho vay.
Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất thay đổi
theo từng thời kỳ.
Lãi suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suất thời kỳ
thực hiện hợp đồng. Lãi suất thay đổi có thể thay đổi trong thời hạn vay. Trong cho
vay trung dài hạn phần lớn các ngân hàng sử dụng lãi suất thay đổi để tránh rủi ro
cho ngân hàng và người vay khi lãi suất trên thị trường biến động.

13
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Ngân hàng phải có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay
cho khách hàng biết. Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp
dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức quy định của Thống đốc NHN
O
.
* Mức cho vay
NHTM nơi cho vay căn cứ vào nhu cầu vốn vay của khách hàng, vốn tự
có của khách hàng tham gia vào dự án, phương án sản xuất, dịch vụ, đời sống; tỷ
lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính
phủ, NHN
O
; khả năng trả nợ của khách hàng và khả năng nguồn vốn của Ngân
hàng nơi cho vay để quyết định mức vốn vay, nhưng không vượt quá mức quy
định của pháp luật.
Hiện này mức cho vay được quy định như sau:
Đối với một khách hàng, tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 15% vốn
tự có của ngân hàng.
Đối với một nhóm khách hàng có liên quan, tổng dư nợ cho vay không được
vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng.
Ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá giới hạn trên khi được NHN
O
chấp thuận
* Thủ tục xét duyệt cho vay
Bên cạnh những loại hồ sơ do ngân hàng lập (các loại báo cáo thẩm định, các
loại thông báo, sổ theo dõi cho vay ), khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải lập
và gửi đến ngân hàng các giấy tờ sau:
- Hồ sơ pháp lý khi thiết lập quan hệ vay vốn gồm:

+ Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp.
+ Điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân).
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Giấy chứng nhận vốn đầu tư ban đầu (doanh nghiệp tư nhân).
+ Hồ sơ dự án đối với cho vay trung, dài hạn.
+ Các giấy tờ khác cần thiết theo quy định của pháp luật.
- Hồ sơ kinh tế:
+ Kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong kỳ.
+ Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ liền kề.
+ Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong kỳ trước liền kề.
- Hồ sơ vay vốn (cho mỗi lần vay hoặc một hợp đồng cho vay).
+ Giấy đề nghị vay vốn.
14
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
+ Dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
+ Bản sao hợp đồng mua hàng hoá hoặc báo giá, phiếu nhập kho, các chứng
từ thanh toán (nếu có).
+ Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định.
Đối với khách hàng đã vay vốn lần đầu, từ lần thứ hai chỉ cần bổ sung các tài
liệu có thay đổi.
* Thẩm định dự án
Công tác thẩm định tập trung ở hai nội dung sau:
• Thẩm định toàn diện các nội dung của luận chứng kinh tế kỹ thuật, báo cáo
kinh tế của các dự án tiền khả thi.
• Thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Sau khi đã nhận bộ hồ sơ gồm luận chứng kinh tế kỹ thuật và các tài liệu
liên quan một cách đầy đủ, cán bộ cho vay phải tiến hành thẩm định theo các hoạt
động sau:

Phân tích sự cần thiết phải đầu tư:
Với quan điểm mỗi dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong chương
trình phát triển kinh tế của ngành, của vùng lãnh thổ, nên để đạt được mục tiêu đó
việc phân tích phải trả lời được các câu hỏi sau:
1/ Dự án có vị trí ưu tiên như thế nào trong quy hoạch phát triển chung?
2/ Dự án nếu được đầu tư thì sẽ có những đóng góp gì cho xã hội như tạo
công ăn việc làm, tăng thu nhập và phân phối thu nhập như thế nào cho hợp lý, có
tác động tích cực gì đến chất lượng cuộc sống, giáo dục, vấn đề về bảo vệ môi tr-
ường có được tính đến hay không?
- Thẩm định về phương diện thị trường:
+ Kiểm tra cân đối cung cầu về sản phẩm của dự án, tuỳ theo phạm vi tiêu
thụ sản phẩm ở trong nước hay xuất khẩu thì xét đến:
 Nhu cầu của thị trường, dự báo mức độ gia tăng.
 Sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường về cả khối lượng và
chất lượng
 Đánh giá những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của dự án trong
tương lai, độ bền của nhu cầu sử dụng sản phẩm của dự án.
 Khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp đầu vào: tính ổn định và thường
xuyên của nguồn cung ứng.
15
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
+ Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm:
• Ưu thế tương đối của sản phẩm do dự án sản xuất về: giá thành, chất lượng,
mẫu mã, điều kiện lưu thông và tiêu thụ.
• Khả năng và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản
phẩm, kênh phân phối, về khả năng nắm bắt thông tin.
• Những con số cụ thể về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ và
tương lai.
+ Riêng đối với các sản phẩm xã hội hoặc là các mặt hàng thay thế nhập

khẩu thì cần lưu ý đến tính pháp lý của hợp đồng kinh tế và lợi thế so sánh của
nguồn khai thác để cung cấp lượng đầu vào thích hợp.
- Thẩm định về mặt tài chính của dự án:
Dự án đầu tư đối với một ngân hàng thương mại khi đưa ra quyết định cho
vay vốn đặc biệt là cho vay trung và dài hạn. Thẩm định về mặt tài chính được coi
là sự đảm bảo tối thiểu cho khoản vay sắp cung cấp. Những nội dung chính cần
thẩm định:
+ Vốn xây lắp: thường được tính toán trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp
và đơn giá xây lắp tổng hợp.
+ Vốn thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị để kiểm tra giá cả mua và chi
phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của Nhà nước. Đối với những thiết bị được
chuyển giao công nghệ thì tính gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ.
+ Vốn kiến thiết cơ bản khác: cần tính tới nhu cầu vốn lưu động ban đầu và
nhu cầu bổ sung vốn lưu động và những khoản mục chi phí cần thiết khác.
Dựa trên những tính toán cơ bản thì chủ dự án có trách nhiệm bỏ một phần
vốn tự có của mình vào tổng khoản vay và đó được coi là điều kiện cần đảm bảo về
uy tín và độ an toàn của khoản vay trung và dài hạn.
♦ Tiến độ bỏ vốn đầu tư: có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với những
công trình có thời gian xây dựng lâu dài, cần thiết phải phân bổ tiến độ bỏ vốn theo
chu kỳ thích hợp để tạo điều kiện cho việc điều hành vốn của ngân hàng.
♦ Yếu tố mang tính quyết định cho việc lựa chọn cho vay hay không chính
là khả năng sinh lợi của dự án. Chính vì vậy, trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư,
các doanh nghiệp và ngân hàng thường tiến hành thẩm định tính khả thi của dự án
qua hai chỉ tiêu:
Giá trị hiện tại ròng của dự án NPV
NPV = ΣPV - ΣV
16
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Trong đó: ΣPV là tổng giá trị hiện tại của thu nhập ròng của dự án

ΣV là tổng vốn đầu tư ban đầu của dự án
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR tại đó NPV = 0
Một dự án được coi là có tính khả thi khi NPV >0 hoặc IRR lớn hơn lãi suất
cho vay, khi đó ngân hàng có thể quyết định cho vay được vì có khả năng thu hồi
vốn, có thể trả nợ cho ngân hàng theo đúng hợp đồng quy định.
Do điều kiện về thời hạn vay vốn tương đối dài, lượng vốn đầu tư tương đối
lớn nên độ rủi ro càng cao, nên công tác thẩm định trở thành phương tiện góp phần
nâng cao chất lượng các khoản cho vay đồng thời là cơ sở để đánh giá năng lực
phân tích cho vay của các cán bộ ngân hàng.
* Trả nợ gốc và lãi: Sau khi tiến hành giải ngân, cán bộ cho vay phải thường
xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay có đúng với mục đích xin vay không. Nếu
thấy khách hàng sử dụng sai mục đích thì phải báo cáo ngay với lãnh đạo để xử lý
kịp thời và áp dụng các chế tài đã ghi trong hợp đồng cho vay.
Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và khả năng tài chính, thu
nhập và nguồn trả nợ của khách hàng và khách hàng thoả thuận về việc trả nợ gốc
và tiền lãi vay như sau:
- Các kỳ hạn trả nợ gốc.
- Trả tiền lãi theo dịnh kỳ tháng, quý, vụ, chu kỳ kinh doanh hoặc trả lãi cùng
với kỳ trả nợ gốc.
- Thu nợ cho vay theo thoả thuận trong hợp đồng cho vay. Đối với khách
hàng vay bằng nội tệ, khách hàng vay được quyền trả nợ trước hạn, số lãi phải trả
tính từ ngày vay đến ngày trả nợ.
- Khi đến kì hạn trả nợ hoặc đến thời hạn trả nợ nhưng khách hàng không có
khả năng trả được nợ thì có thể yêu cầu bằng văn bản đến ngân hàng xin điều chỉnh
kì hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ. Ngân hàng điều chỉnh kì hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ
trên cơ sở nguồn vốn của mình và khả năng trả nợ của khách hàng vay:
+ Khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kì hạn trong phạm vi thời hạn
cho vay đã thoả thuận và ngân hàng đánh giá là có khả năng trả nợ trong các kì hạn
tiếp theo thì ngân hàng xem xét điều chỉnh kì hàn trả nợ, toàn bộ số dư nợ vay gốc
của khách hàng này được phân loại vào nợ từ nhóm 2 đến nhóm 4

+ Khách hàng không có khả năng trả nợ đúng thời hạn cho vay và được ngân
hàng đánh giá là có khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời
hạn cho vay thì ngân hàng xem xét cho gia hạn nợ. Thời gian gia hạn nợ tối đa bằng
17
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
1/2 thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng, toàn bộ số dư nợ vay gốc của
khách hàng này được phân loại vào các nhóm nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5
- Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu khách hàng
không trả được nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn trả nợ hoặc gia hạn
nợ phải chuyển khoản vay đó sang nợ quá hạn
Trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, bị chấm dứt việc cho vay,
ngân hàng phải thực hiện thu hồi nợ trước hạn đã cam kết trong hợp đồng, chuyển
sang nợ quá hạn. Xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, có biện pháp xử lý
kịp thời, đôn đốc khách hàng trả nợ hoặc có thể phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để
thu hồi nợ.
Nếu hết hạn hợp đồng cho vay khách hàng đã thanh toán đầy đủ cả gốc và
lãi thì cán bộ cho vay cùng khách hàng thanh lý hợp đồng cho vay.
1.3 Chất lượng tín dụng trung –dài hạn
1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng
Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng nâng
cao chất lượng kinh doanh hay nói cách khác tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động kinh
doanh của một doanh nghiệp nào đó suy cho cùng là đánh giá hiệu quả của nó như
thế nào? Mang lại lợi nhuận gì cho doanh nghiệp cũng như phúc lợi xã hội. Đã có
một định nghĩa về chất lượng như sau: “ chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những
đặc trưng của nó, thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong những biểu hiện tiêu
dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong
muốn”.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng là vấn đề vô cùng phong phú, phức tạp do tính
đa dạng của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Về cơ bản, một sản phẩm do một tổ

chức cung cấp phải có khả năng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của khách hàng. Sản
phẩm ngân hàng mang nhiều đặc điểm khác với các sản phẩm của các ngành công
nghiệp: tính vô hình, tính không thể tách biệt, tính không ổn định và khó xác định
nên việc xác định chất lượng tín dụng ngân hàng là rất khó. Theo quan điểm trên thì
có thể hiểu khái niệm chất lượng tín dụng như sau: chất lượng tín dụng là sự đáp
ứng nhu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự
tồn tại, phát triển của các ngân hàng thương mại.
+ Dưới góc độ là ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng là các khoản
tín dụng được đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín
dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân
18
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển của
ngân hàng.
+ Dưới góc độ là khách hàng: chất lượng tín dụng là các khoản tín dụng đáp
ứng được các nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất về lãi suất, kì hạn, với hình
thức giải ngân và thu nợ phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh của khách hàng,
thủ tục đơn giản thuận tiện, thái độ phục vụ của các nhân viên ngân hàng nhiệt tình,
chuyên nghiệp.
+ Dưới góc độ nền kinh tế: khoản tín dụng có chất lượng là các khoản tín
dụng góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa, công cuộc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp,
góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, giải quyết công ăn việc làm, khai
thác khả năng tiềm tàng của đất nước.
Chất lượng tín dụng trung–dài hạn là chất lượng của các khoản tín dụng có
thời hạn trên một năm. Do những đặc điểm của tín dụng trung – dài hạn là thời gian
dài, rủi ro lớn, lợi nhuận cao nên việc mở rộng tín dụng trung – dài hạn luôn phải đi
kèm với việc nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn để đảm bảo thỏa mãn tốt

nhất nhu cầu của khách hàng, phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung–dài hạn
- Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay tín dụng
trung- dài hạn
Doanh số cho vay biểu hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng trung-
dài hạn, tốc độ tăng doanh số cho vay thể hiện khả năng mở rộng quy mô cho vay
trung - dài hạn qua các thời kì. Doanh số cho vay lớn và tốc độ tăng nhanh cho thấy
khả năng mở rộng tín dụng trung–dài hạn của ngân hàng tốt, sản phẩm tín dụng của
ngân hàng có sức cạnh tranh cao và thu hút được nhiều khách hàng.
- Dư nợ tín dụng trung–dài hạn: đây là chỉ tiêu mang tính chất thời điểm phản
ánh số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng nhưng chưa thu hồi do khoản
vay chưa đến hạn thanh toán hoặc khoản vay đang bị nợ quá hạn.
Xét chỉ tiêu:
Tỉ lệ dư nợ tín dụng trung–dài hạn
Dư nợ cho vay trung–dài hạn
Tổng dư nợ cho vay
19
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Tỉ lệ dư nợ tín dụng trung-dài hạn cho biết tỉ trọng dư nợ cho vay trung–dài
hạn so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng, phản ánh quy mô của tín dụng trung
– dài hạn trong mối tương quan với tín dụng ngắn hạn. Tỉ lệ này càng cao chứng tỏ
ngân hàng đã chú trọng đến việc mở rộng tín dụng trung–dài hạn. Các ngân hàng
này đều mong muốn tỉ lệ này cao vì tín dụng trung – dài hạn luôn mang lại lợi
nhuận cao hơn so với tín dụng ngắn hạn.
Tỉ lệ dư nợ tín dụng trung–dài
hạn trên tổng tài sản
=
Dư nợ tín dụng trung–dài hạn

Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tương quan so sánh về quy mô cho vay trung dài hạn so
với tổng tài sản, để đánh giá tính hợp lí trong cơ cấu sử dụng vốn của mình.
- Chỉ tiêu thu nợ tín dụng trung–dài hạn
Tốc độ tăng doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng
đang được tiến hành rất tốt. Doanh số thu nợ cao cũng chứng tỏ các khoản tín dụng
của ngân hàng có chất lượng tốt, khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả và vấn đề
quản lý tín dụng của ngân hàng tốt.
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ tín dụng trung–dài hạn
Dư nợ trung – dài hạn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trong một năm
hay còn gọi là chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, phản
ánh được số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung – dài hạn (thường là một
năm). Hệ số này cao phản ánh khoảng thời gian tồn tại trung bình của các món vay
ngắn, sự luân chuyển của vốn trung – dài hạn cao.
- Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận do tín dụng trung- dài hạn mang lại:
Tỉ lệ lợi nhuận hoạt động
tín dụng
=
Lợi nhuận hoạt động tín dụng trung–dài hạn
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu trên đánh giá tầm quan trọng của tín dụng trung–dài hạn trong
hoạt động của ngân hàng. Tỉ lệ này cao chứng tỏ lợi nhuận do tín dụng trung–dài
hạn mang lại lớn và việc mở rộng quy mô cho vay của tín dụng trung–dài hạn
trong cơ cấu tài sản của ngân hàng lớn, chất lượng tín dụng trung–dài hạn ngày
càng nâng cao.
- Chỉ tiêu đánh giá về nợ quá hạn
20
SV: Nguyễn Tiến Khương

Lớp: LTNH K10A - KTQD
Nợ quá hạn là các khoản nợ đến kì hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay vốn cộng
thêm thời gian gia hạn( nếu có) mà khách hàng vẫn không trả nợ gốc hoặc lãi hoặc
cả gốc và lãi. Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá chât
lượng tín dụng của các khoản cho vay. Nợ quá hạn càng cao chứng tỏ chất lượng tín
dụng của ngân hàng càng kém, ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro

Tỉ lệ trên càng thấp càng tốt. Tuy nhiên rủi ro trong kinh doanh là không thể
tránh khỏi. Mặt khác hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất nên các
ngân hàng chấp nhận tỉ lệ này ở một mức độ nhất định gọi là giới hạn an toàn.
Ngoài ra còn xét đến chỉ tiêu nợ xấu. Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng
cho vay trung–dài hạn thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu. Chỉ tiêu này càng thấp càng
tốt
Nợ xấu từ hoạt động tín dụng trung–dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung–dài hạn
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung- dài hạn
1.3.3.1 Các nhân tố từ phía khách hàng
Cho vay là nhịp cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng với hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Do đó mỗi biểu hiện tốt hay xấu trong
hoạt động của khách hàng sẽ có những ảnh hưởng tương ứng với hoạt động cho vay
thông qua cơ chế tác động của mối quan hệ cho vay. Với những khách hàng sản
xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và
quan hệ cho vay tốt (vay trả nợ sòng phẳng) nhịp cầu nối giữa vay và cho vay thông
suốt tạo điều kiện tăng vòng quay vốn cho vay, mở rộng qui mô vốn đầu tư mang
lại thu nhập cho ngân hàng cũng như đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh
hưởng đến chất lượng cho vay. Do đó lợi nhuận của các ngân hàng thu được từ hoạt
động cho vay cũng bị giới hạn bởi mức lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất

kinh doanh. Nếu như lãi suất tiền vay lớn hơn lợi nhuận thu được từ sản xuất kinh
doanh thì doanh nghiệp không có khả năng trả nợ ngân hàng, ảnh hưởng quá trình
21
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
Tỉ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn tín dụng trung-dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung–dài hạn
sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì lúc này hoạt
động cho vay không còn là đòn bẩy thúc đẩy cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh phát triển theo đó chất lượng cho vay cũng bị ảnh hưởng.
1.3.3.2 Các nhân tố từ phía ngân hàng
- Khả năng nguồn vốn cho vay
Để tiến hành hoạt động tín dụng ngân hàng cần phải có nguồn vốn. Nếu thực
hiện theo nguyên tắc là chỉ dùng vốn huy động trung–dài hạn để cho vay trung dài
hạn thì các ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng được các khoản cho vay trung–dài
hạn. Trong thực tế ngân hàng có thể sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài
hạn nhưng phải tính toán để không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân
hàng. Hiện này Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được sử
dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung–dài hạn, với tổ chức tín
dụng khác là 30%. Nếu ngân hàng sử dụng quá quy định trên sẽ xảy ra tình trạng
không thanh toán kịp thời cho những khoản huy động ngắn hạn trong khi những
khoản vay trung – dài hạn chưa đến hạn và gửi tiền mới thì chưa huy động được.
Nguồn vốn để cho vay trung–dài hạn của ngân hàng được tạo từ các nguồn sau:
+ Nguồn vốn huy động trung–dài hạn
Đây là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá
nhân trên cơ sở có sự thỏa thuận thời gian rút tiền từ một năm trở lên. Khách hàng
cá nhân thường gửi các khoản tiết kiệm với mục đích sinh lời và an toàn tài sản. Họ
ít có nhu cầu rút tiền khi đến hạn mà chỉ rút lãi hoặc nhập lãi vào gốc để gửi tiếp
nên đây là nguồn vốn khá ổn định. Tuy nhiên các khoản gửi tiết kiệm thời gian dài

thường chiếm tỉ lệ ít do đó khi cần vốn với số lượng lớn ngân hàng thường phát
hành trái phiếu, kì phiếu để huy động vốn.
+ Vốn tự có
Nguồn vốn này thuộc sở hữu của ngân hàng. Thông thường vốn tự có được
sử dụng để mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất, phần còn lại cùng với
vốn bổ sung và lợi nhuận hàng năm của ngân hàng có thể cho vay trung dài hạn.
+ Nguồn vốn ngắn hạn
Các ngân hàng hiện nay đều sử dụng một tỉ lệ vốn ngắn hạn để cho vay
trung–dài hạn bởi lẽ tại một thời điểm không thể có sự trùng hợp hoàn toàn nguồn
vốn và sử dụng vốn ở cả ba yếu tố: số lượng, thời hạn và lãi suất. Sử dụng hợp lí
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung–dài hạn cũng góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của ngân hàng.
22
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
- Chính sách tín dụng của ngân hàng
Trong mỗi thời kì khác nhau các ngân hàng có các chính sách tín dụng khác
nhau. Chính sách tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, số lượng khoản vay,
đến các khoản bảo đảm và nhiều yếu tố khác. Chính sách cho vay được xây dựng,
thực hiện một cách khoa học chặt chẽ, kết hợp hài hoà lợi ích ngân hàng, khách
hàng và xã hội thì hứa hẹn một chất lượng cho vay trung-dài hạn tốt. Ngược lại nếu
xây dựng, thực hiện chính sách cho vay trung-dài hạn không hợp lý, không khoa
học thì chắc chắn chất lượng cho vay trung-dài hạn của ngân hàng sẽ không cao
thậm chí là rất thấp.
- Trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng
Trong bất kì lĩnh vực nào con người luôn luôn là yếu tố quan trọng. Tín dụng
trung–dài hạn là một trong những nghiệp vụ phức tạp nhất trong các khâu nghiệp vụ
của ngân hàng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm được đặc thù của mỗi ngành sản
xuất kinh doanh. Cán bộ tín dụng phải am hiểu về pháp luật, nắm bắt được thông tín
thị trường, có khả năng thẩm định tốt để có thể giảm thiểu rủi ro thấp nhất cho

ngân hàng. Cán bộ tín dụng là người theo sát dự án, phát hiện kịp thời thông tin và
là người chịu trách nhiệm chính của khoản vay cho nên ngân hàng phải chọn lựa
những người có năng lực thực sự và phù hợp với chuyên môn của họ.
- Chất lượng thẩm định dự án
Khi quyết định cung cấp một khoản vay đặc biệt là vay trung và dài hạn, các
ngân hàng bắt buộc phải có sự thẩm định, thông qua đó, có thể đánh giá được tính
hợp lý, hiệu quả của dự án đầu từ và đó cũng chính là biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng các khoản vay. Do đặc tính vốn có của những khoản vay trung và dài
hạn thường đem lại nhiều rủi ro, khả năng linh hoạt kém nên thông qua công tác
thẩm định, có thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho vay khối lượng bao nhiêu,
thời gian bao lâu, từ đó đảm bảo tính ổn định của khoản vay. Nếu việc thẩm định
không được tiến hành chặt chẽ thì khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng là rất
lớn và khoản cho vay sẽ không có hiệu quả cao. Do đó các ngân hàng phải có đầy
đủ thông tin về dự án và các lĩnh vực có liên quan. Khi cho vay ngân hàng cũng
luôn cần thông tin về tình hình thực hiện dự án, về thị trường và các thông tin khác
để có thể phản ứng kịp thời trước những đột biến có thể xảy ra.
- Theo dõi, giám sát các khoản tín dụng
Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng tiến hành tốt, dự án
có tính khả thi xong do chưa chắc chắn có được chất lượng cho vay trung - dài hạn
23
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
cao. Bởi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt thời gian dài
luôn chứa đựng rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước được. Vì vậy công tác theo
dõi, giám sát cho vay trung - dài hạn sau khi cho vay có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Hoạt động giám sát chủ yếu về sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh
nghiệp, tiến độ trả nợ, quá trình sử dụng bảo quản và biến động tài sản của doanh
nghiệp, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Làm tốt công
tác này giúp ngân hàng phát hiện ngăn chặn kịp thời việc sử dụng sai mục đích, âm
mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng, đồng thời thông qua việc luôn bám sát hoạt

động của doanh nghiệp ngân hàng có những biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp khi
gặp khó khăn để thực hiện dự án đạt hiệu quả cao nhất, góp phần nâng cao chất
lượng cho vay trung-dài hạn.
- Những yếu tố thuộc về đạo đức
Ngoài trình độ chuyên môn thì đạo đức nghề nghiệp là một đòi hỏi rất cao
đối với cán bộ ngân hàng. Nếu cán bộ ngân hàng có tư lợi riêng, họ sẽ liên kết với
khách hàng để lừa ngân hàng và làm trái với những quy định của Nhà nước, làm sai
quy chế quy định của ngành. Vì vậy có thể nói rằng yếu tố đạo đức cũng là một yếu
tố tác động đến chất lượng tín dụng.
Ngoài những nhân tố từ phía khách hàng và ngân hàng, chất lượng tín dụng
trung-dài hạn còn chịu tác động bởi các nhân tố khác như sự biến động về kinh tế-
chính trị-xã hội, những thay đổi trong chính sách quản lí của nhà nước, ảnh hưởng
của thiên tai địch họa…
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN TẠI CHI
NHÁNH NHN
O
& PTNN HUYỆN LÝ NHÂN.
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHN
O
& PTNT huyện Lý
Nhân.
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có rất nhiều
thời điểm quan trọng trong đó phải kể đến nghị định 53/HĐBT của hội đồng bộ
24
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD
trưởng (nay là chính phủ) ban hành ngày 26 tháng 03 năm 1988. Theo đó hệ thống
Ngân hàng Việt Nam bao gồm: Ngân hàng Nhà Nước và các Ngân hàng chuyên

doanh.
Được thành lập từ sau nghị đinh 53/CP của chính phủ. NHN
O
& PTNT Việt
Nam đã trở thành một trong những NHTM quốc doanh lớn nhất nước ta, bên cạnh
các ngân hàng lớn như Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Cho đến nay NHN
O
& PTNT Việt Nam đã thực sự phát triển với hệ thống các chi
nhánh ngân hàng có mặt rộng khắp trên toàn quốc.
NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân trực thuộc NHN
O
& PTNT tỉnh Hà Nam.
Tiền thân của NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân là một chi nhánh ngân hàng huyện
trực thuộc NHN
O
& PTNT tỉnh cũ là Hà Nam Ninh. Đầu năm 1997 tỉnh Hà Nam
được thành lập. Huyện Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nam, bao gồm một thị trấn và 24 xã.
NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân được thành lập năm 1988 theo nghị định 53 /NĐ-
HĐBT ngày 26/03/1988. Nhiệm vụ chủ yếu của NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân là
hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, dịch vụ ngân hàng trong địa bàn huyện Lý
Nhân đối với mọi thành phần kinh tế : Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, nông

nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thương mại, và chủ yếu là phục vụ chương
trình phát triển nông nghiệp nông thôn.
NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân đã tập trung vốn đầu tư trong nông nghiệp,
tăng năng suất cây trồng, đổi mới cơ cấu nông nghiệp hiện đại hoá nông nghiệp
Từ ngày thành lập đến nay NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân luôn luôn ổn
định và phát triển vững chắc, toàn diện cả về tổ chức bộ máy, nhân sự và chuyên
môn nghiệp vụ cụ thể.
- Nguồn vốn kinh doanh liên tục tăng qua các năm. Trong đó chủ yếu là vốn
huy động tại chỗ. Vốn huy động được để phục vụ trực tiếp cho các nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội tại địa phương.
- Doanh số thu chi tiền mặt qua các năm đều tăng thường xuyên đáp ứng nhu
cầu chi tiêu tiền mặt cho các tổ chức kinh tế và dân cư trên địa bàn.
- Từ ngày được thành lập NHN
O
& PTNT huyện Lý Nhân liên tục kinh
doanh có lãi đảm bảo hệ thống lương tháng, năm theo quy định. Đời sống cán bộ
công nhân viên trong cơ quan luôn ổn định và từng bước được cải thiện cả về mặt
vật chất và tinh thần. Làm tròn nghĩa vụ đối với ngân hàng cấp trên và đối với Ngân
sách Nhà Nước.
25
SV: Nguyễn Tiến Khương
Lớp: LTNH K10A - KTQD

×