Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.61 KB, 66 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động của ngành ngân hàng gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế. Việc
chuyển từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, đòi hỏi hoạt động ngân hàng phải là đòn bẩy kinh tế, là công cụ kiềm
chế và đẩy lùi lạm phát nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống ngân
hàng đã được cải tổ và hoạt động có hiệu quả ,đóng vai trò nòng cốt trên thị trường
tiền tệ . Chiến lược kinh tế của nhà nước chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá
hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội.”
Vấn đề nổi bật trong hoạt động ngân hàng là công tác huy động vốn và sử
dụng vốn. Mục tiêu đặt ra là làm sao cho công tác huy động vốn và sử dụng vốn đạt
hiệu quả cao nhất.
Trong bài viết này em sẽ đề cập đến công tác huy động và sử dụng vốn tại
Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông chi nhánh huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
Với mục tiêu đặt ra là gắn liền lý luận khoa học với hoạt động thực tiễn, trong thời
gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tứ Kỳ em
thấy còn nhiều vấn đề phải hoàn thiện. Trong phạm vi của chuyên đề, em sẽ đề cập
đến “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.”
Bài viết gồm 3 chương :
Chương I : Những nội dung cơ bản về Ngân hàng Thương mại và hoạt động
cuả Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương II : Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn tại


ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
Sau đây là bài viết của em.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG NỘI DUNG VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Những nội dung cơ bản về Ngân hàng Thương mại.
1.1. Khái niệm, chức năng, và vai trò của Ngân hàng thương mại.
1.1.1: Khái niệm và chức năng của NHTM.
a/ Khái niêm: Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận hợp thành hệ
thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, có chức năng dẫn vốn từ những người
có khả năng dẫn vốn tới những người có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện vốn
cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng thương mại là một bộ phận lớn nhất
trong hệ thống trung gian tài chính. Tại điều I khoản 1 pháp lệnh số 38 ngày
25/05/1990 quy định về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính quy
định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”.
Tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/10/1998 có quy định: “NHTM là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. .
b/ Chức năng của ngân hàng thương mại.
b1) Trung gian tín dụng:
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội bao gồm: tiền gửi
của các doanh nghiệp, tiền gửi của các tổ chức kinh tê, các gia đình, cá nhân và của
nhà nước. Mặt khác, dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các
thành phần kinh tế trong xã hội khi có nhu cầu sử dụng vốn.

Trong nền kinh tế thị trường, NHTM chính là trung gian tài chính quan trọng
để điều chuyển nguồn vốn từ người thừa sang người thiếu. Thông qua việc điều
chuyển này NHTM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tăng việc làm, cải thiện mức sống dân cư, ổn định thu chi của chính phủ…
b2) Trung gian thanh toán:
Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả hàng hóa và dịch vụ của
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp,
thủ tục thanh toán đơn giản và ngày càng tiên tiến.
Nhờ tập trung việc thanh toán vào ngân hàng, nên việc giao lưu hàng hóa trở
lên nhanh chóng và thuận tiện hơn, an toàn và tiết kiệm hơn. Không những vậy do
thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội
trước hết là các doanh nghiệp với mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy
mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
b3) Nguồn tạo tiền:
Sự ra đời của NH đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh tiền
tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh nhận tiền gửi và cũng cho vay bằng
chính đồng tiền đó, thì nay các ngân hàng có thể cho vay bằng chính tiền giấy của
mình, thay thế tiền bạc và vàng do khách hàng gửi vào ngân hàng.
NHTM có thể tạo tiền bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền
mặt. Điều này đã đưa NH lên vị là nguồn tạo tiền.
1.1.2: Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi
các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo
hướng chuyên sâu. Với đặc điểm kinh doanh cơ bản là đi vay để cho vay, NHTM
giữ vai trò nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế:
1.1.2.1: NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi các nhân, doanh

nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. NHTM là chủ thế chính đáp ứng nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh.
NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi
tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế và thông qua hoạt động tín dụng, NHTM
sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu về vốn cho quá
trình mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả kinh tế.
Trong khi đó những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được
những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy
NHTM là một trung gian tài chính tốt nhất để thực hiện chức năng là cầu nối giữa
cung và cầu về vốn. Ngân hàng là một địa chỉ tốt nhất mà những người dư thừa về
vốn có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất và ngược lại cũng là nơi sẵn
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp.
1.1.2.2: NHTM là cầu nối giữa các tổ chức sản xuất kinh doanh với thị
trường.
Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, đòi hởi các doanh
nghiệp phải có một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiêu khi vượt quá khả năng vốn tự
cố của doanh nghiệp và cá nhân. Do đó, để giải quyết khó khăn này các doanh
nghiệp và cá nhân có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu
đầu tư của mình.
Thông qua hoạt động tín dụng, NH là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với
thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho các doanh nghiệp và
cá nhân đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho doanh
nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.2.3: NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các

NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua
việc cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế, NHTM
thực hiện dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều
khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:” Nhà
nước điều tiế ngân hàng. Ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2.4: NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh
toán, nghiệp vụ hối đoai và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy
ngoại thương không ngừng được mở rộng.
Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng
với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời, thông qua việc thực hiện các chức năng: trung gian tài chính,
chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền, cùng với vai trò của mình
đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2: Các hoạt động kinh doanh cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
2.1: Hoạt động huy động vốn.
2.1.1: Sự cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động
Các NHTM cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động do nghiệp vụ huy
động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế cũng như với bản thân NHTM.
- Đối với nền kinh tế:
Hoạt động huy động vốn của NHTM đã góp phần thực hiện chính sách tiền
tệ, kiềm chế lạm phát. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy: để ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài
chính, tiền tệ và một trong những bịên pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng

cường vốn trong nền kinh tế nhất là nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM.
Thông qua các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay…ngân
hàng đã huy động được một lượng vốn khá lớn trong nền kinh tế, giúp giảm dần
lượng tiền mặt lưu thông qua đó góp phần giảm áp lực tăng giá cả từ đó giúp ổn
định giá trị đồng nội tệ.
Thông qua nghiệp vụ huy động vốn sẽ giúp huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ
trong xã hội phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế quốc dân,
đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bởi lẽ, nó khuyến khích dân
cư, tổ chức kinh tế tăng cường tiết kiệm, tích luỹ tiêu dùng từ đó tăng nguồn nội lực
cho quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế. Đồng thời mang lại cho họ một khoản thu
nhập từ lãi, qua đó góp phần ổn định, nâng cao đời sống cho người gửi tiền, kích
thích tiêu dùng làm tăng sức mua của xã hội.
Hơn nữa, nguồn vốn huy động là cơ sở cho các khoản vay mà từ đó các dự án
khả thi được thực hiện khiến cho các ngành nghề mới được ra đời, các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm giúp tăng thu nhập,
cải thiện đời sống cho người lao động.
Ngoài ra, qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá NHTM đã tạo thêm hàng
hoá cho thị trường vốn, thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát triển.
- Đối với bản thân NHTM:
Hoạt động huy động vốn đã giúp NHTM mở rộng quan hệ với nhiều đối
tượng khách hàng, biết được nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của từng đối tượng
khách hàng từ đó tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu đó, tạo niềm tin đối với
khách hàng giúp nâng cao uy tín của ngân hàng. Nhờ vậy, hoạt động huy động vốn
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của NHTM sẽ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Tạo điều kiện cho NHTM mở rộng
mạng lưới hoạt động, tăng thị phần, tăng sức cạnh tranh trên thương trường.
Mặt khác, hoạt động huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp hoạt động kinh doanh
của NHTM không bị ngưng trệ. Vì do thiếu vốn ngân hàng sẽ từ chối cho vay, đầu

tư trong khi các khoản cho vay, đầu tư này sẽ mang lại thu nhập cao cho ngân hàng,
như vậy ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, mất khách hàng tốt, tệ hơn là nó
làm giảm uy tín của ngân hàng.
Tóm lại: vốn đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh
của NHTM, vì vậy hoạt động huy động vốn của NHTM sẽ ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán, quy mô cũng như phạm vi hoạt động của ngân hàng. Huy động vốn là
nghiệp vụ truyền thống của NHTM tồn tại trong quá trình kinh doanh. Do vậy dù
thừa hay thiếu vốn, NHTM vẫn phải duy trì bền vững nghiệp vụ này. Tuy nhiên, tuỳ
từng mục tiêu trong từng thời kỳ khác nhau NHTM cần lựa chọn chiến lược huy
động vốn cho phù hợp và đem lại hiệu quả cao.
2.1.2: Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội.
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Nó được huy đồng từ các hình
thức sau:
a.1/ Các khoản tiền gửi của khách hàng:
* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Đây là một trong những khoản tiền gửi lớn của ngân hàng. Thông thường
người gửi tiết kiệm nhận được một cuốn sổ nhỏ trong đó nhân viên ngân hàng xác
định toàn bộ số tiền rút ra, gửi thêm, số tiền lãi. Khác hàng ở đây là tất cả các dân
cư có khoản tiền nhàn rỗi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng, có thể gửi vào ngân
hàng nhằm tìm kiếm một khoản tiền lãi.
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Nhưng thường người ta phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của
dân cư theo tiêu thức thời gian, tức là gồm tiển gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
* Tiền ký gửi:
Đây là những khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc sử
dụng những khoản tiền ký gửi đượng thực hiện theo những thỏa thuận giữa khách
hàng và ngân hàng. Lịch sử phát triển của ngân hàng cho thấy rằng hình thức ban
đầu của hoạt động ngân hàng là việc khách hàng nhờ bảo quản những đồng tiền
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B

8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vàng. Người chủ phải bảo đảm trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển
giao và bảo quản. Trong những trường hợp này người chủ không thể tiến hành các
nghiệp vụ cho vay đối với những đồng tiền nhận bảo quản đó và không thể thu lợi
nhuận để trả lợi tức cho người gửi tiền. Cùng với sự phát triển của xã hội đã tạo
điều kiện cho người bảo quản có thể sử dụng những đồng tiền đó bởi vì người gửi
tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi mà chỉ yêu cầu trả
lại tổng số tiền mà họ đã gửi. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền
vay mượn đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Tuy nhiên cho
vay bằng tiền ký gửi phải căn cứ vào các điều kiện có liên quan đến các khoản ký
gửi khác nhau. Khi sử dụng các khoản tiền ký gửi ngân hàng phải có sụ phân loại
các khoản tiền này nhằm có được một cách sử dụng chúng hiệu quả nhất.
a.2/ Vốn vay của các tổ chức tài chính tín dụng:
Các ngân hàng thương mại có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài
chính tín dụng. Đối với những ngân hàng ở các nước phát triển có quan hệ rộng
khắp thì nguồn vốn này là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng.
Nguồn vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các
ngân hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn
từ các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn
quan trọng. Tuy nhiên đối với các quốc gia đang phát triển, các ngân hàng thương
mại thường có quan hệ quốc tế hạn hẹp, do đó việc thu hút những nguồn vốn này
còn nhiều hạn chế và thường được huy động theo các chương trình quốc tế.
2.1.3: Nguồn vốn từ ngân hàng trung ương.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới nhiều
hình thức như cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá
của NHTM. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo cho khả năng thanh toán của
NHTM.
2.1.4: Nguồn vốn ủy thác đầu tư.
Ủy thác đầu tư là hình thức khách hàng ủy thác một số vốn nhất định cho

NHTM đầu tư nhằm thu các lợi ích nhất định từ hoạt động đầu tư.
Khách hàng ký hợp đồng ủy thác đầu tư với thời gian và lãi ủy thác linh hoạt,
khách hàng có thể rút vốn trước thời hạn nhưng vẫn nhận được mức lãi ủy thác
không kỳ hạn cực kỳ hấp dẫn.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.2: Hoạt động sử dụng vốn của NHTM
2.2.1: Cho vay đối với các hình thức bảo đảm.
Cho vay đối với hình thức bảo đảm thì khoản mục tín dụng được chia thành:
Cho vay có đảm bảo: là hoạt động quan trọng của ngân hàng. Cho vay có bảo
đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp
bao gồm nhiều loại như: Bất động sản, biên nhận ký gửi hàng hóa, máy móc thiết
bị… Yêu cầu cơ bản của những vật thế chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi
hởi một khoản cho vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng
giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp vay không muốn hoặc không thế trả nợ
đến hẹn.
Sự bảo đảm là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý do
chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kếm này có thể được
biểu hiện thông qua một vài yếu tố bao gồm nợ nần chồng chất, quản lý yếu kém và
lợi nhuận thấp. Người vay trong điều kiện tài chính như vậy có thể tạo uy tín bằng
việc thế chấp các tài sản. Cho vay có bảo đảm cũng tạo tâm lý yên tâm cho ngân
hàng. Khi người vay đem cầm cố các tài sản mang quyền sở hữu của mình thì người
vay có ý thức hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc
khoản vay đáo có cần được bảo đảm hay không. Khi kỳ hạn cho vay dài, rủi ro
trong không hoàn trả tăng lên thì các khoản cho vay càng cần có sự đảm bảo.
Khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không có người bảo đảm trả thay
thì khi đến hạn tài sản cầm cố, thế chấp có thể là động sản và cũng có thể là bất
động sản.
Cho vay không bảo đảm: Khác với cho vay bảo đảm, cho vay không bảo đảm

được dự trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay lợi tức có thể được
trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Trong hoạt động NH một số khoản
vay lớn nhất được thực hiện dựa trên cơ sở không bảo đảm. Một số công ty được
các ngân hàng xem là người vay chủ yếu, trong nhiều trường hợp ho được hưởng
lãi suất ưu đãi và không cần bảo đảm. Những công tý ấy có danh tiếng trên thị
trường, có cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và các dịch vụ được thị trường
chấp nhận, có lợi nhuận ổn định và với một tình hình tài chính vững mạnh. Họ sẵn
sàng cung cấp cho ngân hàng các báo cáo tài chính của mình để ngân hàng nắm rõ
tình hình tài chính và sự tiến bộ của họ để ngân hàng cung cấp các khoản cho vay
không đảm bảo.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các doanh nghiệp không phải là những đơn vị duy nhất được vay không cần
bảo đảm, nhiều tác nhân cũng được hưởng đặc quyền ấy. Những người có nhà
riêng, có công ăn việc làm ổn định, hoạt động trong các công sở…
2.2.2: Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Căn cứ theo hình thức cho vay có kỳ hạn thì tín dụng ngân hàng chia thành
cho vay:
Cho vay ngắn hạn: các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn 1 năm hoặc ít hơn
1 năm. Cho vay ngắn hạn được thực hiện trong một thời gian nhất định dưới 1 năm
hoặc trên cơ sở theo yêu cầu. Cho vay theo yêu cầu của người vay vào một vị thế rất
linh hoạt và có thể trả nợ trong một thời gian rất ngắn.
Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc
tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cho vay trung và dài hạn: Theo quy định của nước ta, những khoản vốn cho
vay từ 1 năm đến 3 năm được có là trung hạn, những khoản vốn cho vay từ 3 năm
trở lên được coi là dài hạn.
Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung và dài hạn vì một
số lý do sau đây:

Thứ nhất: Đối với các khoản vay trung và dài hạn khách hàng có thể yên
tâm về thời gian sử dụng đồng vốn trong sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Các khoản vay trung và dài hạn thường thuận tiện hơn các khoản
vay ngắn hạn.
Thứ ba: Các khoản vay trung và dài hạn dễ ràng thực hiện hơn so với các
hình thức tài trợ khác như: phát hành trái phiếu, cổ phiếu mới…
Vốn trng hạn và dài hạn là một nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự
tăng trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển.
2.2.3: Cho vay theo phương pháp hoàn trả.
+ Các khoản cho vay hoàn trả một lần:
Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay thăng,
nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Những
khoản cho vay hoàn trả một lần, việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gáng nặng
đối với khách hàng. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản
cho vay ngắn hạn.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần:
Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất
định.
Cho vay hoàn trả nhiều lần thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn
thực hiện hợp đồng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành một gánh nặng lớn đối
với nhiều người có khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví dụ như các khoản trả góp
đóng vai trò như một phương tiện tích lũy. Nó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
2.3: Mối quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng Thương
mại.
NH là hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay do đó giữa hoạt động huy
đông và hoạt đọng sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn
vay, NH phải thực hiện công tác huy động. Nếu số lượng vốn huy động nhiều thì

NH có thể tăng cường hoạt động sử dụng vốn, khi đó ngân hàng có thể mở rộng các
khoản cho vay, các khoản đầu tư.
Tuy nhiên số lượng vốn huy động cơ cấu, loại hình, thời gian huy động lại phụ
thuộc vào phương hướng kinh doanh tức là vào chiến lược tín dụng của ngân hàng.
Trong trường hợp daonh số cho vay của ngân hàng không tăng nhưng để tăng lợi
nhuận, giảm bớt loại vốn huy động có lãi suất cao, tăng cường vốn huy động có lãi
suất thấp, giảm chi phí của việc huy động. Khi ngân hàng muốn thu hẹp hoạt động
tín dụng thì bắt buộc phải có sự thay đổi tương ứng trong hoạt dộng huy động nhằm
giảm bớt một cách tương ứng hàng phải gánh chịu nếu không có sự đồng bộ giữa
huy động và sử dụng.
Tóm lại, giữa huy động vốn và sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại lẫn nhau. Trong công tác quản lý hoạt động ngân hàng phải kết hợp
được một cách tối ưu hoạt động của công tác huy động vốn và công tác sử dụng
nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Để thực hiện tốt công tác này phải thực
hiện tốt công tác kia và ngược lại.
2.4: Hiệu quả của công tác huy động vốn của Ngân hàng Thương mại :
2.4.1: Hiệu quả của công tác huy động vốn:
Về phía xã hội : Để thực hiện được công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, cần một lượng vốn rất lớn làm tiền đề vật chất, vốn để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật , kết cấu hạ tầng, vốn để sản xuất kinh doanh.
Về phía ngân hàng, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng các
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hình thức kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận ngân hàng cần có
một lượng vốn lớn huy động từ các nguồn trong nước.
Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết kiệm dự
phòng. Hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc nào cũng được
sử dụng theo vụ mùa, theo chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.Do đó lượng
vốn nhàn rỗi trong khu vức này cũng rất là lớn. Nhiệm vụ to lớn của mỗi ngân hàng

là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn lớn này để đầu tư cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh, các công trình kinh tế xã hội biến chúng thành những đồng vốn
mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.
Để đạt được điều đó thì ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù hợp và
có hiệu quả . Hiệu quả của công tác huy động vốn trong ngân hàng phải được đánh
giá qua các khía cạnh sau đây :
Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của ngân hàng . Vốn huy
động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng , ổn định về số lượng để có thể thoả
mãn các nhu cầu cho vay , thanh toán cũng như hoạt động kinh doanh khác ngày
càng tăng của ngân hàng. Tuy nhiên vốn huy động phải được ổn định về mặt thời
gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn mà không ổn định về măt
thời gian , thường xuyên có một dòng tiền lớn có khả năng bị rút ra thì lượng vốn
dành cho vay, cho đầu tư sẽ không lớn Như vậy hiệu quả sử dụng sẽ không cao và
ngân hàng phải thường xuyên đối đầu với vốn để thanh khoản. Nhưng nếu ngân
hàng huy động được nguồn vốn ổn định thì ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn
vốn đó vào các hoạt động có thu nhập cao . Nhưng nói như vậy không có nghĩa là
nếu ngân hàng thấy có nguồn vốn ổn định thì sẽ huy động hết ngay hay ngựơc lại ,
mà việc huy động vốn của ngân hàng phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của ngân
hàng về vốn. Nếu huy động được ít thì ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng , Không đa dạng hoá được các hoạt động kinh doanh , không mở
rộng cạnh tranh đựơc và sẽ bị mất hết khách hàng . Còn nếu huy động nhiều mà
không sử dụng hết thì vốn sẽ bị “ đóng băng “ khiến lợi nhuận sẽ bị giảm sút , do
vẫn phải trả lãi và các chi phí kèm theo như chi bảo quản , kế toán , kho quỹ mà
không có khoản nào bù đắp lại .
Nói tóm lại , huy động vốn có hiệu quả là huy động vốn ổn định , vừa đủ đáp
ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng .
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.4.2: Hiệu quả của công tác sử dụng vốn :

Đối với các Ngân hàng Thương mại, cho vay có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển, mở rộng phạm vi kinh doanh. Tăng trưởng nguồn vốn và đạt được
mục tiêu lợi nhuận của bản thân ngân hàng đó. Nhận thấy được tầm quan trọng của
hoạt động cho vay, việc đánh giá hiệu quả của hoạt động này được phân tích qua
hai chỉ tiêu cơ bản.
- Quy mô cho vay:
- Doanh số cho vay : Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát có hệ
thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay,
chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng các khoản vay và phần rời của những
khoản vay trong một thời kỳ nhất định ( trong ngày, tháng, quý, năm ) nhưng đây
là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn của một ngân hàng, quy mô
đầu tư và cấp vốn tín dụng của ngân hàng đó đối với nền kinh tế quốc dân trong một
thời kỳ.
- Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế : Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện
được mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu
phản ánh phần vốn đầu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của ngân hàng mà
ngân hàng đã cho vay chưa thu về. Đồng thời, chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan
hệ với doanh số cho vay ( Dư nợ đầu kỳ +Doanh số cho vay - Doanh thu số nợ =
Dư nợ cuối kỳ ) với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại đối
với những nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.
- Doanh số thu nợ : Là chỉ tiêu phẩn ánh khả năng thu hồi nợ của những khoản
cho vay khi đến thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay / Khả năng giải quyết, xử lý vốn tồn đọng : Là chỉ tiêu phản ánh độ
nhạy bén, khả năng luân chuyển vốn tồn đọng theo chiều hướng đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng
- Tỷ trọng doanh số cho vay / Tổng số vốn huy động : Chỉ tiêu thể hiện khả
năng sử lý nguồn vốn huy động đảm bảo khả năng lợi nhuận đồng thời bảo đảm nhu
cầu thanh toán.
- Chất lượng cho vay :
- Tỷ lệ nợ quá hạn : Chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho vay và

khả năng bảo đảm của khoản vay đó trong một thời hạn nhất định. Thực chất, chỉ
tiêu cho biết sự luân chuyển lượng tiền mặt trong một ngân hàng, phản ánh phần
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chất đối với doanh số thu nợ. đây cũng là yếu tố đánh giá tính chất, trình độ quản lý
của những người làm ngân hàng và thể hiện một mặt biến động chung của nền kinh
tế.
- Tỷ trọng nợ quá hạn / Tổng thu nợ : Phản ánh khả năng thu hồi nợ của các
khoản vay thể hiện ở các khoản vay đã đến hạn trả nhưng không đủ luân chuyển
nguồn vốn đã cho vay tại một thời điểm và sự biến động của độ an toàn về vốn sẽ
tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm của tỷ trọng trên. Bên cạnh đó, còn có tỷ trọng nợ khó
đòi / Tổng thu nợ : Phản ánh tính chân thực có khả năng hoàn trả của các khoản vay
thể hiện ở chỉ tiêu này.
3: Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng
Thương mại
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
3.1.1: Các nhân tố khách quan.
3.1.1.1: Hành lang pháp lý.
Những bộ luật tác động đến hoạt động kinh doanh của NHTM như: luật các
TCTD, luật Ngân hàng Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài những luật này quy định
tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu,
quy định mức cho vay của NHTM đối với một khách hành hoặc các NHTM
không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa
vào lãi suất do ngân hàng Nhà nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất
đinh.
Chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng
thương mại. Thể hiện ở khía cạnh sau:
- Mục tiêu chính sách tiền tệ: Bình ổn giá, ổn định sức mua đồng tiền, tăng

trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát. Khi nhà nước có chính
sánh khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì các NHTM khó huy động vốn hơn
vì người có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn là gửi vào ngân hàng.
Mặt khác, khi nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền
gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM sẽ huy động vốn dễ dàng hơn.
- Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ:
+ Dự trữ bắt buộc: tăng sẽ làm giảm vốn khả dụng của NHTM, thắt chạt khả
năng tạo tiền của NHTM và ngược lại.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Lãi suất chiết khấu: nếu NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế các
NHTM đến xin vay và ngược lại.
- Chính sách đầu tư của Nhà nước: hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới môi trường kinh doanh không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả với ngân
hàng, qua đó ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng.
3.1.1.2: Tình hình kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
Khi nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều
kiện tích lũy nhiều hơn, do đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn của
ngân hàng. Mặt khác, nó cũng tạo ra môi trường đầu tư cho ngân hàng, từ đó ngân
hàng phải tìm ra biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực. Khi môi
trường đầu tư được mở rộng thì thu nhập của ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên,
tạo tiền đề cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Ngược lại, nền kinh tế trong
thời kỳ suy thoái sẽ cản trở hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
3.1.1.3: Thói quen của người tiêu dùng.
Ở những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức
cất trữ ( vàng, hàng hóa ) là chính thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp khó
khăn. Còn nếu người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ gửi tiền
vào ngân hàng nhiều hơn, do đó cơ hội huy động vốn của NHTM sẽ tăng lên
Mức thu nhập của người dân là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định

đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân tăng càng
cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dụng,
lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ ngày một tăng
lên.
3.1.1.4: Bảo hiểm của người tiêu dùng.
Để được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời bảo vệ lợi ích cho họ tránh được
những tổn thất, họ có thể được chi trả bảo hiểm tổn thất khi ngân hàng phá sản. Đối
với những người gửi tiền nhỏ, họ sẽ được công ty bảo hiểm hoàn trả hết số tiền mà
họ gửi vòa ngân hàng. Còn đối với những người gửi tiền với số lượng lớn thì phần
tiền vượt quá giới hạn bảo hiểm không thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm mà
phụ thuộc vào giá trị thanh lý tài sản của ngân hàng bị phá sản.
3.1.2: Các nhân tố chủ quan.
3.1.2.1: Hình thức huy động vốn.
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trwoncs hết phải đa dạng
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hóa hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ
huy động hơn. NH có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy
động tiền gửi: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, TGTK trong đó đưa ra
nhiều thời hạn khác nhau cho các loại TGTK có kỳ hạn
3.1.2.2: Lãi suất huy động.
Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp thì lãi suất không phải là vấn đè
mà họ quan tâm, mà họ quan tâm nhiều nhất đến việc sử dụng các dịch vụ thanh
toán từ ngân hàng ( tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động của ngân hàng còn bao
gồm: tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và TGTK của dân cư, họ gửi vào ngân
hàng nhằm mục đích hưởng lãi, vì vậy lãi suất là điều mà họ rất quan tâm, và
NHTM phải có chính sách lãi suất hợp lý, sao cho vừa đảm bảo kích thích người
gủi tiền, vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh việc huy động với giá cao mà
đầu tư với giá thấp. Các NHTM thường chia nhỏ lãi suất theo nhiều thời hạn khác

nhau, và không để ứ đọng vốn họ lại giảm lãi suất cho vay, nhưng vẫn phải đảm bỏa
kinh doanh có lãi.
3.1.2.3:Các dịch vụ do NH cung cấp.
Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn
các ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Ngân hàng có quầy thu cạnh đường, dịch vụ
ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động, làm việc suốt ngày đêm, và các
dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời gian sẽ là một lợi thế cho ngân
hàng trong việc thu hút khách hàng.
3.1.2.4: Năng lực và thái độ của cán bộ NH.
- Về phương diện quản lý: nếu ngân hàng quản lý tốt ngân hàng sẽ đảm bảo
được an toàn vốn, tăng uy tín, từ đó sẽ thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay
tiền
- Về trình độ nghiệp vụ: trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao, mọi
nghiệp vụ đều được thực hiện nhanh chón, chính xác và có hiệu quả, từ đó ngân
hàng có điều kiện mở rộng kinh doanh, giảm chi phí hoạt động và thu hút được
khác hàng.
- Về thái độ phục vụ: đây là yếu tố mang tính chất chủ quan tác động đên quy
mô tiền gửi. Nếu ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên luôn
cởi mở, nhiệt tình sẽ tạo được uy tín tốt với khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều
khách hàng đến giao dich, gửi tiền và ngược lại.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.1.2.5: Mạng lưới phục vụ cho công tác huy động vốn
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần trung tâm thương mại thì sẽ
thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động thường được biểu hiện qua việc tổ
chức các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có tiền nhàn rỗi sẽ ra quầy tiết kiệm gần nhà
nhất để gửi tiền nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại. Vì vậy, mạng lưới huy
động cần rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Mạng lưới nên mở ra
cả ở những nơi như: nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

3.1.2.6: Các dịch vụ do ngân hàng cung cấp
Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn
các ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Trong điều kiện địa bàn thiếu bãi đậu xe, nếu
ngân hàng có bãi đậu xe, tiện nghi rộng rãi cũng là một lợi thế. Hay như ngân hàng
có quầy thu cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động,
làm việc suất ngày đêm, và các dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời
gian sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
3.1.2.7: Công nghệ trong thanh toán và tin học
Ngày nay, công nghệ thanh toán hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt
càng chiếm ưu thế, thay vì thanh toán bằng tiền mặt, khách hàng chuyển sang thanh
toán bằng thẻ, séc…Để thực hiện được, khách hàng phải mở tài khoản tiền tại ngân
hàng nên ngân hàng thực hiện được việc huy động vốn trên các tài khoản này.
Nhờ có hệ thống tin học hiện đại ngân hàng có thể thu thập các thông tin tốt
về khách hàng, về thị trường, qua đó xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu
quả, phát triển nghiệp vụ và các dịch vụ của mình, giúp hạn chế rủi ro, tăng lợi
nhuận, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng vốn tự có.
3.1.2.8 Năng lực, thái độ và trình độ của cán bộ ngân hàng
- Về phương diện quản lý: nếu ngân hàng quản lý tốt ngân hàng sẽ đảm bảo
được an toàn vốn, tăng uy tín, từ đó sẽ thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay
tiền
- Về trình độ nghiệp vụ: trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao, mọi
nghiệp vụ đều được thực hiện nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả, từ đó ngân
hàng có điều kiện mở rộng kinh doanh, giảm chi phí hoạt động và thu hút được
khách hàng.
Đây là yếu tố mang tính chất chủ quan tác động đến quy mô tiền gửi. Nếu
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên luôn cởi mở, nhiệt
tình sẽ tạo được uy tín tốt với khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến

giao dịch, gửi tiền và ngược lại.
Thêm vào đó, một ngân hàng có cơ sở vật chất vững mạnh, một trụ sở làm
việc khang trang, sạch đẹp, phương tiện làm việc hiện đại sẽ tạo cho người gửi cảm
giác yên tâm hơn, giúp ngân hàng huy động vốn nhiều hơn.
3.1.2.9: Hoạt động cho vay và mức độ thâm niên của một ngân hàng
a/ Hoạt động cho vay
Nếu hình thức cho vay của ngân hàng càng mở rộng (không chỉ là cho vay
ngắn hạn, trung dài hạn mà còn cả cho vay hợp vốn, mua bán nợ ) sẽ buộc ngân
hàng phải lo lắng tìm kiếm nguồn vốn, huy động thế nào cho phù hợp. Mặt khác,
quá trình sử dụng vốn tốt sẽ giúp ngân hàng cải thiện thu nhập, làm tăng vốn tự có.
b/ Mức độ thâm niên của một ngân hàng
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng bao giờ họ cũng
tin tưởng vào một ngân hàng có thâm niên hơn là ngân hàng mới thành lập. Vì họ
cho rằng ngân hàng hoạt động lâu đời thì có thế lực, có uy tín, có kinh nghiệm, có
nguồn vốn lớn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên về một
khía cạnh nào đó cũng tạo ra lòng tin đối với khách hàng.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác sử dụng vốn của NHTM.
3.2.1. Ảnh hưởng của thẩm định tín dụng
Khi quyết định cung cấp một khoản vay, các ngân hàng bắt buộc phải có sự
thẩm đinh, thông qua đó, có thể đánh giá được tính hợp lý hiểu quả của dự án đầu tư
và đó cũng chính là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng các khoản vay. Đặc biệt,
những khoản vay trung và dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro, khả năng linh hoạt
kém nên thông qua công tác thẩm định, có thể đưa ra những quyết định đúng đắn
cho vay khối lượng bao nhiêu, thời gian bao lâu, từ đó bảo đảm tính ổn định của
cho vay.
3.2.2: Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong ngân hàng cung cấp những khoản vay.
Hơn nữa đánh giá rủi ro là công việc hết sức khó khăn do tính biến động và những
yếu tố chủ quan từ nhiều phía.
3.2.3: Ảnh hưởng của lãi suất cho vay

Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường, chính sách cho
vay và các hoạt động cho vay là những vấn đề phức tạp, chính sách lãi suất phải
thực sự là đòn bẩy kinh tế khuyến khích sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng
thời phải là công cụ đấu tranh chống cho vay nặng lãi và hạn chế những tiêu cực
trong hoạt động cho vay. Chúng ta biết hai chức năng cơ bản của ngân hàng là nhận
tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn mặc dù các dịch vụ kinh doanh
mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng nhưng rõ ràng hoạt động kinh
doanh chính của ngân hàng vẫn là những hoạt động với vai trò như một trung gian
tài chính, thanh toán lãi suất cho phần tiền gửi của khách hàng và tính lãi suất đối
với những khoản tiền cho khách hàng vay.
Với lãi suất cho vay quá cao: Tạo ra sự ngưng đọng vốn do doanh nghiệp
không chịu được mức chi phí cao đó nên họ ngừng xin việc vay vốn. Trong một
khoản thời gian tương đối dài như vậy những biến động tiêu cực lẫn tích cực, ngân
hàng không thể dự đoán trước chắc chán về khả năng sinh lời của mình trong tương
lai. Do đó, sẽ phát sinh hiện tượng vốn vẫn đọng trong két của ngân hàng trong khi
đó ở bên ngoài, các doanh nghiệp, hộ gia đình vẫn đang cố tìm kiếm những khoản
vay vốn với chi phí tối thiểu. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải thường xuyên phải
trả lãi cho những khoản tiền gửi, những khoản tiền đi vay của mình. Vì vậy, lãi suất
cho vay quá cao sẽ gây “ ách tắc” trong hoạt động cho vay. Lãi suất quá thấp: xảy ra
hiện tượng nhu cầu về các khoản vay của các doanh nghiệp, hộ gia đình trở nên
tăng. Với điều kiện nền kinh tế còn nhiều biến động, tỷ trọng tiền gửi trung và dài
hạn trên tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng là thấp, ngân hàng phải tăng
cường các hình thức huy động vốn “ đi vay để cho vay” để có thể đáp ứng được
phần nào nhu cầu vay vốn trên. Chính vì vậy, hoạt động cho vay sẽ trở nên khó
khăn nếu một mắt xích nào đó trong quá trình lưu chuyển vốn đị đứt hay đột ngột
chững lại. Lúc đó khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ không thể đáp ứng, gây lên
phản ứng lan truyền “ khủng hoảng ngân hàng” và mất đi độ tín nhiệm của khách

hàng đối với ngân hàng đó.
4: Kinh nghiệm huy động vốn ở một số ngân hàng quốc tế và bài học vận
dụng đối với các NHTM Việt Nam
4.1: Kinh nghiệm của một số NHTM quốc tế:
Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống như: nhận tiền gửi, phát hành
công cụ nợ. Một số NHTM lớn trên thế giới còn sử dụng nhiều các hình thức huy
động vốn khác nhau để huy động được nhiều vốn với hiệu quả cao
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tại Mỹ: thông qua mạng máy tính mà khách hàng được cung cấp hàng loạt
các dịch vụ kế toán. Ví dụ, ngân hàng sẽ trả lương vào tài khoản tiền gửi cá nhân
của từng người trong một công ty nào đó mà họ mở tài khoản tại ngân hàng. Người
nhận lương có thể yêu cầu ngân hàng trả bằng tiền mặt, séc hoặc gửi lại ngân hàng.
Vậy ngân hàng không phải mở sổ tiết kiệm mà chỉ cấp séc cho chủ tài khoản tuỳ ý
sử dụng, điều này tiện lợi cho cả hai bên vì nó làm giảm nhiều các thủ tục hành
chính, tiết kiệm thời gian, giúp ngân hàng có thể huy động được một lượng vốn khá
ổn định theo chu kỳ mà lại đảm bảo an toàn, thuận tiện cho khách hàng. Dịch vụ
này đã giúp các NHTM Mỹ thu hút được nhiều vốn hơn.
- Tại Anh: khi huy động vốn các NHTM thường đưa ra các tài khoản đa năng.
Đó là các tài khoản hỗn hợp với sự kết hợp của tài khoản vãng lai và tài khoản tiền
gửi. Với tài khoản này, khách hàng được phát hành sổ séc, số dư tài khoản được
tính lãi hợp lý và số dư càng lớn thì lãi suất càng cao. Đi kèm với loại tài khoản này
các NHTM còn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ trọn gói gọi là dịch vụ đa
năng bao gồm các loại thẻ đa năng: thẻ ghi nợ, thẻ séc, thẻ ATM tạo thuận lợi cho
khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng từ đó giúp ngân hàng mở rộng diện tiếp
xúc khách hàng, tăng quy mô vốn
- Tại Pháp: các NHTM lớn thường đưa ra các hình thức mở tài khoản tiền gửi
cá nhân để huy động vốn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng như mở tài khoản cá
nhân chuyên dùng cho những ai có khả năng và muốn giành tiền để tiêu dùng trong

tương lai. Mức ký gửi lần đầu là 750 Franc, sau đó mỗi lần gửi thêm 150 Franc. Đặc
biệt là sau một thời gian quy định chủ tài khoản có thể được ngân hàng cho vay đủ
số tiền chi trả cho việc mua sắm nhà, ô tô Nếu ký gửi nhiều tiền hơn mỗi lần thì
ngân hàng sẽ trả lãi suất cao hơn tuỳ theo lượng ký gửi. Ký gửi càng nhiều, lãi suất
càng cao
ở hầu hết các nước phát triển, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong
lĩnh vực ngân hàng đã hình thành nhiều dịch vụ ngân hàng tiện ích như tại Anh,
Mỹ, Nhật, Canada đặt các máy thanh toán (EFTPOS) tại những điểm bán hàng lớn
như: trạm xăng dầu, siêu thị cho phép khách hàng có thể thanh toán nhanh chóng,
thuận tiện hàng hoá, dịch vụ thông qua hệ thống điện tử. Người mua được cấp một
tấm thẻ nhựa, người bán kiểm tra thẻ thông qua máy đọc thẻ. Mọi thông tin được
gửi đến trung tâm xử lý sau đó được gửi đến ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra sau đó
thông báo đến cửa hàng xác nhận thanh toán. Tài khoản của người mua sẽ tự động
bị ghi nợ và ghi có vào tài khoản của người bán. Dịch vụ này giảm tối thiểu tiền mặt
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong lưu thông từ đó khắc phục được những hạn chế của giao dịch tiền mặt trong
nền kinh tế. Như vậy, sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhất là các
dịch vụ ngân hàng tại nhà đã mang đến cho khách hàng những lợi ích như: có thể
giao dịch với ngân hàng mọi nơi, mọi lúc một cách thường xuyên, nhanh chóng, an
toàn, hiệu quả
4.2: Bài học vận dụng với đối các NHTM Việt Nam
Việt Nam được xếp vào hàng các nước đang phát triển trên thế giới. Trình độ
dân trí cao không nhiều, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Hệ thống NHTM còn đang
trong giai đoạn phát triển các dịch vụ truyền thống là chủ yếu và bước đầu làm quen
với các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, theo xu thế chung, đến khi cơ sở hạ
tầng đủ tốt, nhận thức của người dân nâng cao và cùng với sự thay đổi của môi
trường kinh doanh thì các NHTM VN cần đầu tư trang thiết bị với công nghệ hiện
đại, xây dựng danh mục sản phẩm phong phú…nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của

khách hàng làm tăng sự gắn bó giữa ngân hàng với khách hàng, khiến ngân hàng trở
nên quen thuộc và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày.
Các NHTM VN cũng cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện chính
mình. Chủ động mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động, linh hoạt về lãi
suất cũng như phương thức trả lãi (trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ…). Chủ
động tìm kiếm khách hàng giúp mở rộng doanh số cho vay. Ngoài ra các NHTM
cũng cần phát triển các loại sản phẩm dịch vụ khác, đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ, nhân viên đặc biệt là phải nâng cao chất lượng phục vụ trong các giao dịch
nhận, gửi, chi trả, thanh toán nhằm tạo ấn tượng tốt với khách hàng.
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠ NG II
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NHNo&PTNT
HUYỆN TỨ KỲ TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2007 – 2010
1: Khái quát tình hình kinh tế TP Hải Dương và quá trình hình thành và
phát triển của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Tú Kỳ tỉnh Hải Dương.
1.1: Khái quát tình hình KT-XH của huyện Tứ Kỳ.
Trong những năm qua cùng với tác động tích cực của đà phục hồi kinh tế
trong nước. Kinh tế của huyện Tứ Kỳ tiếp tục ổn địnhk và phát triển, nhiều chỉ tiêu
đạt và vượt kế hoạch đạt ra. Tổng giá trị sản xuất thực hiện 1.705 tỷ đồng, đạt
105,18% kết hoạch so với năm 2009 thu nhập bình quân đầu người đạt 11,5 triệu
đồng / người/ năm ( năm 2009 là 7.3 triệu đồng/ người / năm). Các lĩnh vực văn
hóa- xã hội, đời sống nhân dân cơ bản ổn định; An ninh chính trị được đảm bảo.
Hết năm 2010 toàn huyện có khoảng 43.100 hộ, dân số 158 ngàn người, trong đó
có 4000 hộ kinh doanh trong toàn huyện.
Hoạt động ngân hàng ngày càng được hoàn thiện nâng cao tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của cơ sở. Hoạt động kinh doanh tiếp tục phát triển ổn định, tăng
trưởng vững chắc, cơ cấu tín dụng chuyển đổi mạnh mẽ theo đúng định hướng
NHNo&PTNT Việt Nam.

•Định hướng kế hoạch phát triển KT – XH năm 2011 của huyện Tứ Kỳ.
Năm 2011 là năm đầu của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015, có ý nghĩa quan trọng
trong việc đề ra các mục tiêu và thực hiện các mục tiêu đó trong các năm tiếp theo
cho kế hoạch 5 năm và thực hiện các mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế 10 năm 2011 – 2020.
Căn cứ phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước, thực trạng nền kinh tế của
huyện Tứ Kỳ và khả năng khai thác các nguồn lực cho đầu tư phát triển, dự kiến
một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch cho năm 2011 như sau:
* Về các chỉ tiêu kinh tế: ( so với năm 2010)
- Tổng sản phẩm trong nước ( GDP ) tăng: 6.5-7.5%
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng: 10-11%
- Giá trị nông nghiệp tăng:9-10%
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng: 6-7%
* Về các chỉ tiêu phát triển xã hội ( so năm 2010)
- Mức giảm tỷ lệ sinh:0.3%
- Số lao động được giải quyết việc làm là 52000 người.
- Tỷ lệ hộ đói nghèo còn 2% vào cuối năm 2011.
1.2: Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT chi nhánh
huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
Thực hiện nghị quyết quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 về việc chia tách tỉnh
Hải Hưng thành 2 tỉnh: Hải Dương và Hưng Yên. Thống đốc NHNN ra quyết định
giải thể NHNo tỉnh Hải Hưng và thành lập chi nhánh NHNo tỉnh Hải Dương và chi
nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên. Chi nhánh NHNo tỉnh Hải Dương được chính thức
hoạt động từ ngày 1/1/1997. Cùng thời gian đó NHNo huyện Tứ Kỳ cũng được
thành lập và đi vào hoạt động được tách ra từ NHNo huyện Tứ Lộc.
Ngày 17/6 1998 chi nhánh NHNo tỉnh Hải Dương chính thức lấy tên là
NHNo & PTNT tỉnh Hải Dương. NHNo huyện Tứ Kỳ cũng ra đời trong thời gian

đó là một trong 12 huyện thị trực thuộc tỉnh Hải Dương được chính thức lấy tên là
NHNo&PTNT huyện tứ kỳ. Trụ sở đạt tại thị trấn Tứ Kỳ huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải
Dương.
*) Sơ đồ mô hình tổ chức của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Tứ Kỳ.
NHNo&PTNT huyện Tứ Kỳ trực thuộc chi nhanh NHNo&PTNT tỉnh Hải
Dương, trụ sở giao dịch chính tại thị trấn Tứ Kỳ. Mô hình tổ chức bao gồm 2 phòng
ban: Phòng kế toán- Ngân quĩ, phòng tín dụng và 2 phòng giao dịch đặt tại: Hưng
Đạo và Cầu Xe với tổng số cán bộ công nhân viên là 37 người, trong đó có 84% là
trình độ đại học và còn lại là cao đẳng và trung cấp.

Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sơ đồ NHNo& PTNT huyện Tứ Kỳ
2: Tình hình huy động vốn của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
chi nhánh huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
2.1: Nguồn vốn nội tệ
Nguồn vốn nội tệ bao gồm các hình thức huy động với các mức lãi suất khác
nhau như: tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiển gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi từ
ngân hàng trung ương.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu được huy động từ các nguồn sau:
*) Nội tệ: Bao gồm các hình thức huy động với các mức lãi suất khác nhau
như:
- Tiền gửi tiết kiệm dân cư
- Tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức kinh tế
- Tiền ủy thác đầu tư.
Trước tiên chúng ta hãy xem xét tình hình huy động vốn của ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tứ Kỳ qua các năm thể hiện dưới bảng sau
đây:
Vũ Hảo Tình Lớp: KTPT 49B

Phó Giám Đốc phụ trách tín dụng và PGĐ phụ
trách kế toán
Phòng
giao dich
Hưng
Đạo
Phòng
Tín
dụng
Phòng
giao
dich
Cầu Xe
I
Phòng
Kế toán
Giám Đốc
25

×