MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………….5
NỘI DUNG ……………………………………………………………………….7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC …………………….......7
1.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta………………………………………………………………………..........7
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước………7
1.1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước……………………………….......7
1.1.2.1. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm………7
1.1.2.2. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà
nước………………………………………………………………………………..8
1.1.2.3. Cạnh tranh với khu vực tư nhân……………………………………….......8
1.1.3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ………………………………………9
1.1.3.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước……………………..9
1.1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay……………………………………………………………………...9
1.2.Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN……………………………..11
1.2.1.Cơ sở lí luận của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước…………………….11
1.2.1.1.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của C.Mác.............11
1.2.1.2.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của Đảng và Nhà
nước………………………………………………………………………………14
1.2.2.Thực tiễn cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước……………………………16
1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN của một số nước trên thế giới
…………………………………………………………………………………..18
1.3.1.Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc……………………………………….18
1
1.3.2.Cổ phần hóa DNNN ở một số nước khác………………………………....20
1.3.3. Một số điều rút ra từ cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới…………….21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM QUA………………………………………………….23
2.1. Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam………………………………..23
2.1.1. Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996) CPH tự nguyện……………………………...24
2.1.2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm……………..26
2.1.3. Giai đoạn 3(6/1998-5/2002) Tăng tốc chương trình CPH ……………........27
2.1.4. Giai đoạn 4 (6/2002-nay)…………………………………………………...28
2.2. Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam ………….32
2.2.1. Những thành tựu……………………………………………………………33
2.2.1.1. Những thành tựu mang tính định lượng………………………………….33
2.2.1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động ………………………………………………………….35
2.2.1.2.1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ
phần hóa ……………………………………………………………....................35
2.2.1.2.2. Về huy động vốn………………………………………………………36
2.2.1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
…………………………………………………………………………………….37
2.2.2. Những hạn chế……………………………………………………………..38
2.2.2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ
phần hóa còn chậm……………………………………………………………….38
2.2.2.2. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ
và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần
hoá một doanh nghiệp còn quá dài ………………………………………………40
2
2.2.2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ, việc
thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập ………………..41
2.2.2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn chưa chặt chẽ ………………………………42
2.2.2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về
quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm
hưởng ứng tích cực của xã hội …………………………………………………...42
2.2.2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp ………………………..43
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY
NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.44
3.1. Bối cảnh mới ………………………………………………………………...44
3.2. Yêu cầu của vấn đề Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện
mới …………………………………………………………………………….…45
3.3. Giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN …………………...46
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………...51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………...52
3
LỜI MỞ ĐẦU
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, nước ta đã chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển đổi này, các Doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) là một bộ phận trọng yếu của kinh tế Nhà nước đã bộc lộ nhiều bất cập,
hoạt động kém hiệu quả, chưa thực sự tương xứng với vai trò chủ đạo của nó trong
nền kinh tế nhiều thành phần, cụ thể như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ
chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa
sút.... Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có các
chủ trương về đổi mới các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực
kinh tế Nhà nước. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, như: cổ phần hoá
một bộ phận DNNN, sắp xếp lại các DNNN, bán khoán, cho thuê, hay giải thể các
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... trong đó có giải pháp chuyển đổi một số
DNNN thành Công ty cổ phần (CTCP) hay Cổ phần hoá (CPH) các DNNN được
coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng
như cho nhiều bộ phận xã hội khác.
Hơn nữa, theo kinh nghiệm của một số nước phát triển, việc CPH đã đem lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm với lợi
ích của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo hơn, có
trách nhiệm hơn với công việc kinh doanh của mình. Từ đó hiệu quả kinh tế - xã
hội được nâng cao rõ rệt.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay,
đòi hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị,
4
như vậy sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về CPH trong thời điểm hiện nay tuy không
phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiều nội dung của chính
sách CPH và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan
hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn hạn chế của CPH, từ đó có thể đưa ra
một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
Với mong muốn đóng góp một phần công sức trong việc đẩy nhanh tiến độ
CPH DNNN ở nước ta, em đã chọn đề tài “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt Nam: lí luận và thực tiễn” .
Nghiên cứu vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, niên luận của em
được chia làm 3 phần chính như sau:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lí luận và kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Phần thứ hai: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
trong những năm qua.
Phần thứ ba: Quan điểm và một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình
Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà .
Trong khuôn khổ bài viết có hạn, nên không tránh khỏi sai sót. Em rất mong
nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô giáo, để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn !
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta.
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
Dưới góc độ chủ sở hữu, Doanh nghiệp được gọi là DNNN khi Nhà nước là
chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu Nhà nước (sở hữu
toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột, về mặt kinh tế nó
được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân. Trên nền tảng sở
hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có kế hoạch, hiệu
quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối.
Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không
tốt như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là
các Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà
nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong
điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động
của các DNNN có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh đó việc sử dụng
các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các DNNN phải có
những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng sẽ thất bại trong cạnh tranh,
trong điều kiện hội nhập hiện nay.
1.1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
1.1.2.1. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm.
DNNN nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài
nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các Doanh nghiệp lại sử
6
dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước
tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt
đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao
của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.
1.1.2.2. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà
nước
Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các DNNN hoàn toàn không rõ
ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của mình là
bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng giảm
như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì Doanh nghiệp kém hiệu quả, Nhà
nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như: xoá
nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối
cùng, không ai biết DNNN nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi DNNN. Không nên
quên rằng DNNN là phương tiện chứ không phải mục đích. Không thể lấy tiền của
dân chúng để nuôi một vài Doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ
quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do
bảo vệ người lao động. Nhưng tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân
chúng đóng góp, trong đó có không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà
nước phải là của toàn dân chứ không phải của riêng các DNNN và Nhà nước cần
hành động vì lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người
trong DNNN.
1.1.2.3. Cạnh tranh với khu vực tư nhân.
Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang
hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, DNNN không phải chỉ
cạnh tranh với các Doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các Doanh nghiệp
tư nhân rất mạnh của nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp
7
nhận việc Nhà nước giữ độc quyền cho các Doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh
bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với
tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới.
1.1.3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
1.1.3.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ
“cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân
dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty
hợp danh.
Vậy Cổ phần hóa DNNN là gì? “ Cổ phần hóa DNNN là đột phá vào sở hữu
nhà nước của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) mô hình cũ, theo tư duy mới của Đảng ta
về sở hữu Xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và cụ thể
hóa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì thế, CPH DNNN thực sự là một nhiệm
vụ chính trị quan trọng, rất nhạy cảm.
1.1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các DNNN, vấn đề cải cách DNNN từ lâu
là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều giải pháp cải cách được
thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là trước thời điểm thực hiện CPH,
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp
quốc doanh (DNNN theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp
cải cách DNNN được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu
quả của DNNN hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua lỗ,
tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của DNNN ở nước ta. Nhiều
DNNN đã trở thành bình phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế,
lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả hạn chế của
8
các biện pháp cải cách DNNN đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy
dễ dàng được thừa nhận khá rộng rãi là DNNN thực tế không có chủ nhân thực sự.
Nhà nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong DNNN ít quan
tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi mình đang
làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi DNNN đã bên bờ phá sản.
Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu trong DNNN chính là cội nguồn
của những căn bệnh mà chúng gặp phải.
Cải cách DNNN có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau như: bán
DNNN, cho thuê DNNN, cải cách cơ chế quản lý DNNN… Cổ phần hoá DNNN
chỉ là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Tuy
nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho
thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát
triển hiện nay.
Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí điểm thí điểm từ
năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số
143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được thực hiện với
quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội Đảng lần
thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt để hơn
đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ phần
hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu
kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn
đề sở hữu.
Những giải pháp cải cách DNNN khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý
theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà nước trong một
hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá Doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ mô
mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là
9
giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám
nghĩđến chứ chưa nói là triển khai nó.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN
Quá trình cổ phần hóa DNNN có cả những thành công và những va vấp lệch
lạc. Những thành công chủ yếu là gặt hái được nhiều kinh nghiệm, làm sáng tỏ
thêm nhiều vấn đề không chỉ trong phạm vi cổ phần hóa mà cả trong những lĩnh
vực hệ trọng hơn, như sản xuất đổi mới DNNN và cơ chế quản lý.
1.2.1. Cơ sở lí luận của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước
1.2.1.1. Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của C.Mác
Về thực chất hình thức Công ty cổ phần đầu tiên được C.Mác đánh giá và
khái quát một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các Công ty cổ phần là
một bước tiến của lực lượng sản xuất.
- Các Công ty cổ phần đã biến những người sở hữu tư bản thành những người sở
hữu thuần túy. Một mặt chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của người khác.
Mặt khác là những nhà tư bản – tiền tệ thuần túy. Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn
tách rời chức năng của nhà tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế.
- Làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với các
doanh nghiệp riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản
với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở
ngay trong lòng nó.
- Các Công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá
trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những
chức năng của những người sản xuất liên hợp, tức là thành những chức năng xã
hội.
Bên cạnh những thành công đó thì C.Mác cũng phân tích những hạn chế
(tiêu cực) của các Công ty cổ phần. C.Mác chủ yếu phân tích những ảnh hưởng của
10
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, so sánh Công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa
với Công ty hợp tác của công nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản có thể hình thức sản
xuất mới này sẽ đưa đến việc thiết lập độc quyền và đưa đến sự can thiệp của Nhà
nước.
Như vậy sự xuất hiện của các Công ty cổ phần theo lí luận của C.Mác là kết
quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước tiến từ sở hữu tư nhân lên
sở hữu tập thể của các cổ đông.
Quá trình cổ phần hóa là một bộ phận DNNN ở nước ta có nhiều nét đặc thù,
đó là cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sở hữu
xã hội, toàn dân. Mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành Công
ty cố phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với tính chất trình độ của
lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của DNNN. Cụ thể là tìm một hình thức
quản lí vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa đảm bảo quản lí một
cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. Chúng ta đã đưa ra nhiều hình thức
Công ty cổ phần nhưng có thể gói gọn trong 2 nhóm chính:
- Nhóm các Công ty cổ phần trong đó nhà nước có tham gia cổ phần như: giữ
nguyên giá trị của doanh nghiệp kêu gọi, thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ
phiếu, bán một phần tài sản doanh nghiệp, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp.
Tất cả các hình thức cổ phần hóa theo 3 dạng trên thì nhà nước hoặc là nắm giữ cổ
phiếu khống chế (51%) hoặc là không nắm giữ cổ phiếu khống chế.
- Loại hình cổ phần hóa theo thể thức nhà nước bán toàn bộ doanh nghiệp cho
người lao động: nhằm rút vốn, đầu tư vào những ngành lĩnh vực quan trọng, then
chốt, địa bàn quan trọng, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các
ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế.
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào thì Công ty cổ phần là một loại hình
doanh nghiệp đa sở hữu. Khi người lao động tham gia mua cổ phần của doanh
nghiệp thì họ cũng đã gắn lợi ích của bản thân vào lợi ích của doanh nghiệp, tạo ra
11
sự giám sát tập thể đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra cơ chế
phân phối hài hòa giữa doanh nghiệp, nhà nước và người lao động. Nhờ đó mà
hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có điều kiện được nâng lên.
Như vậy có thể nói quá trình cổ phần hóa một bộ phận của DNNN không
phải là quá trình tư nhân hóa. Bởi vì nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, những
lĩnh vực cần thiết, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước không được củng
cố mà còn có thể bị yếu đi nếu cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả
thấp, năng lực cạnh tranh kém. Việc bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với
các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ, những lĩnh vực mà khu vực tư
nhân hoàn toàn có thể làm tốt hơn DNNN. Nhà nước sẽ lựa chọn hình thức bán
phù hợp và nếu bán theo cách để cho người lao động có cổ phần ưu đãi hay cổ
phần không chia thì rõ ràng không thể nói đó là tư nhân hóa.
Cổ phần hóa cũng xuất phát từ yêu cầu đổi mới DNNN. DNNN nắm trong
tay những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực.
Việc sử dụng lãng phí, không hieuj quả cao các nguồn lực khan hiếm là một trong
những nhân tố làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế của nước ta. Tốc độ tăng
trưởng cao của nền kinh tế nước ta trong những năm qua không có nghĩa là nền
kinh tế nước ta đang vận hành trơn tru, mà sự tăng trưởng cao đó như các tổ chức
kinh tế thế giới đã cảnh báo là do chúng ta có xuất phát điểm thấp. Hiện nay mối
quan hệ giữa nhà nước và các DNNN là không rõ ràng, để duy trì các doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp trực tiếp
và gián tiếp như: xóa nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng… Và như vậy
DNNN trở thành đối tượng “trợ cấp” của xã hội, và xã hội trở thành chỗ bấu víu
cho các DNNN làm ăn thua lỗ. Theo Báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại
giá trị tài sản của DNNN thì thực trạng như sau: “Tổng giá trị tài sản của DNNN
theo sổ sách là 517.654 tỷ đồng, theo giá kiểm kê xác định lại là 527.256 tỷ đồng;
số nợ phải thu là 187.091 tỷ đồng chiếm 35% giá trị tài sản của doanh nghiệp, gấp
12
1,43 lần vốn kinh doanh; hàng hóa tồn kho là 45.688 tỷ đồng, trong đó hàng ứ
đọng, mất phẩm chất không dùng đến là 1.600 tỷ đồng; doanh nghiệp có một đồng
vốn thì phải vay hoặc chiếm dụng 1,2 tỷ đồng cho kinh doanh, hệ số vốn vay và
vốn chiếm dụng so với vốn sở hữu là 1,8 lần; tổng số nợ phải trả là 353.410 tỷ
đồng, bằng 2,3 lần vốn nhà nước cấp, gấp 2 lần nợ phải thu trong đó nợ quá hạn
phải trả là 10.171 tỷ đồng” [ theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài
sản DNNN tại thời điểm 0h ngày 01-01-2000]. Và thời điểm kiểm kê đánh giá tiếp
theo dự kiến sẽ là vào 0h ngày 01-01-2011.
Yêu cầu đổi mới DNNN còn phát sinh từ cạnh tranh với khu vực kinh tế tư
nhân đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Mặt khác, trong quá trình hội
nhập DNNN không chỉ cạnh tranh với các DNNN trong nước mà còn cả với các
doanh nghiệp khác của nước ngoài. Cạnh tranh trên thị trường không chấp nhận sự
bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp của mình mà cạnh tranh bình đẳng
đòi hỏi nhà nước không chỉ xóa đọc quyền mà cả bao cấp. Như vậy cổ phần hóa là
một giả pháp tốt cho nền kinh tế nước ta nói chung cũng như các DNNN nói riêng.
1.2.1.2. Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của Đảng và
Nhà nước.
Nói đến quan điểm về cổ phần hóa, trước hết ta phải khẳng định cổ phần hóa
không phải là tư nhân hóa. Cổ phần hóa là một nội dung đa dạng hóa sở hữu, là
quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ
thể, trong đó Nhà nước là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hóa là chuyển sở hữu Nhà
nước thành sở hữu tư nhân, Nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một phần vốn
và tài sản nào.
Qua những phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các DNNN sản xuất
kém hiệu quả, ta thấy Cổ phần hóa là con đường tối ưu để các doanh nghiệp này
tồn tại và phát triển. Việc đẩy mạnh Cổ phần hóa được Đảng và Nhà nước khẳng
định tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) là “Triển khai vững chắc và
13
tích cực cổ phần hóa DNNN để huy động thêm vốn tạo động lực thúc đẩy DNNN
làm ăn có hiệu quả, vốn huy động được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh”. Cổ phần hóa là công cụ huy động vốn hiệu quả cao. Thực chất của vấn đề
cổ phần hóa là tối ưu hóa việc huy động khó khăn hoặc đang giảm sút như huy
động vốn qua ngân hàng, đầu tư nước ngoài… quan điểm này cần được phổ biến
rộng rãi đến các chủ thể có khă năng mua cố phiếu.
Đứng trên góc độ người lao động thì Cổ phần hóa chính là một cơ hội để
vươn lên làm chủ sản xuất. Động lực này thúc đẩy người lao động làm việc hăng
say hơn, năng suất hơn và chất lượng cao hơn. Do đó, Cổ phần hóa phải tạo điều
kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, có như vậy thì mới phát
triển được sản xuất.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước chỉ rõ: “Cổ phần hóa một số DNNN
không phải là tư nhân hóa nền kinh tế mà là quá trình giảm bớt sở hữu Nhà nước
trong các DNNN và đa dạng hóa sở hữu. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan
hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, tạo động lực phát triển trong doanh nghiệp,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh”. Đảng và Nhà nước cũng khẳng định “Cổ
phần hóa DNNN không có nghĩa là làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước, mà là
một trong các giải pháp quan trọng để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong
sản xuất kinh doanh của các DNNN hiện nay nhằm phát huy vai trò chủ đạo thực
sự của chúng trong nền kinh tế thị trường”.
Như vậy, Cổ phần hóa DNNN được Đảng và Nhà nước khẳng định và chỉ rõ
như là giải pháp mang tính chất bước ngoặt để DNNN tồn tại và phát triển trong xu
hướng xã hội hóa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
1.2.2. Thực tiễn cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước.
DNNN có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước TBCN.
Sự tồn tại của DNNN ở các nước TBCN là một tất yếu khách quan. Khi mà những
14
cuộc khủng hoảng liên tục của CNTB vào những năm đầu của thế kỉ XIX đã chứng
minh sự sụp đổ của học thuyết “bàn tay vô hình”. Sự can thiệp của Nhà nước vào
hoạt động của nền kinh tế là rất cần thiết để duy trì sự phát triển cân đối của nền
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của DNNN ở nhiều nươc đều vấp phải
tình trạng chung là hiệu quả thấp, tham nhũng, lãng phí… Vì thế cải cách DNNN
là một điều tất yếu; Có nhiều cách thức để cái cách DNNN nhưng tư nhân hóa là
biện pháp được sử dụng rộng rãi nhất và đem lại nhiều kết quả khă quan nhất. Tư
nhân hóa được tiến hành mạnh mẽ ở các nước có nền kinh tế phát triển mạnh như
Hàn Quốc, Singapo, Nam Phi,…cũng như các nước đang phát triển và các nước
phát triển và nó đang trở thành một xu thế mang tính chất roàn cầu. Là một nước
xã hội chủ nghĩa, có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng gần giống với Việt
Nam. Trung Quốc cũng tiến hành cải cách DNNN và thực tiễn cái cách DNNN ở
Trung Quốc đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Cái cách DNNN ở
Trung Quốc được thực hiện khá rộng rãi và thành công, thực sự là một kinh
nghiệm cho việc cải cách DNNN mà không cần phải tư nhân hóa hàng loạt. Cải
cách DNNN bắt đầu từ năm 1984. Cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn này thực sự
trở thành chiến lược của Trung Quốc trong việc hiện đại hóa và phát triển kinh tế,
đã thể hiện rõ rệt hiệu quả của khu vực kinh tế công cũng như nâng cao hiệu quả
hoạt động của DNNN.
Phải nói rằng cụm từ “cổ phần” đã rất quen thuộc hơn nhiều năm nay, kể từ
khi Đảng ta đã lập hợp tác xã mua bán, hợp tác tín dụng, lập cửa hàng xí nghiệp
công tư hợp doanh và đã được phát triển rộng khắp. Trước sức ép đẩy nhanh việc
cổ phần hóa, một số địa phương và DNNN đã tìm mọi cách để đạt được chỉ tiêu kế
hoạch. Nếu chọn đơn vị kém hấp dẫn để cổ phần hóa thì cổ phần hóa thường rất bế
tắc vì xuất phát từ tâm lí chủ quan của mọi người là ai cũng muốn bảo toàn lợi ích
của mình, không ai muốn rủi ro vì thế không ai muốn bỏ ra để mua cổ phần. Bởi
vậy để có thể suôn sẻ việc chọn đơn vị nào đang làm ăn được, đang có triển vọng
15
được coi là một giải pháp hữu hiệu dễ được cán bộ công nhân viên và người ngoài
doanh nghiệp chấp nhận việc mua cổ phần. Nếu chỉ là DNNN thuần túy thì cơ chế
tài chính rất ngặt nghèo, dù làm ăn có hiệu quả, lãi lớn thì tiền lương vẫn bị khống
chế, không được tăng lên tương ứng. Sự xuất hiện của công ty cổ phần đã phần nào
khắc phục được những hạn chế đó. Nhưng qua thực tế thì rõ ràng không phải cổ
phần hóa là một phép màu làm cho các công ty cổ phần bỗng nhiên phát đạt, bởi vì
nếu không có sự “hỗ trợ” của các DNNN thì các công ty đó mất rất nhiều hợp đồng
kinh tế, mất việc làm và có thể dẫn đến sa sút ngay. Điều này càng chứng tỏ cổ
phần hóa làm sáng tỏ nhu cầu và nội dung đổi mới DNNN, đó là phải đồng bộ cả
về sắp xếp cải tiến hoạt động của doanh nghiệp cà cơ chế chính sách đối với nó để
đảm bảo động lực phát triển, nhân tố khích thích sự hăng hái sáng tạo, nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
Các công ty thành viên hoặc bộ phận trong DNNN sau khi cổ phần hóa về
nguyên tắc coi như đã tách khỏi doanh nghiệp mẹ. Nhưng xét về thực chất thì công
ty cổ phần mới vẫn gắn chặt với công ty mẹ và thông thường không muốn rời bỏ
quan hệ mật thiết trong hệ thống của tổng công ty đa sở hữu với thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ đạo ở đây bắt nguồn từ khả năng chi phối
bằng sức mạnh kinh tế, từ lợi ích mà thành phần kinh tế chủ đạo dẫn dắt và mang
lại cho các thành phần kinh tế khác. Trong thực tế đã bắt đầu xuất hiện công ty đa
sở hữu kiểu này ở một vài DNNN có quy mô lớn nhưng mô hình này chưa được
thể chế hóa và nhân rộng. Khi mô hình này được phát triển thì sẽ ẩn chứa khả năng
hình thành các công ty đầu tư hoặc kinh doanh tài sản của Nhà nước, qua đó quyền
sở hữu tài sản của doanh nghiệp sẽ chuyển thành quyền sở hữu giá trị dưới hình
thức phổ biến là cổ phiếu.
Trong nền kinh tế thị trường các công ty cổ phần, các công ty TNHH, công
ty tư nhân… đầu tư mua chứng khoán của nhau, đan xen xâm nhập nhau tạo nên
những hình thái doanh nghiệp đa sở hữu, tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh
16
nhưng lại gắn kết các thành viên trong xã hội ở hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể nói đây là xu hướng tích cực, ngày cành phổ biến làm cho
các thành viên tong nền kinh tế có thể hợp sức nhau lại tạo nên một động lực mới
cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
1.3. Kinh nghệm cổ phần hóa DNNN của một số nước trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu thí điểm CPH từ những năm 1984, họ đã gặt hái được
những kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22-25/8/1993 tại Hàng Châu chính phủ tổ
chức hội nghị thảo luận về ba năm thực hiện cổ phần hóa.
Chỉ tính 5 tỉnh của thành phố - Thẩm Dương, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng
Châu, Thiềm Tây đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh cổ phần hóa với số vốn lên
tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 25/7/1984 thành lập công ty cổ phần của cả
nước với số vốn cổ phần bên ngoài công ty lên tới 5318000 nhân dân tệ chiếm
73,6% tổng giá trị của doanh nghiệp.
Các công ty cổ phần của Trung Quốc được hình thành chủ yếu theo 3 cách:
Bán cổ phiếu cho công nhân viên chức trong nội bộ doanh nghiệp; Phát hành cổ
phiếu công khai ra xã hội; Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu
giữa các doanh nghiệp…
Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm cổ phần hóa
cho thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng
đắn và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu
rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản
pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp.
Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã
đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một
số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ
phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành cổ phần hóa, Chính phủ
17
Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài
sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các
DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho
người lao động. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, Chính phủ đã tạo điều
kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt
được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau
khi cổ phần hóa mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo
điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài
chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán
bộ lãnh đạo và công nhân viên chức của doanh nghiệp v.v…
Tính đến năm 2000, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN chuyển thành Công ty
cổ phần với tổng số vốn trên 600 tỷ NDT. Nhiều Công ty cổ phần đã tham gia thị
trường chứng khoán Thượng Hải, Thẩm Quyến, một số công ty đã niêm yết trên thị
trường chứng khoán nước ngoài… Sau khi cổ phần hóa, quyền tài sản trong các
DN sẽ được chia thành 3 cấp: Quyền sở hữu cuối cùng (Nhà nước), quyền sở hữu
pháp nhân (DN) và quyền quản lý kinh doanh (Tổng giám đốc).
Cũng đến cuối năm 2000, Trung Quốc đã có hơn 4.300 Công ty hữu hạn
đăng ký hoạt động theo Luật DN với tổng số vốn cổ phần đạt hơn 360 tỷ NDT,
trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ NDT là giá trị cổ phần phát
hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung
Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai
trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội
bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản
và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật
nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế
18
độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ
công hữu”.
1.3.2. Cổ phần hóa DNNN ở một số nước khác
Tại mỗi nước khác nhau CPH DNNN được hình thành bằng các con đường
khác nhau và mức độ cũng khác nhau, cụ thể như:
Bán các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất, rừng, tài nguyên thuộc về
sở hữu của Nhà nước. Điển hình phương thức này là Úc.
Thực hiện cải cách kinh tế nhưng không chấp nhận loại bỏ sở hữu Nhà nước.
Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc là những nước thực hiện phương thức này.
Chấp nhận xóa bỏ quyền sở hữu Nhà nước. Các nước thực hiện cổ phần hóa
theo khuynh hướng này là Philippin và Xrilanca. Người ta cho rằng quyền sở hữu
thuộc Nhà nước hay tư nhân không quan trọng, họ chỉ cần doanh nghiệp nào mang
lại lợi ích thiết thực cho các thành viên trong doanh nghiệp và cho xã hội.
Dù còn nhiều khác biệt song các bước tiến hành cổ phần hóa các DNNN ở
hầu hết các nước thuộc khu vực này đều có những nét tương đồng:
Lập kế hoạch cổ phần hóa bao gồm: Đánh giá thực trạng và tiềm năng của
doanh nghiệp, đề xuất loại hình mà doanh nghiệp thích hợp.
Xem xét các khía cạnh luật pháp những văn bản luật nào liên quan trực tiếp
đến loại hình hoạt động của doanh nghiệp. Các hợp đồng mà xí nghiệp đã đăng ký
thực hiện chúng đến đâu vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất cả trước và sau khi cổ
phần hóa. Các quan hệ công việc, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới hợp đồng
công việc. Các vấn đề về vốn, kể cả vốn cố định và lưu động, những khoản tín
dụng nguồn vốn và khả năng, năng lực sản xuất của doanh nghiệp và các vấn đề
liên quan.
Vấn đề cuối cùng là về thuế và vấn đề tài chính càn xử lý doanh nghiệp đã
giải quyết đến đâu và còn những vướng mắc gì.
1.3.3. Một số điều rút ra từ cổ phần hóa DNNN ở một số nước trên thế giới.
19
Sự phát triển ồ ạt DNNN và không xác định được quy mô hợp lý của khu
vực này là một gánh nặng cho kế hoạch đầu tư ở nhiều nước. Điều này vượt quá
sức chịu đựng của nhiều nền kinh tế. Bởi vậy cổ phần hóa DNNN là điều không
thể tránh khỏi.
Để tiến hành cổ phần hóa có hiệu quả ở các nước hầu hết người ta lập các ủy
ban cơ quan chuyên trách quốc gia, cơ quan đó phải gồm những người được giao
thực quyền.
Hình thức cổ phần hóa rất phong phú. Cách làm nhiều nước rất mềm dẻo dễ
chấp nhận trong điều kiện có nhiều giới còn e ngại hoặc chống đối. Những bài học
kinh nghiệm có thể rút ra từ việc nghiên cứu cổ phần hóa ở các nước trên thế giới
là:
Cổ phần hóa phải được nghiên cứu toàn diện. Nó không phải là mục đích tự
thân mà là một bộ phận trong một chương trình cải cách rộng lớn hơn. Nhằm thúc
đẩy bố trí tốt hơn các nguồn lực, khuyến khích cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế, phát triển thị trường vốn.
Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phương án lựa chọn trước khi hành
động có thể dẫn đến những sai sót tốn kém nhiều, chương trình bán xí nghiệp mới
chỉ chú trọng đến hiệu quả thu hồi trước mắt nhưng lại chưa quan tâm tìm cách bảo
đảm tài chính lâu dài.
Trong trường hợp thị trường vốn chưa phát triển thậm chí còn yếu kém thì
việc cổ phần hóa cần phải thận trọng và phải cụ thể hóa trong chủ trương bán một
phần tài sản, điều kiện tài chính là tiên quyết, nếu không trong tình trạng nền kinh
tế sẽ bất thường. Nhiều nước đã thu hẹp thị trường tài sản của mình bằng cách giới
hạn hoặc loại trừ sự tham gia của người nước ngoài, xây dựng một chiến lược cổ
phần hóa và phân loại xí nghiệp quốc doanh.
Cũng nên tham khảo cách mà các nước mà mới đây là Trung Quốc thực hiện
với các doanh nghiệp tầm cỡ. Chính phủ các nước này thuê một công ty định giá.
20
Việc định giá được xác định trên cơ sở giá thị trường của doanh nghiệp (maket
cap), chứ không phải giá thị trường của tài sản cố định. Mức giá này sẽ dao động
trong mức giá trần và sàn, nhà đầu tư được đăng ký mua tự do trong khoảng giá
nhất định. Sau đó, Chính phủ sẽ đưa ra cơ cấu của cổ đông doanh nghiệp, chú
trọng tới nhà đầu tư nhỏ lẻ và cán bộ công nhân viên. Áp dụng giá trần và sàn sẽ
tránh được việc đấu giá nhiều lần do nhà đầu tư bỏ cuộc gây nên, kéo dài cổ phần
hóa doanh nghiệp.
Việc cổ phần hóa yêu cầu phải có các cán bộ có trình độ quản lý một chương
trình cổ phần hóa là công việc phức tạp trong khi các quan chức Chính phủ chưa có
đầy đủ các năng lực cần thiết. Mặt khác Nhà nước thường ở thế yếu trong thương
lượng các xí nghiệp không hấp dẫn, lại thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm trong
việc bán tài sản. Trong những trường hợp như vậy thường thấy là tài sản bị đánh
giá thấp hơn giá trị thực tế của nó. Cuối cùng điều cần phải có là sự công khai và
lòng tin tưởng của quần chúng đối với chương trình cổ phần hóa.
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM QUA
2.1. Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam
Cổ phần hóa là một phần quan trọng trong cải cách hệ thống DNNN của
nhiều quốc gia trên thế giới kể từ đầu thập niên 80 của thế kỉ XX ở Việt Nam, Cổ
phần hóa DNNN là một quá trình tìm tòi thử nghiệm và từng bước tháo gỡ khó
khăn trong quá trình triển khai. Trong quá trình đó Đảng ta không ngừng đổi mới
tư duy, từng bước chỉ đạo đúng đắn Cổ phần hóa góp phần sắp xếp, củng cố, phát
triển và nâng cao hiệu quả của hệ thống DNNN trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian từ 1960 đến 1990 tức là trước thời điểm
thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm
cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh. Trong thời kỳ đổi mới ý tưởng về cổ phần
hóa DNNN đã được hình thành khá sớm. Từ hội nghị Trung ương 3 (khóa VI) về
đổi mới cơ chế quản lý đã nêu: “ Nếu không đủ điều kiện để củng cố và không cần
thiết duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức sở hữu khác (kể cả
cho tập thể, tư nhân thuê), hoặc giải thể, trước hết là những xí nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng không thuộc loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kỹ thuật thấp, bị
thua lỗ thường xuyên. Những biện pháp cải cách tương đối có giá trị đột phá qui
định trong quyết định số 21/HĐBT ngày 14-11-1987 của hội đồng bộ trưởng. Nếu
tính về số lượng các văn bản đượn ban hành thì vấn đề đổi mới DNNN chiếm vị
trí hàng đầu trong hệ thống chính sách và pháp luật ở nước ta. Quyết định
21/HĐBT đã đề cập tới việc tiến hành thí điểm cổ phần hóa DNNN và giao cho bộ
tài chính chủ trì. Nhưng do điều kiện thị trường chưa phát triển tồn tại quá lâu
trong cơ chế cũ nên từ Trung ương đến cơ sở chưa hiểu hết vấn đè phức tạp này do
đó chưa thống nhất về quan điểm. Ở giai đoạn này thì cổ phần hóa là một vấn đề
mới đối với thực tiễn quản lí DNNN ở nước ta. Đầu năm 1990 trên cơ sở đánh giá
kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành quyết định số
22
143/HĐBT ngày 10/5/1990 về chủ trương nghiên cứu làm thử xí nghiệp quốc
doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy đến năm 1992 cả nước chưa cổ phần hóa
được doanh nghiệp nào. Một trong những nguyên nhân của tình trạnh này là quyết
định 143/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng đặt ra quá nhiều mục tiêu không rõ ràng
dễ gây hiểu nhầm đối với các doanh nghiệp và người lao động. Đến đại hội XII
Đảng ta lại chủ trương thực hiện quan điểm: “ khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới
quản lí kinh tế quốc doanh. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ
sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên”. Đại hội chỉ rõ: “đối với những
cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh cần chuyển hình thức kinh doanh, hình
thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao
động. Khuynh hướng coi nhẹ kinh tế quốc doanh, muốn tư nhân hóa tràn lan, cho
rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tư hữu hóa tất cả các tư liệu sản xuất là sai
lầm. Tuy nhiên nếu duy trì và phát triển kinh tế quốc doanh một cách tràn lan, kéo
dài cơ chế bao cấp cũng không đúng”. Cổ phần hóa DNNN có thể chia thành 4 giai
đoạn chính:
1. Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996) CPH tự nguyện
2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm
3. Giai đoạn 3(6/1998-5/2002) Tăng tốc chương trình CPH
4. Giai đoạn 4 (6/2002-nay)
2.1.1. Giai đoạn thứ nhất (6/1992-4/1996): Nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng, Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp
tục triển khai tiếp tục triển khai tiếp tục tiến hành cổ phần hóa DNNN bằng việc
chuyển thí điểm một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây được coi là một mốc
trong tiến trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta, đánh dấu tiến trình cổ phần hóa
đang được xúc tiến và đang trong giai đoạn thí điểm. Để thực hiện Nghị quyết này
theo chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ đã chọn 7 doanh
nghiệp, đồng thời cũng giao cho các bộ, các tỉnh các thành phố trực thuộc Trung
23
ương chọn 1 đến 2 doanh nghiệp để tiến hành thí điểm cổ phần hóa. Triển khai
thực hiện theo tinh thần chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ các bộ, ngành, địa
phương đã thông báo đến từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự nguyện tiến
hành thí điểm chuyển doanh nghiệp mình thành công ty cổ phần. Cuối năm 1993
đã có 30 doanh nghiệp đăng ký thực hiện thí điểm cổ phần hóa nhưng vì nhiều lý
do mà cả 7 doanh nghiệp đã được Chính phủ chọn và nhiều doanh nghiệp khác xin
rút lui hoặc không tiếp tục làm thử. Điều này đã đặt chúng ta trước khó khăn lớn và
để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thí điểm cổ phần hóa
Đảng ta đã chủ trương: “để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo động lực, ngăn chặn
tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình thức cổ phần
hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; Trong đó
Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối”. Hội Nghị giữa nhiệm kì khóa XII Đảng ta
đã đặt ra yêu cầu: áp dụng từng bước vững chắc việc bán một tỷ lệ cổ phần cho
công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp; Thí điểm việc bán một phần cổ
phần, cổ phiếu của một số DNNN cho một số tổ chức và cá nhân ngoài doanh
nghiệp; Trên cơ sở cổ phần hóa tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu
nhà nước, sở hữu công nhân và các chủ sở hữu khác… Mặc dù có sự chỉ đạo sít
sao của Đảng với quan điểm rõ ràng nhưng kết quả thu được không cao, tới tháng
4/1996 chỉ có 5 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trong đó 2 trong tổng
số 64 tỉnh thành và 3 trong số 7 bộ có doanh nghiệp cổ phần hóa. Cả 5 doanh
nghiệp này đều là những doanh nghiệp nhỏ, sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong
những lĩnh vực không quan trọng. Những thông tin cụ thể về 5 Doanh nghiệp được
trình bày cụ thể hơn trong bảng dưới đây (trang bên)
24
Bảng: 5 DNNN được Cổ phần hóa đầu tiên
STT Tên doanh nghiệp Cơ quan chủ
quản trước
đây
Ngày
chuyển
sang
CTCP
Vốn điều lệ
(tr.đồng)
Tỷ lệ vốn
Nhà nước
(%)
1
Công ty đại lý liên
hiệp vận chuyển
Bộ GTVT
1/7/1993 6.200 18
2
Công ty cơ điện
lạnh
Sở công
nghiệp
TP.HCM
1/10/1994 1.600 30
3
Nhà máy giày
Hiệp An
Bộ công
nghiệp nhẹ 1/10/1994 3.784 30
4
Xí nghiệp thức ăn
chăn nuôi
Bộ
NN&PTNN 1/7/1995 3.540 30
5
Xí nghiệp chế biến
hàng xuất khẩu
UBND tỉnh
Long An 1/7/1995 7.912 30
(Nguồn: Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW)
Nhận xét: Có thể nói giai đoạn thí điểm Cổ phần hóa DNNN đã không đạt
được những kết quả như mong đợi, tốc độ Cổ phần hóa quá chậm và còn quá nhiều
những vướng mắc khó khăn cần được tháo gỡ và rút kinh nghiệm.
2.1.2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998): Đây là giai đoạn vừa làm vừa rút kinh nghiệm
để tạo hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hay nói cách khác
đây là giai đoạn mở rộng cổ phần hóa. Với kinh nghiệm sau 4 năm tiến hành thí
điểm cổ phần hóa và trước nhu cầu về vốn của các DNNN, ngày 7/5/1996 Chính
phủ đã chủ trương mở rộng cổ phần hóa bằng Nghị định 28/CP với những quy định
rõ ràng, đầy đủ và cụ thể hơn về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ
phần. Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện tính đến tháng 6/1998 cả nước đã tiến hành
Cổ phần hóa được 25 DNNN thuộc 2 bộ, 11 địa phương và 2 Tổng công ty 91 tiến
25