Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong khoá luận là trung thực xuất phát từ tình
hình thực tế của đơn vị thực tập.
Sinh viên
Nguyễn Khánh Dương
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S Vũ Thanh Hà đã
trực tiếp hướng dẫn, nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu của
mình.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo tại khoa Tài chính – Ngân
hàng Trường Đại học Đông Đô đã giảng dạy, giúp đỡ em về mọi mặt trong
bốn năm học vừa qua.
Cuối cùng em xin trân trọng cảm ơn ban lãnh đạo, các cán bộ Phòng
kinh doanh Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chi nhánh Hà Tĩnh
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập và hoàn thành
khóa luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Khánh Dương
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
2.2.4.2. Hiệu quả kinh doanh tín dụng và rủi ro tín dụng 71
+ Phân tích nguồn trả nợ 82
NHCT cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm bao gồm những nội dung cơ
bản là: 85
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. NHTM : Ngân hàng thương mại
2. NHNN : Ngân hàng Nhà nước
3. NHCT : Ngân hàng TMCP Công thương
4. NHCT Hà Tĩnh : Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chi nhánh
Hà Tĩnh
5. RRTD : Rủi ro tín dụng
6. KH : Khách hàng
7. DPRRTD : Dự phòng rủi ro tín dụng
8. KNBĐ : Khả năng bù đắp
9. HĐV : Huy động vốn
10. CBTD : Cán bộ tín dụng
11. PGD : Phòng giao dịch
12. TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
13. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
14. DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
15. XDCB : Xây dựng cơ bản
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
2.2.4.2. Hiệu quả kinh doanh tín dụng và rủi ro tín dụng 71
+ Phân tích nguồn trả nợ 82
NHCT cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm bao gồm những nội dung cơ
bản là: 85
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống tài chính của Việt Nam nói riêng cũng như các nước trên
thế giới nói chung, hoạt động Ngân hàng góp phần điều hòa lưu thông tiền tệ
trên thị trường, từ đó tạo điều kiện kích thích đầu tư phát triển nền kinh tế.
Quá trình điều hòa lưu thông tiền tệ trên thị trường được các Ngân hàng
thương mại (NHTM) thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng, bới đó
là hoạt động cơ bản của hệ thống NHTM. Một khi hoạt động vốn và cung ứng
vốn của NHTM đạt hiệu quả cao sẽ giúp cho các thành phần kinh tế phát triển
ổn định.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam
không ít những thuận lợi, song nền kinh tế nước ta cũng phải gánh chịu những
tác động tiêu cực từ biến động của nên kinh tế Thế giới. Hoạt động của
NHTM cũng không phải là ngoại lệ. Hoạt động tín dụng của NHTM luôn phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi
ro thanh khoản,
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, là
hoạt động chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn
nhất đồng thời là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng tồn tại
tất yếu và gắn liền với quá trình hoạt động của NHTM, chính vì vậy nghiên
cứu về rủi ro tín dụng là việc làm có ý nghĩa thường xuyên và hết sức cần
thiết đối với những người tham gia và những người quan tâm đến hoạt động
của NHTM.
Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng đối với NHTM Việt Nam là lĩnh vực
còn mới về cả phương diện lý luận cũng như phương pháp, biện pháp triển
khai trong thực tiễn; việc xây dựng khung cơ chế và một hệ thống quản trị rủi
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
6
Khóa luận tốt nghiệp
ro tín dụng có hiệu lực, hiệu quả đang còn là vấn đề cần nghiên cứu của các
NHTM ở Việt Nam.
Nhận thức rõ tính cấp bách của vấn đề trên, sau một thời gian nghiên
cứu và tìm hiểu em xin được trình bày một số giải pháp quản trị rủi ro tín
dụng qua đề tài: “Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chí nhánh
Hà Tĩnh”
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về rủi ro
tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng; đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng, năng
lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – chi
nhánh Hà Tĩnh; đề tài góp phần khái quát, nhận dạng các loại rủi ro tín dụng ở
Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - chi nhánh Hà Tĩnh
(sau đây gọi tắt là NHCT Hà Tĩnh) và đánh giá những hạn chế của công tác
này để từ đó đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị và
phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NHCT Hà Tĩnh
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dung;
- Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHCT Hà Tĩnh
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực
quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NHCT Hà Tĩnh từ năm 2008-2010,
định hướng và giái pháp cho những năm tiếp theo
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích các hoạt động kinh tế, so sánh,
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
7
Khóa luận tốt nghiệp
tổng hợp số liệu, kết hợp với việc minh họa bằng sơ đồ, bảng biểu nhằm
làm vấn đề nghiên cứu trở nên trực quan hơn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm 3 chương sau:
Chương 1: Khái quát chung về tín dụng, rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro
tín dụng
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương - chi nhánh Hà Tĩnh
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Công thương - chi nhánh Hà Tĩnh
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
8
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG, RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. Khái quát về tín dụng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng
1.1.1.Tín dụng của Ngân hàng
a. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.
Căn cứ theo Khoản 16 Điều 4 Luật số 47/2010/QH12 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010, “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó
bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Căn cứ theo Khoản 12 Điều 4 của Luật này “Hoạt động tín dụng là việc
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận
tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Cũng tại Luật này, theo Khoản 14 Điều 4 về “Cấp tín dụng” thì Tổ chức
tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
9
Khóa luận tốt nghiệp
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng Ngân hàng bao gồm hai hình
thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người chi vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi
vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
b. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, vai trò tín dụng Ngân hàng cũng
có sự thay đổi về bản chất. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp; tín dụng như là
một tổ chức cấp phát vốn Ngân sách. Chính vì vậy thường xuyên xảy ra tình
trạng nơi cần vốn để sản xuất thì không có hoặc không kịp thời, nơi thì lại để
vốn nằm ứ đọng trong một thời gian dài. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, hầu như tình trạng đó đã chấm dứt. Với sự cải tổ hệ thống Ngân
hàng từ một cấp sang hai cấp, hàng loạt các Ngân hàng thương mại được hình
thành nhằm mục đích huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, phát triển các thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của
toàn xã hội. Sau đây là một số vai trò tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế
thị trường.
- Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế
Hoạt động tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
10
Khóa luận tốt nghiệp
Quốc dân, là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ, các NHTM thực hiện nhiệm vụ mà Ngân hàng Trung ương giao phó, các
NHTM cổ phần luôn luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa để tự khẳng định mình.
Như với mọi tổ chức kinh doanh khác, hoạt động chính của NHTM là hoạt
động tín dụng, nó đem lại 70-80% thu nhập cho Ngân hàng. Chính vì vậy
thông qua hoạt động huy động vốn, các NHTM đã góp phần tích cực tập trung
các nguồn vốn nhàn rỗi cho các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó các NHTM
lại bơm nguồn tiền đó trở lại nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình
tái sản xuất và mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Việc tập trung và phân phối tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong
toàn bộ nền kinh tế Quốc dân. Tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm
và đầu tư, là động lực khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng là cánh tay đắc lực của NHTM, góp phần
nâng cao chất lượng điều hòa tiền tệ, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của
Nhà nước, kìm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường kinh doanh ổn định.
- Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất, mở rộng cho đầu tư phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải
cạnh tranh gay gắt với nhau nếu không muốn tụt hậu và đào thải. Do đó, nhu
cầu đầu tư phát triển không những là nhu cầu tự thân mà còn đòi hỏi của cơ
chế thị trường. Để có thể mở rộng, phát triển sản xuất các doanh nghiệp cần
có nhiều yếu tố như: nguồn nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuật, vốn,… Tuy
nhiên, có thể khẳng định vốn là quan trọng nhất vì nếu có vốn doanh nghiệp
sẽ có được các yếu tố khác do thị trường luôn sẵn sàng cung ứng. Để có vốn,
các doanh nghiệp có thể tìm kiếm ở các nguồn như chiếm dụng vốn của đơn
vị cùng làm ăn, đi vay trên thị trường chợ đen,… nhưng những hình thức này
không ổn định mà chi phí lại lớn. Bởi vậy, thường thì các doanh nghiệp tìm
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
11
Khóa luận tốt nghiệp
đến Ngân hàng. Đối với hầu hết khách hàng, Ngân hàng là một trong những
nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh
nghiệp nhỏ, NHTM là nguồn duy nhất cung vốn và bổ sung vốn. Thông qua
hoạt động tín dụng, Ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đồng
thời giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quyết định đối với quá trình sản
xuất mở rộng và đầu tư phát triển của nền kinh tế.
- Tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường thường xuất hiện những khoản tiền tạm
thời nhãn rỗi, trong khi các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện hiện tượng
thiếu vốn tạm thời, hoặc thiếu vốn bổ sung đầu tư tài sản cố định. Sự có mặt
của tín dụng Ngân hàng được coi như một giải pháp để giải quyết mâu thuẫn
này. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng đã huy động
được các nguồn tiết kiệm trong dân cư và phân phối lại cho các thành phần
kinh tế có nhu cầu về vốn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có nhu
cầu vốn, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế. Dựa vào quy luật
lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu
vay, Ngân hàng Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông.
Việc này đôi khi gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng, dẫn đến lạm phát.
Do đó sự vận động vốn tín dụng Ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo đảm
hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ. Hơn nữa, quá trình
hoạt động của Ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt,
góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường thiếu sự quản lý
của Nhà nước, từ đó ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này góp phần làm giảm
lạm phát, căn bệnh kinh niên của nền kinh tế, nhất là đối với những nước có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như nước ta. Tất cả mọi quốc gia đều dùng tín
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
12
Khóa luận tốt nghiệp
dụng Ngân hàng như là một công cụ hữu hiệu để điều hòa vốn trên phạm vi
toàn bộ nền kinh tế Quốc dân.
- Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành
mũi nhọn
Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Nhưng việc cho
vay này không phải trả đều cho các chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được
thực hiện qua một quá trình thẩm định kỹ lượng. Quá trình này là rất quan
trọng đối với các Ngân hàng, nó mang tính sống còn của Ngân hàng. Tuy
nhiên, đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, có
những ngành kinh tế đòi hỏi phải được đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển
bền vững. Mặc dù các ngành này tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn
chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn,
xương sống của nền kinh tế, là cơ sở để phát triển đất nước. Bên cạnh đó, có
những vùng kinh tế kém phát triển cần được đầu tư như đầu tư phát triển vùng
nông thôn, miền núi,… để nâng cao mức sống cho người dân. Vì vậy, Ngân
hàng Nhà nước đã đưa ra những biện pháp chính sách khuyến khích các
NHTM cho vay hỗ trợ các dự án phát triển Nhà nước thông qua hoạt động tín
dụng. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển kinh tế.
Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo cho nước ta thế và
lực mới, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần
phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước
tạo ra môi trường thuận lợi để phát huy vai trò và thế mạnh của từng thành
phần kinh tế, song song với các chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế kém phát
triển, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn.
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
13
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.2. Rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ. Tiền tệ
là một loại hàng hóa đặc biệt, có độ nhạy cảm cao với những biến động của
thị trường và nền kinh tế Thế giới; do đó mà rủi ro là điều không thể tránh
khỏi trong hoạt động tín dụng
Rủi ro tín dụng là những rủi ro lớn và thường xuyên xảy ra. Tại Khoản 1
Điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành cùng Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng, rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là
“khả năng tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”.
Theo định nghĩa của Ủy ban Basel thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế,
“RRTD là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện
được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thỏa thuận”, cũng theo
Ủy ban này, RRTD được hiểu là “Rủi ro thất thoát đối với một Ngân hàng là
sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác
định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ theo hợp đồng
khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi” [Basel-2000].
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về RRTD, song các quan niệm
RRTD về bản chất là: khả năng (xác suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế
mà Ngân hàng thương mại (NHTM) phải gánh chịu do khách hàng vay vốn
thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gốc và/hoặc
lãi). RRTD có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM làm giảm thu nhập
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
14
Khóa luận tốt nghiệp
ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn
tới thua lỗ, có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng.
RRTD gắn liền với hoạt động tín dụng, quy mô tài sản có sinh lời của
NHTM tập trung chủ yếu (tỷ trọng từ 50%-80%) vào các khoản cho vay. Vì
vậy khi thực hiện cấp tín dụng, NHTM phải phân tích các yếu tố của người
vay để đảm bảo đạt độ an toàn cao nhất.
Khái niệm về RRTD xét trên hai khía cạnh đó là rủi ro tổn thất khi xảy
ra gây thiệt hại kinh tế về rủi ro theo xác suất là khả năng khách hàng không
trả được nợ (khả năng này có thể xảy ra, có thể không xảy ra). Khi RRTD xảy
ra, khách hàng thực sự không trả được nợ đúng hạn, số tiền mà Ngân hàng
không thu hồi được thì được hiểu là tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu; trên
thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lần và hiểu sai về hai khái niệm rủi ro xảy ra tổn
thất với RRTD theo xác suất. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến hoạt
động quản trị RRTD, trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến tính chủ động trong
các biện pháp quản lý rủi ro. Nếu xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay
phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quĩ dự phòng rủi ro dựa trên
cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng RRTD
trên cơ sở mức độ xác suất xảy ra quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: (1) những
khoản cho vay mà theo xác suất thực sự có rủi ro sẽ không được trích lập; (2)
làm mất tính chủ động trong quản trị RRTD, mức độ đáp ứng của nguồn bù
đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú sốc thì ngân hàng sẽ
rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; (3) làm cho ngân hàng không thể
hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những
ngân hàng có nợ xấu rất thấp, nhưng danh mục tín dụng lại rủi ro rất lớn vì
tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro cao. Đây
chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập quĩ dự
phòng và sử dụng quĩ này bù đắp tổn thất xảy ra trong quá trình quản trị
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
15
Khóa luận tốt nghiệp
RRTD.
1.1.2.2. Quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các rủi ro trong kinh ngân
hàng thương mại
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động trên lĩnh vực rủi ro, hàm chứa nhiều
loại rủi ro, trong đó RRTD là rủi ro lớn nhất. Xét về quan hệ của RRTD với
các rủi ro khác trong hoạt động Ngân hàng, thì RRTD lại không hoàn toàn
độc lập mà nó tác động qua lại với các rủi ro khác như rủi ro lãi suất, rủi ro
hối đoái, rủi ro thanh khoản, s. có thể rủi ro này là tiền đề của rủi ro khác,
nguyên nhân của nguyên nhân. Nếu chỉ đề cập đến RRTD mà không đề cập
đến rủi ro khác sẽ là phiến diện, là khiếm khuyết trong nhận thức, thiếu đi tầm
nhìn tổng thể và sẽ làm cho các biện pháp quản trị RRTD trong thực tế kém
hiệu quả.
Các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng được xác định, phân chia theo
nhiều cách khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu, cũng như giai đoạn phát
triển các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Votja (1973) phân chia rủi ro theo loại hoạt động của Ngân hàng, gồm:
RRTD, rủi ro đầu tư, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro đạo đức, rủi
ro ủy quyền. Gargner (1986) phân loại rủi ro đối với hoạt động ngân hàng
gồm: rủi ro chung (RRTD, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất), rủi ro quốc tế
và rủi ro trả nợ.
Bên cạnh việc phân loại rủi ro hoạt động Ngân hàng tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu, thì các loại rủi ro cũng phát triển theo thời gian, do có rủi ro
mới phát sinh, và nó gắn với những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trong
những năm gần đây người ta đề cập nhiều đến rủi ro tỷ giá, rủi ro uy tín, rủi ro
công nghệ, rủi ro đa dạng hóa, Theo xu hướng này, hai tác giả Greuning, H.
Và S.B. Bratanovic (2003) đã đưa ra cách phân loại rủi ro hoạt động Ngân
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
16
Khóa luận tốt nghiệp
hàng khá đầy đủ theo sơ đồ 1-1.
Sơ đồ 1-1: Phân loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
Nguồn: Greuning, H. Và S.B Bratanovic (2003)
Qua sơ đồ 1-1 chúng ta thấy có thể phân loại rủi ro hoạt động Ngân
hàng theo bốn nhóm rủi ro chính, gồm: (1) rủi ro tài chính; (2) rủi ro hoạt
động; (3) rủi ro kinh doanh/kinh tế; (4) rủi ro sự cố. RRTD là một loại hình
rủi ro nằm trong nhóm rủi ro tài chính.
Trên sơ đồ có thể thấy các loại rủi ro có mối liên hệ với nhau rất phức
tạp. Khi RRTD xảy ra, khách hàng không trả được nợ rất có thể kéo theo rủi
ro thanh khoản do Ngân hàng bị thiếu hụt tiền mặt để thực hiện nghĩa vụ tài
chính đến hạn; sự lệch pha quá lớn giữa kỳ hạn của tài sản có nhạy cảm với
lãi suất với tài sản sợ nhạy cảm với lãi suất, có thể Ngân hàng chịu rủi ro lãi
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
Các loại rủi ro
đối với ngân hàng
Rủi ro tài chính
Rủi ro hoạt động
Cơ cấu bảng TKTS
Cơ cấu lợi nhuận
Mức độ vốn
Rủi ro tín dụng
Rủi ro
thanh khoản
Rủi ro thị trường
Rủi ro hối đoái
Lừa dối nội bộ
Lừa đảo
Hành vi
của nhân viên
Phục vụ khách
hàng sản phẩm
Hư hỏng tài sản
Gián đoạn HĐKD hệ
thống TT (RR công nghệ)
Lỗi trong
quá trình quản lý
Rủi ro kinh
doanh/kinh tế
Rủi ro sự cố
Chính sách
kinh tế vĩ mô
Hệ thống
tài chính
Hệ thống
luật pháp
Tính chấp
hành pháp luật
Rủi ro quốc gia
Sự kiện chính trị
Bệnh dịch
Khủng hoảng
ngân hàng
Các sốc bên
ngoài khác
17
Khóa luận tốt nghiệp
suất lớn.
Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, việc Ngân hàng
niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các thông tin của Ngân hàng
đòi hỏi phải công khai minh bạch để công chúng giám sát, thì RRTD có liên
hệ chặt chẽ với rủi ro uy tín: khoản nợ xấu nếu không được quản trị một cách
chủ động sẽ dẫn đến không ổn định về lợi nhuận, từ đó làm giảm lòng tin của
công chúng. Nghiêm trọng hơn nợ quá hạn tăng cao sẽ gây tâm lý hoang
mang cho công chúng gửi tiền, dẫn đến khủng hoảng của cả hệ thống Ngân
hàng, thậm chí cả nền kinh tế của một quốc gia và khu vực.
Rủi ro kinh doanh/kinh tế, loại rủi ro này xảy ra khi môi trường chung
của nền kinh tế đi xuống, tình trạng ế ẩm hàng hóa, sức mua giảm, khách
hàng vay suy giảm khả năng trả nợ làm gia tăng tín dụng xấu. Hoặc khi các
yếu tố liên quan đến pháp luật không minh bạch, việc thanh lý một tài sản thế
chấp của Ngân hàng khi khởi kiện ra tòa mất quá nhiểu thời gian thì rủi ro
mất vốn tín dụng là rất lớn.
Sơ đồ 1-2: Rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác
Nguồn: Dự án hỗ trợ kỹ thuật NHCT Việt Nam
Qua nghiên cứu chúng ta thấy, các loại rủi ro trong hoạt động Ngân hàng
vừa có tính độc lập, vừa liên kết chặt chẽ với nhau, thậm chí có những nội
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
18
Khóa luận tốt nghiệp
dung trùng lên nhau. Điều này có nghĩa là khi một loại rủi ro xảy ra sẽ kéo
theo các loại rủi ro khác xảy ra. Có thể hình dung mối quan hệ giữa các loại
rủi ro trong hoạt động Ngân hàng qua sơ đồ 1-2.
Bên cạnh việc chỉ rõ các loại rủi ro hoạt động Ngân hàng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, thì các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mối quan hệ đó là
quan hệ phi tuyến, tức là không phải quan hệ tuyến tính. Khi một loại rủi ro
xảy ra, thì đồng loạt các rủi ro khác cũng xảy ra và làm loại rủi ro ban đầu trở
nên trầm trọng hơn nữa.
1.1.2.3. Phân loại về rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại RRTD, việc phân loại RRTD tuỳ thuộc vào mục
đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại RRTD
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, quy trình, thủ
tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành, nhằm bảo đảm nhận biết đầy
đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận,
giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp tín dụng giám
sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thường. Thực
tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho
quá trình quản trị RRTD càng có hiệu quả.
a. Phân loại RRTD theo đối tượng sử dụng vốn vay
Bao gồm 3 nhóm để đánh giá và quản lý:
- Rủi ro khách hàng cá thể: Thông thường số lượng khách hàng sẽ rất
nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ sẽ thấp, mức độ ảnh
hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay là nhỏ; loại hình
giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
- Rủi ro khách hàng tổ chức kinh tế: Tùy theo qui mô của tổ chức kinh tế
là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro các khoản vay vào đối tượng
này sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh
toán khoản nợ là vừa hay cao.
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
19
Khóa luận tốt nghiệp
- Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Những Ngân hàng hoạt động phạm
vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc gia, nếu trong phạm vi một
quốc gia phân chia RRTD tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ như mức độ rủi
ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam.
b. Phân theo phạm vi ảnh hưởng của RRTD
- Rủi ro giao dịch đơn lẻ: được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch đơn
lẻ nào đó, cụ thể như rủi ro của một khoản vay đối với một khách hàng. Loại
rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt của khoản vay
hoặc khách hàng vay vốn.
- Rủi ro hệ thống: được hiểu là RRTD gắn liền với nhóm khách hàng,
một ngành hàng, thậm chí với cả một nền kinh tế. Rủi ro hệ thống mang tính
chất vĩ mô và liên quan nhiều đến việc quản lý danh mục cho vay.
c. Phân theo giai đoạn phát sinh
- Rủi ro trong thẩm định: là rủi ro mà tổ chức tín dụng đánh giá sai
khách hàng.
- Rủi ro khi cho vay: là rủi ro mà khi giải ngân vốn sai mục đích, làm cho
khoản vay không phát huy hiệu quả.
- Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình giám
sát thu hồi nợ không theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách hàng
sử dụng vốn xoay vòng vào việc khác, không thu được nợ đúng kỳ hạn, hoặc
không thu được nợ.
d. Phân theo sản phẩm tín dụng
- Rủi ro sản phẩm tín dụng nội bảng: là RRTD phát sinh từ những khoản
cho vay, chiết khấu, thấu chi được hạch toán trong nội bảng.
- Rủi ro các sản phẩm phát sinh: là RRTD phát sinh từ những sản phẩm
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
20
Khóa luận tốt nghiệp
ngoại bảng trong tài trợ thương mại, như mở thư tín dụng (L/C), bảo lãnh.
Việc phân loại RRTD theo sản phẩm tín dụng khác nhau có đặc điểm
khác nhau cấu thành nên rủi ro khác nhau, để có thể thay đổi trong qui trình
quản trị RRTD thích ứng
1.1.2.4. Các chỉ tiêu đo lường tín dụng
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là :
a. Tình hình nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Số dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ KH có quá hạn = Số KH quá hạn
Tổng số KH có dư nợ
Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế.
Nó tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của Ngân hàng.
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của
các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 3%, nghĩa là trong 100 đồng
vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 3 đồng.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi
đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn
trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để
đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo
thời hạn thành các nhóm :
- Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày – Nợ cần chú ý (Nhóm 2)
- Nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3)
- Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ (Nhóm 4)
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
21
Khóa luận tốt nghiệp
- Nợ quá hạn trên 360 ngày – Nợ có khả năng mất vốn (Nhóm 5)
Do việc phân loại chất lượng tín dụng được tính theo thời gian như vậy,
nên những khoản tín dụng ở Việt Nam tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
b. Tình hình nợ xấu
Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5 quy định tại Điều 6
hoặc Điều 7 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ban hành theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của
tổ chức tín dụng. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của
Ngân hàng lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy
cơ mất vốn.
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không
thể đòi,…) là những khoản nợ mang các đặc trưng :
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng Ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ
chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau:
● Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
22
Khóa luận tốt nghiệp
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
● Nợ nghi ngờ (Nhóm 4) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
● Nợ có khả năng mất vốn (Nhóm 5) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn;
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
+ Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
c. Tình hình rủi ro mất vốn
Tỷ lệ trích lập DPRRTD =
Dự phòng RRTD trích lâp
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với 5 nhóm nợ quy định Khoản 1
Điều 6 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007
Nhóm 1: 0%;
Nhóm 2: 5%;
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
23
Khóa luận tốt nghiệp
Nhóm 3: 20%;
Nhóm 4: 50%;
Nhóm 5: 100%.
Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ được tính:
R = max{0, A-C}x r;
R: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích;
A: Số dư nợ gốc của khoản nợ;
C: Giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm;
r: Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể.
Tỷ lệ khấu trừ để xác định giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm (C) do
Ngân hàng cho vay xác định nhưng không được vượt tỷ lệ khấu trừ tối đa quy
định sau:
Loại tài sản Tỷ lệ
khấu trừ
- Số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá bằng
VND do tổ chức tín dụng phát hành
100%
- Tín phiếu kho bạc; vàng; số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết
kiệm, giấy tờ có giá bằng ngoại tệ do tổ chức tín dụng phát hành
95%
- Trái phiếu Chính phủ:
+ Có thời hạn còn lại từ 1 năm trở xuống
95%
+ Có thời hạn còn lại từ 1 năm đến 5 năm 85%
+ Có thời hạn còn lại trên 5 năm 80%
- Chứng khoán, công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá
do tổ chức tín dụng khác phát hành được niêm yết
70%
- Chứng khoán, công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá
do doanh nghiệp phát hành được niêm yết
65%
- Chứng khoán, công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá do tổ
chức tín dụng khác phát hành chưa được niêm yết, bất động sản
30%
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
24
Khóa luận tốt nghiệp
- Các loại tài sản bảo đảm khác 20%
Ngoài việc phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro cụ thể nêu trên, để
chống đỡ rủi ro chung có thể xảy ra hàng năm, NHTM phải trích dự phòng rủi
ro chung 0,75% trên tổng dư nợ.
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín
dụng trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Tùy theo cấp độ rủi ro mà tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng rủi ro
từ 0 đến 100% giá trị của từng khoản cho vay (sau khi trừ giá trị tài sản bảo
đảm đã được định giá lại). Như vậy, nếu một Ngân hàng có danh mục cho vay
càng rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng cũng sẽ càng cao. Thông thường, tỷ lệ
này dao động trong khoảng từ 0 đến 5%.
Tỷ lệ mất vốn =
Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo
Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
d. Khả năng bù đắp rủi ro
Hệ số khả năng bù đắp các khoản cho vay bị mất dự phòng RRTD được
trích lập/ dư nợ bị thất thoát
Hệ số khả năng bù đắp
RRTD
=
Dự phòng RRTD được trích lập
Nợ quá hạn khó đòi
Hệ số KN bù đắp cho
vay bị mất
=
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ bị thất thoát
e. Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng
đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của
Nguyễn Khánh Dương -TC13A
25