Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Một số biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.49 KB, 68 trang )

Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Sơ đồ tổ chức quản lý bộ máy của công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà.
Biểu tình hình sản xuất sản phẩm công nghiệp của công ty.
Biểu tổng giá trị sản lượng đạt được qua các năm của công ty.
Bảng cân đối kế toán hợp nhất năm 2009.
Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2007-2009.
Bảng so sánh sự thay đổi các nhân tố chính trong báo các kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh giai đoạn 2007-2009 của công ty.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
1
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các doanh nghiệp tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ nhằm
thoả mãn nhu cầu của thị trường với mục tiêu là lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu
đó, doanh nghiệp phải thực hiện được giá trị sản phẩm, hàng hoá qua hoạt động
bán hàng. Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá gắn liền
với phần lợi ích hoặc rủi ro cho khách hàng đồng thời được khách hàng thanh
toán hoặc chấp nhận thanh toán. Bán hàng là giai đoạn cuối cùng của quá trình
sản xuất kinh doanh, đây là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái vốn sản phẩm
hàng hoá sang hình thái vốn tiền tệ hoặc vốn trong thanh toán. Vì vậy, nếu làm
tốt được các khâu này sẽ giúp doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh,
tăng nhanh vòng quay của vốn, tạo ra lợi nhuận.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng trở
nên gay gắt, quyết liệt thì việc đứng vững và khẳng định vị thế của một doanh
nghiệp trên thị trường là một điều thực sự khó khăn.
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong cơ chế thị trường phải chịu tác động của các quy luật kinh tế khách
quan. Theo quy luật này mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trên


thị trường thì phải không ngừng áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm. Có như vậy doanh nghiệp mới thu hút được khách hàng đồng
thời chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường khi đó mới mong thu
được lợi nhuận.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
2
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì mục tiêu lớn nhất là lợi
nhuận bởi nó đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp. Để phấn đấu đạt được mức lợi
nhuận cao và ổn định đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng trên tất cả các mặt
hoạt động bao gồm tăng doanh thu, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất, Do vậy nếu căn cứ vào việc phân tích đánh
giá lợi nhuận của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chúng ta có thể đánh
giá được một cách toàn diện về các mặt ưu nhược điểm trong hoạt động sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp đó.
Xuất phát từ những lý do trên, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần
kỹ thuật điện Sông Đà, em đã chọn đề tài “một số biện pháp tăng lợi nhuận tại
công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng thực hiện lợi nhuận tại công ty cổ phần kỹ thuật
điện Sông Đà
Chương III: Phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm tăng lợi nhuận
cho công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn, chuyên đề tốt nghiệp
của em còn những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của Cô để bài thực tập tốt nghiệp của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
3

Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
4
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHỆP
1.1. Khái niệm và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Tuỳ thuộc vào quan điểm và góc độ xem xét, đã có những quan điểm khác
nhau về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Marx phần lớn đều cho rằng “cái
phần trội lên trong giá bán với chi phí sản xuất chính là lợi nhuận”.
Theo K.Marx thì “giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm bên trong
toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó có lao động thặng dư hay lao động không
được trả công đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận”.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước đây cho rằng lợi
nhuận dưới chế độ XHCN là thu nhập thuần tuý của xã hội XHCN. Sau này họ
coi “lợi nhuận của quá trình hoạt động sản xuất là phần chênh lệch giữa thu nhập
về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và chi phí bỏ ra để đạt được mức thu
nhập đó”.
Các nhà kinh tế học như Samuelson và Nordhaus phát biểu “lợi nhuận là
một khoản dôi ra, bằng tổng số thu nhập trừ đi số chi” hay nói một cách cụ thể
hơn, lợi nhuận được định nghĩa là “sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một
doanh nghiệp với tổng chi phí của nó”. Còn theo Đavi Begg, Stanley Fiher thì
“lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí”.
Như vậy ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về lợi nhuận như sau:
Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Trong phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến khái niệm lợi nhuận kế toán
của công ty. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong kì báo cáo.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
5
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tuy nhiên, đối với nhà quản lý doanh nghiệp họ thường chỉ quan tâm đến
khái niệm lợi nhuận kế toán ở chỗ nó tính đến tất cả các khoản chi phí phát sinh
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
1.1.2. Vai trò của lợi nhuận
1.1.2.1. Đối với bản thân doanh nghiệp
Trong cơ chế bao cấp cũ, đối với những người quản lý doanh nghiệp vai
trò của lợi nhuận không được đề cao. Bản thân các doanh nghiệp không quan tâm
đến lợi nhuận. Đối với họ, việc tạo ra được lợi nhuận hay không không quan
trọng, tất cả lợi nhuận đều phải nộp vào ngân sách nhà nước, nếu lỗ thì đã có
ngân sách nhà nước bù. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều
thành phần kinh tế mới ra đời, cùng với sự xoá bỏ cơ chế bao cấp, mọi doanh
nghiệp đều phải cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi tạo ra
được lợi nhuận. Hơn nữa lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng phản ánh toàn
bộ kết quả và hiệu quả của quá trính sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kể
từ lúc bắt đầu tìm kiếm và nghiên cứu thị trường, đầu tư máy móc tiến hành sản
xuất sản phẩm cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm, ban lãnh đạo doanh nghiệp
phải tổ chức và quản lý có hiệu quả thì doanh nghiệp mới tạo ra được lợi nhuận.
Chỉ khi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận thì
những người sở hữu nó mới có cơ sở để tiếp tục tái đầu tư, mở rộng sản xuất.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn yếu kém, hoạt động không hiệu quả dẫn tới
thua lỗ, các nhà đầu tư sẽ mất niềm tin và rời bỏ doanh nghiệp. Kết cục phá sản
bị thay đổi chủ sở hữu là điều tất yếu.
1.1.2.2. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp là cơ sở để nhà nước tính thuế thu
nhập doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, nhà nước mới có thể thu

thuế, đây chính là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà
nước, là cơ sở để nhà nước thực thi chính sách tài khoá. Nhờ tạo ra được lợi
nhuận, các doanh nghiệp không những tạo ra được nguồn thu quan trọng cho
ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế thu nhập mà các doanh nghiệp còn có thể
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
6
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tham gia đóng góp cho sự phát triển công bằng xã hội bằng việc thực hiện các
công việc nhân đạo và từ thiện.
Ngoài ra, lợi nhuận của doanh nghiệp chính là một trong những nhân tố
cấu thành nên tăng trưởng của tổng thu nhập quốc dân. Thu nhập của doanh
nghiệp càng cao thì mức đóng góp của nó vào tăng trưởng kinh tế càng lớn.
Một yếu tố cuối cùng không thể bỏ qua chính là vai trò tái đầu tư mở rộng
sản xuất của lợi nhuận đối với đất nước. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, họ sẽ
quyết định đầu tư vào việc nghiên cứu cải tiến kĩ thuật sản xuất, tìm tòi ra những
công nghệ mới.
1.1.2.3. Đối với người lao động
Người lao động chịu ảnh hưởng trực tiếp từ kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, khi doanh nghiệp làm ăn phát
đạt, tạo được một mức lợi nhuận ổn định thì đời sống của người lao động mới
được ổn định. Việc trích lập các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi được thực hiện
một cách nghiêm túc và đầy đủ. Điều này sẽ đảm bảo ổn định đời sống người lao
động. Ngược lại, nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả chỉ đạt được mức
lãi thấp hoặc thậm chí thua lỗ thì người chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là người
lao động. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp cùng một
ngành cạnh tranh nhau rất gay gắt. Khi doanh nghiệp bị thua lỗ nó khó có thể cải
thiện được tình hình tài chính đơn thuần chỉ bằng cách tăng sản lượng sản phẩm
bán ra một cách nhanh chóng. Do đó việc đầu tiên mà các nhà cải cách quản trị
tài chính doanh nghiệp thường là cắt giảm chi phí. Một trong những biện pháp
cắt giảm chi phí hiệu quả nhất chính là cắt giảm số lượng người lao động trong

doanh nghiệp. Ban giám đốc phải tiến hành nghiên cứu nhằm tìm ra những bộ
phận, những người lao động hoạt động không còn hiệu quả nữa. Hay nói theo
cách khác, họ đóng góp vào doanh nghiệp ít hơn những gì mà doanh nghiệp trả
cho họ. Như vậy cắt giảm nhân công thường là chiến lược mà các nhà quản lý tài
chính doanh nghiệp chọn sử dụng khi tình hình kinh doanh trở nên khó khăn.
Có lợi nhuận sẽ ổn định cuộc sống của người lao động, người lao động
yên tâm cống hiến sức lao động của mình, đời sống của người lao động từng
bước được cải thiện và nâng cao.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
7
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2. Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp, trong khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
nó cũng đồng thời phải tham gia các hoạt động khác như hoạt động tài chính. Do
đó, chúng ta phải tìm hiểu từng bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận mà doanh
nghiệp tạo ra trong một kì kế toán.
Tổng lợi nhuận trước thuế của một doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động
bất thường, đây chính là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể:
- Lợi nhuận hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa tổng doanh
thu bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh, bằng
lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu hoạt
động tài chính và chi phí hoạt động tài chính, bao gồm các hoạt động cho thuê tài
sản, mua, bán trái phiếu, chứng khoán, mua bán ngoại tệ, lãi tiền gửi ngân hàng,
lãi cho vay, lãi cổ phần và lãi do góp vốn liên doanh.
- Lợi nhuận của hoạt động khác là chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động
khác và chi phí từ hoạt động khác, bao gồm các khoản phải trả không có chủ nợ
thu hồi lại, các khoản nợ khó đòi đã được duyệt, nhượng bán tài sản sau khi đã
trừ đi chi phí tương ứng.

Ngoài ra tuỳ theo yêu cầu cụ thể của phân tích tài chính mà các nhà quản
trị tài chính doanh nghiệp quan tâm đến các kết quả lợi nhuận khác nhau:
+ Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) = Doanh thu thuần – Giá vốn
hàng bán – Chi phí bán hàng – Chi phí quản lý doanh nghiệp.
+ Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN
1.3. Ý nghĩa của chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời còn là
một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, việc thực hiện được chỉ
tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh
nghiệp được vững chắc.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
8
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, là chỉ tiêu quan trọng nhất
để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là nguồn để mở rộng tái sản xuất xã hội.
1.4. Các tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
1.4.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu quan trọng
nhất được dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong kì kế
toán.
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế của doanh
nghiệp vốn chủ sở hữu (có thể là cuối năm trên bảng cân đối kế toán hoặc bình
quân cả năm).

Lợi nhuận sau thuế
ROE = X 100 (%)

Vốn CSH
ROE phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu
tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu
doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp quá thấp, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy
không hài lòng với thực trạng tài chính của doanh nghiệp và có thể ra quyết định
rút vốn đầu tư. Chính vì vậy, tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong
những hoạt động quan trọng nhất trong lĩnh vực hoạt động quản lý tài chính của
doanh nghiệp.
1.4.2. Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA)
Chỉ tiêu doanh lợi tổng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để
đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh.

EBIT
ROA = X 100 (%)
Tổng tài sản
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
9
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
EBIT: Thu nhập trước thuế và lãi vay
Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm
vi so sánh mà các nhà tài chính lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi vay hoặc thu
nhập sau thuế để tiến hành so sánh với tổng tài sản của doanh nghiệp. ROA cho
chúng ta biết khả năng mang lại lợi nhuận trên tổng tài sản của nó trước khi
chúng ta quan tâm chi phí tài trợ của tài sản đó. Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản
cho chúng ta biết liệu rằng tài trợ bằng vay nợ có mang lại lợi nhuận hay không,
chúng ta giả định rằng nếu lãi suất tiền vay của doanh nghiệp là x% thì lợi nhuận
mang lại từ tài sản được tài trợ bằng khoản đó cũng phải bằng x%.
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy rằng hai tỷ suất doanh lợi vốn chủ sở hữu
(ROE) và tỷ suất doanh lợi tài sản có thể được so sánh với nhau trong quá trình

phân tích. Một tỷ suất ROE lớn hơn so với tỷ suất ROA cũng đồng nghĩa với
doanh nghiệp đang có một đòn bẩy tài chính. Sử dụng đòn bẩy tài chính là một
trong những phương pháp tăng lợi nhuận phổ biến nhất hiện nay trên toàn thế
giới. Khi sử dụng đòn bẩy tài chính, các doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận của
mình miễn là tỷ suất lợi nhuận tổng thể của doanh nghiệp lớn hơn chi phí của
việc vay mượn. Tuy nhiên đòn bẩy tài chính cũng là một con dao hai lưỡi, nó có
thể có ảnh hưởng xấu đến tỷ suất lợi nhuận là âm hoặc dương nhưng rất thấp.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
10
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.4.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu được tính bằng cách lấy thu nhập sau thuế
chia cho tổng doanh thu bán hàng trong kì.
Tỷ suất lợi nhuận này cho các nhà phân tích biết bao nhiêu phần trăm của
doanh thu đã tạo nên thu nhập sau thuế của doanh nghiệp. Ví dụ, nếu tính toán
được rằng tỷ suất lợi nhuận của doanh thu là 0,1 (hay 10%), chúng ta có thể suy
ra rằng cứ bình quân 10 đồng lợi nhuận sau thuế phát sinh từ 100 đồng doanh thu
bán hàng.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong
việc đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, từ tỷ suất lợi
nhuận doanh thu các nhà phân tích tài chính có thể suy ra chiến lược định giá bán
hàng của doanh nghiệp cũng như có thể biết được mức cạnh tranh trên thị trường.
Xét một cách tổng thể, những người bán lẻ trong thị trường cạnh tranh thường có
tỷ suất lợi nhuận doanh thu thấp. Trong khi những nhà tài chính có thể dự kiến
một mức tỷ suất lợi nhuận doanh thu rất cao trên các thị trường thiểu quyền, ví
dụ như thị trường hoá dầu, khai thác và chế tác kim cương.
1.4.4. Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Tỷ suất lợi nhuận giá thành được tính bằng cách lấy lãi gộp chia cho tổng
doanh thu bán hàng.
Tỷ suất này cung cấp cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn

về chiến lược định giá sản phẩm của doanh nghiệp được nghiên cứu. Ví dụ, một
tỷ suất lợi nhuận giá thành 0.33 (hay 33%) cho chúng ta biết rằng, doanh nghiệp
định giá sản phẩm của nó lên tới 150% chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, đây là một trong những chỉ số rất khó sử dụng, nhất là đối với
những doanh nghiệp cung cấp rất nhiều loại hàng hoá, chủng loại sản phẩm khác
nhau hoặc đối với những thị trường hàng hoá luôn biến động.
Tỷ suất doanh lợi bán hàng có thể bị hiểu hoặc suy diễn sai đơn giản chỉ vì
trong thực tế đối với nhiều loại hình kinh doanh, doanh nghiệp không tách biệt
giá vốn hàng bán với chi phí bán hàng và chi phí quản lý trong báo cáo tài chính
của nó. Hơn nữa một khi chúng ta không xác định được giá vốn hàng bán của
doanh nghiệp, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta lấy tỷ suất lợi nhuận giá thành làm
chỉ tiêu chủ đạo để tiến hành phân tích tài chính.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
11
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, trong
đó có những nhân tố thuộc về chính bản thân doanh nghiệp nhưng cũng có những
nhân tố khách quan tác động vào quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp
làm cho doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận trong kỳ như dự tính. Các nhân
tố đó bao gồm.
1.5.1. Các nhân tố về phía doanh nghiệp
1.5.1.1. Tính chất của hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp
Theo quan điểm của kinh tế học, hàng hóa mà doanh nghiệp cung cấp ra
thị trường gồm 3 loại: Hàng xa xỉ, hàng thông thường và cấp thấp.
- Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá xa xỉ
Hàng hoá xa xỉ là những hàng hoá có độ co dãn cầu của thu nhập lớn hơn
1. Trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, mức tăng thu nhập khả
dụng của người tiêu dùng cũng tăng nhanh. Khách hàng sẽ tiêu thụ ít hàng hoá
cấp thấp trong khi chi tiêu nhiều hơn của các hàng hoá xa xỉ. Như vậy doanh thu

của doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.
Ngược lại, trong một nền kinh tế đang trên đà đi xuống, người dân sẽ tiêu
dùng ít hàng hoá xa xỉ trong khi dành một phần đáng kể thu nhập cho việc tiêu
dùng các chủng loại hàng hóa cấp thấp. Tình trạng này xảy ra bởi vì thu nhập khả
dụng giảm đi trong khi người dân có tâm lý bi quan về nền kinh tế trong tương
lai.
- Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá thông thường
Hàng hoá thông thường là những hàng hoá có độ co dãn giá của cầu lớn
hơn 0 nhưng nhỏ hơn 1. Tăng trưởng kinh tế cũng có tác động cùng chiều lên
hàng hoá thông thường như đối với hàng hoá cấp thấp. Tuy nhiên tăng trưởng
kinh tế không có ảnh hưởng mạnh mẽ lên việc tiêu thụ các loại hàng hoá thông
thường. Do đó khi nền kinh tế tăng trưởng bùng nổ, doanh thu của các doanh
nghiệp cung cấp hàng hoá thông thường sẽ tăng nhưng không mạnh. Tương tự
doanh thu của các doanh nghiệp trên cũng giảm nhưng không mạnh khi nền kinh
tế rơi vào tình trạng suy thoái.
- Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá cấp thấp
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
12
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hàng hoá cấp thấp là những hàng hoá thiết yếu cho nhu cầu hàng ngày
của con người và có hệ số co dãn giá của thu nhập nhỏ hơn 0. Hệ số co dãn giá
của cầu nhỏ hơn 0 hàm ý rằng khi thu nhập khả dụng của người tiêu dùng tăng
lên, người tiêu dùng sẽ tiêu thụ ít hơn những hàng hóa bị coi là cấp thấp như gạo
tấm, vải thô,
Trong trường hợp này doanh thu của doanh nghiệp bị ảnh hưởng theo
chiều ngược lại với chiều tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là trong nền kinh tế bùng
nổ, doanh thu của doanh nghiệp giảm mạnh do bán được ít sản phẩm hơn dẫn tới
lợi nhuận giảm mạnh. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái doanh thu và
lợi nhuận của doanh nghiệp đều tăng lên.
1.5.1.2. Quá trình tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và

dịch vụ
Vấn đề được đặt ra ở đây là sau khi ban lãnh đạo doanh nghiệp lựa chọn
được qui mô sản xuất kinh doanh tối ưu, họ tiếp tục phải quyết định về một vấn
đề kinh tế cơ bản là sản xuất như thế nào để đảm bảo được giá thành sản xuất ở
mức thấp chi phí không tăng lên quá cao trong khi chất lượng sản phẩm vẫn được
duy trì hoặc chất lượng sản phẩm không ngừng được cải tiến trong khi tổng chi
phí không tăng lên quá cao. Các doanh nghiệp phải lựa chọn các nhân tố đầu vào
sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất của đơn vị, ngành nghề mình. Tổ chức quá
trình sản xuất hàng hoá là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố
lao động đầu vào bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, lao động. khoa học công
nghệ, Đây là quá trình sử dụng đầu vào một cách tối ưu để ổn định quá trình
sản xuất sản phẩm. Quá trình này được thực hiện một cách đồng bộ, có khoa học
hay không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động của người công nhân, đặc
biệt là chất lượng sản phẩm làm ra có đảm bảo tiêu chuẩn hay không. Việc phấn
đấu tìm mọi biện pháp để tổ chức tốt quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá là
nhân tố có ý nghĩa quyết định để giảm chi phí sản xuất đối với từng yếu tố đầu
vào, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nhằm mục đích cuối cùng là tối đa
hoá lợi nhuận trong doanh nghiệp.
1.5.1.3. Quá trình tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trên thị trường
Sau khi hàng hoá dịch vụ đã được sản xuất, vấn đề còn lại của doanh
nghiệp chính là quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp hoạt động
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
13
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì một trong các mục tiêu hàng đầu là
phải tiêu thụ hết sản phẩm hàng hoá trong thời gian ngắn. Doanh thu của doanh
nghiệp chỉ có thể được ghi nhận khi người mua cam kết trả tiền. Bên cạnh đó
việc tiêu thụ nhanh chóng các sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm các chi phí của
doanh nghiệp như chi phí lưu kho, đảm bảo được chất lượng hàng hoá bán ra,
tránh tình trạng thất thoát. Để tổ chức tốt công tác tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, các

doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác Marketing bán hàng. Marketing bán hàng
bao gồm việc doanh nghiệp phải ra quyết định về phân phối sản phẩm và xúc tiến
bán hàng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, việc sử dụng các kênh phân phối trung gian là điều gần như không thể
tránh khỏi. Các trung gian thương mại hoạt động có hiệu quả hơn vì nó có mạng
lưới bán hàng rộng khắp trên thị trường tiêu thụ. Các doanh nghiệp sản xuất sẽ
tối thiểu hoá số lần tiếp xúc bán cần thiết để thỏa mãn nhu cầu thị trường của họ.
Nhờ có mối quan hệ tiếp xúc có sẵn, kinh nghiệm bán hàng đến người tiêu dùng,
việc chuyên môn hoá và qui mô hoạt động mà những kênh phân phối hàng hoá
trung tâm sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian tiêu thụ. Trong một
số trường hợp nhà sản xuất có thể tiến hành phân phối sản phẩm trực tiếp nhưng
phần lớn các loại sản phẩm hàng hoá cần phải phân phối qua các trung gian
thương mại theo nguyên tắc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội.
Ngoài việc phải tiến hành việc lựa chọn các kênh phân phối, các doanh
nghiệp thường phải tiến hành hoạt động Marketing xúc tiến hỗn hợp chính là
truyền tin về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp tới khách
hàng để thuyết phục họ mua và sử dụng. Một số dạng chủ yếu của chiến lược
Marketing hỗn hợp thường được các doanh nghiệp sử dụng là: quảng cáo (bao
gồm mọi hình thức giới thiệu gián tiếp về những ý tưởng, hàng hoá hoặc dịch
vụ), khuyến mại (những biện pháp tác động tức thời hay ngắn hạn để khuyến
khích việc mua sản phẩm hay dịch vụ), tuyên truyền (quan hệ với công chúng),
hay bán hàng cá nhân (giới thiệu về hàng hoá hay dịch vụ của người bán hàng
qua cuộc đối thoại với một hoặc nhiều khách hàng), Marketing trực tiếp (sử dụng
một hay nhiều công cụ truyền thông Marketing để ảnh hưởng đến quyết định trực
tiếp của khách hàng).
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
14
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.5.1.4. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh, tổ chức lao động và sản
phẩm của doanh nghiệp.

Ta có thể thấy rằng đặc điểm kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn tới công tác
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trước kia, các doanh nghiệp chuyên sản
xuất và kinh doanh một loại sản phẩm nhưng hiện nay trong cơ chế thị trường,
các doanh nghiệp không chỉ sản xuất kinh doanh một mặt hàng mà bên cạnh đó
có thể kinh doanh nhiều sản phẩm có những tính năng và công dụng khác nhau.
- Về tổ chức lao động trong doanh nghiệp.
Việc sắp xếp lao động trong doanh nghiệp hợp lý tạo điều kiện thuận lợi
cho việc lưu thông hàng hoá, bố trí người lao động phù hợp với trình độ chuyên
môn, năng lực tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng chuyên môn của mình
và có những sáng kiến hay cho doanh nghiệp.
Trong quá trình kinh doanh, để người công nhân hiểu rõ được mục tiêu
phấn đấu của doanh nghiệp mới có thể đồng tâm hiệp lực phấn đấu cho mục tiêu
đó, cho nên để doanh nghiệp phát triển bền vững cần phải kết hợp giữa sức mạnh
tài chính và tình đoàn kết vì doanh nghiệp của đội ngũ công nhân.
- Về sản phẩm.
Nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng và phong phú, do vậy để đáp ứng nhu cầu
hơn nữa và tăng được doanh thu thì doanh nghiệp cần có cơ cấu mặt hàng phù
hợp. Ngoài kinh doanh sản phẩm chính, doanh nghiệp còn có thể kèm theo
những sản phẩm phụ để tận dụng nguồn nguyên liệu và đáp ứng nhu cầu nào đó
của người tiêu dùng nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhưng
hơn bao giờ hết sản phẩm đó phải đảm bảo các yếu tố sau:
+ Giá cả sản phẩm.
Một yếu tố quan trọng tạo nên giá cả sản phẩm là giá thành tiêu thụ. Giá
thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các
chi phí để sản xuất và tiêu thụ. Giá thành là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm
và doanh thu tiêu thụ. Khi kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều mong muốn có lãi
nên phải quan tâm đến giá thành tiêu thụ sản phẩm làm sao để giá thành thấp hơn
giá bán sản phẩm trên thị trường. Đây là một lợi thế cạnh tranh giúp cho doanh
nghiệp có thể thu hút được khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, giá cả
sản phẩm tác động rất lớn đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Tuỳ vào từng địa bàn

Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
15
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiêu thụ sản phẩm có những mức giá cả khác nhau để phù hợp với giá trị sản
phẩm.
+ Chất lượng sản phẩm.
Việc sản xuất sản phẩm hàng hoá phải gắn liền với việc đảm bảo và nâng
cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng kìm hãm
hay tăng trưởng lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, chất lượng sản phẩm cũng là một
vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể dễ dàng đè bẹp các đối thủ và ngược lại.
Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng trong những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng.
Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà cần
căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp.
+ Chu kỳ sống của sản phẩm.
Không một sản phẩm nào có thể tồn tại mãi mãi nếu như nó không có sự
cải tiến theo xu hướng phát triển của thời đại. Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm có
chu kỳ sống. Chu kỳ sống của sản phẩm được chia ra làm 4 giai đoạn: giai đoạn
xuất hiện, giai đoạn phát triển, giai đoạn bão hoà, giai đoạn suy thoái. Mỗi giai
đoạn tồn tại và phát triển nhanh hay chậm đều phải phụ thuộc vào những sản
phẩm cụ thể hay đặc tính, tính chất khác nhau.
1.5.1.5. Tiềm lực tài chính
Mỗi doanh nghiệp đều có những thế mạnh nhất định và tiềm lực tài chính
cũng là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp. Một nhà
kinh doanh giỏi không thể làm gì nếu không có tài chính (tiền). Nguồn tài chính
trong doanh nghiệp thường gồm:
- Vốn chủ sở hữu: (vốn tự có) là số tiền của các doanh nghiệp hay các cổ
đông góp vốn kinh doanh. Là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh của doanh
nghiệp.
- Vốn nợ phải trả: là nguồn vốn vay từ bên ngoài thông qua các hình thức

vay dài hạn, ngắn hạn ngân hàng, phát hành trái phiếu,
1.5.1.6. Tiềm lực vô hình, vị trí cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp
Mỗi doanh nghiệp đều muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và cơ sở
vật chất kỹ thuật tốt. Nhưng không phải khi mới bắt đầu thành lập mà đã có được
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
16
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những cái đó, tiềm lực vô hình cũng vậy. Để có được doanh nghiệp phải thể hiện
bằng chính những sản phẩm của mình. Một khi những sản phẩm mang thương
hiệu của Công ty có uy tín với người tiêu dùng thì đương nhiên doanh nghiệp đã
tạo được lòng tin với khách hàng. Vì thế, những sản phẩm của doanh nghiệp
mình sẽ ngày càng tiêu thụ được nhiều hơn đem lại doanh thu cao hơn.
1.5.2. Các nhân tố ngoài doanh nghiệp
1.5.2.1. Quan hệ cung cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị
trường
Lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các
mặt, tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu thị
trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ quy trình sản xuất để
ra quyết định về sản lượng hàng hoá sản xuất. Nhưng trước hết lợi nhuận chịu sự
tác động của cung cầu về chính hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhu cầu về hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường là nhân tố
quan trọng trong vấn đề ra quyết định về sản lượng sản xuất. Khi nắm bắt được
nhu cầu thị trường, doanh nghiệp sẽ có khả năng để xác định qui mô tối ưu nhằm
tối đa hoá lợi nhuận, hay tối đa hoá doanh thu, Nhu cầu có khả năng thanh toán
đối với hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp tạo điều kiện thuận lợi
trong việc tiến hành tận dụng tối đa công suất của máy móc, thiết bị. Đồng thời
sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được tiêu thụ nhanh, mạnh trên thị trường, từ đó
lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, khi nhu cầu về hàng

hóa, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường chỉ ở mức thấp, doanh nghiệp chỉ
có thể tiến hành hoạt động sản xuất cầm chừng. Công nhân chỉ có thể làm việc
thay phiên nhau trong khi máy móc hoạt động với công suất thấp Điều này sẽ
dẫn tới một sự lãng phí, doanh thu thấp và lợi nhuận không đạt được mức kế
hoạch đề ra, thậm chí có thể xảy ra tình trạng thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản.
1.5.2.2. Tỷ giá hối đoái
Trong xu thế toàn cầu hiện nay tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng đối
với sự tồn tại và quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trực tiếp hay gián tiếp nó
có ảnh hưởng rất lớn đến tổng doanh thu và tổng chi phí của doanh nghiệp, qua
đó tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo. Việc các
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
17
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngoại tệ khác lên giá sẽ làm lợi cho doanh nghiệp. Hàng hoá xuất khẩu sẽ trở nên
tương đối rẻ hơn so với hàng hoá cùng chủng loại ở nước ngoài. Vì lý do như
vậy, người nước ngoài mua nhiều hàng hóa của doanh nghiệp nước ta hơn, do đó
các doanh nghiệp bán được nhiều hàng hóa hơn.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ
giá trên thị trường ngoại hối, nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng hầu hết
các nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ, giá
nguyên vật liệu đầu vào tăng lên tương ứng dẫn tới giá thành sản xuất cũng tăng
theo. Kết quả là chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng mạnh trong khi doanh
nghiệp khó có thể tăng giá bán sản phẩm của mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp
sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi ngoại tệ có xu hướng tăng giá mạnh, các
khoản vay bằng ngoại tệ của doanh nghiệp để mua nguyên vật liệu và tài sản cố
định càng làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên tồi tệ. Điển hình
là vụ phá sản của hãng hàng không Laker, hãng đã vay rất nhiều bằng đồng USD
trong khi hầu hết doanh thu của nó lại tính trên cơ sở của đồng bảng Anh. Khi
đồng USD lên giá mạnh so với đồng bảng Anh vào đầu những năm 1980, hãng
hàng không Laker không chi trả được, và đã đi đến phá sản.

1.5.2.3. Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ có tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của doanh nghiệp. Nếu chính phủ cho rằng một ngành nào đó có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, là đầu tàu trong phát triển kinh tế tương lai, ngành
đó sẽ được lợi từ chính sách mà chính phủ đề ra. Các doanh nghiệp thuộc ngành
đó sẽ được chính phủ tạo điều kiện thuận lợi ưu đãi trong quá trình hoạt động
như giảm thuế, đảm bảo mua một lượng hàng hoá và dịch vụ cố định hàng năm,
thậm chí chính phủ có thể áp dụng các chính sách bảo hộ như thuế nhập khẩu,
hạn ngạch đối với hàng hoá cùng loại Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến một
hệ quả xấu là các doanh nghiệp của cùng một ngành vận động hành lang để được
bảo vệ.
1.5.2.4. Khách hàng của doanh nghiệp
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ là yếu tố quyết định sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vì quy mô hay số lượng khách hàng
tạo nên quy mô của thị trường. Các nhà marketing phải nghiên cứu, tìm hiểu về
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
18
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phong tục tập quán, tâm lý… Để phân vùng thị trường tạo điều kiện cho việc
phân phối sản phẩm một cách hợp lý. Thông thường để theo dõi thông tin về
khách hàng doanh nghiệp thường tập trung vào 5 loại thị trường sau:
- Thị trường người tiêu dùng: Là các cá nhân hộ gia đình mua hàng hoá,
dịch vụ phục vụ cho mục đích cá nhân của mình.
- Thị trường khách hàng: Là các tổ chức và các doanh nghiệp mua hàng
hoá, dịch vụ để gia công chế biến hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất
kinh doanh.
- Thị trường mua bán trung gian: Là các tổ chức cá nhân mua hàng hoá,
dịch vụ bán lại nhằm mục đích kiếm lời.
- Thị trường các cơ quan và tổ chức của Đảng, Nhà nước mua hàng hoá
dịch vụ sử dụng trong lĩnh vực quản lý và hoạt động công cộng.

- Thị trường quốc tế: Là những khách hàng nước ngoài bao gồm người
tiêu dùng, người sản xuất, người mua trung gian, chính phủ. Nhu cầu và các yếu
tố tác động đến nhu cầu là khác nhau. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu và đưa ra
những phương thức phù hợp nhất đối với khách hàng.
1.5.2.5. Môi trường kinh tế, pháp luật, công nghệ
- Môi trường kinh tế: Khi một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc
độ cao làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư tăng lên. Đây chính là cơ hội cho
các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm làm ra và mau chóng thu
hồi vốn cũng như lãi. Các yếu tố cơ bản của môi trường kinh tế tác động đến cơ
hội kinh doanh bao gồm:
+ Tiềm năng của nền kinh tế: Là yếu tố tổng quát có thể phản ánh các
nguồn lực có thể huy động.
+ Các thay đổi về cấu trúc, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân: Tác
động đến sự thay đổi vị trí, vai trò và xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc
dân kéo theo sự thay đổi chiều hướng phát triển của doanh nghiệp.
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Xu hướng phát triển chung của nền
kinh tế, của tổng ngành liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến sự phát triển hay suy
vong của doanh nghiệp
+ Lạm phát và khả năng kiểm soát lạm phát: Ảnh hưởng đến hiệu quả thu
nhập tích luỹ, kích thích hay kìm hãm lợi nhuận.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
19
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Hoạt động ngoại thương: Xu hướng đóng mở của nền kinh tế tác động
đến cơ hội phát triển của doanh nghiệp, các điều kiện cạnh tranh, khả năng sử
dụng lợi thế quốc gia và thế giới công nghệ, nguồn vốn, thị trường…
+ Hệ thống thuế, mức độ hoàn thiện và thực thi các chính sách thuế.
+ Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
- Môi trường chính trị: Một quốc gia có chế độ chính trị ổn định tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp yên tâm trong công tác sản xuất kinh doanh và mở

rộng quan hệ buôn bán, trao đổi với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Môi trường pháp luật: Có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Nó
vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực đến sự phát triển của doanh nghiệp.
Vì vậy các doanh nghiệp một mặt hết sức tuân thủ pháp luật, một mặt cố gắng
tìm kẽ hở để lách luật.
- Môi trường công nghệ: Một doanh nghiệp có dây chuyền công nghệ sản
xuất hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, kiểu dáng đẹp phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng và tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh chóng đem lại lợi
nhuận cao. Ngược lại, một doanh nghiệp có công nghệ cũ kĩ, lạc hậu thì sản
phẩm làm ra có chất lượng kém không tiêu thụ được dẫn đến bị lỗ vốn và dần
dần dẫn đến phá sản.
1.5.2.6. Môi trường văn hoá, xã hội
Phong tục tập quán, lối sống, thói quen người tiêu dùng có ảnh hưởng sâu
sắc tới nhu cầu thị trường và do đó ảnh hưởng đến khả năng cung ứng sản phẩm
của doanh nghiệp.
1.5.2.7. Các đối thủ cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường thì cạnh tranh là một quy luật tất yếu dễ tồn tại và
phát triển, các doanh nghiệp phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh. Khi môi
trường cạnh tranh khốc liệt thì bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất
lượng về mọi mặt để có thể tiêu thụ sản phẩm (đó là ưu thế trong cạnh tranh).
Nhưng mặt khác có một số doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh, dùng
nhiều thủ đoạn gây tổn thất cho những doanh nghiệp khác và khách hàng (đó là
mặt trái của kinh doanh). Nhưng cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế
thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, thoả mãn nhu cầu tốt hơn người đó
sẽ thắng.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
20
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LỢI NHUẬN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN KỸ THUẬT ĐIỆN SÔNG ĐÀ

2.1. Khái quát về công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần kỹ
thuật điện Sông Đà
Công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà được thành lập trên cơ sở góp vốn
của Tổng công ty Sông Đà và công ty cổ phần Sông Đà 11. Tiền thân là trung
tâm thí nghiệm điện - Tổng công ty Sông Đà. Là một doanh nghiệp nhà nước
được thành lập theo quyết định số 34/TCT – TCĐT ngày 22/05/2002 của hội
đồng quản trị tổng công ty Sông Đà. Hiện nay, công ty cổ phần kỹ thuật điện
Sông Đà là đơn vị duy nhất của tổng công ty Sông Đà và là một trong bốn đơn vị
của cả nước có khả năng thực hiện thí nghiệm hiệu chỉnh đưa vào vận hành các
công trình điện của cả nước như nhà máy điện, trạm biến áp và đường dây tải
điện có cấp điện áp đến 500KV, công suất đến 3000MW.
Tên công ty: Công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà
Tên viết tắt: SEEC
Tel: 0433553932
Fax: 0433553931
Email:
Trụ sở chính: Tầng 5 trung tâm thương mại Hà Đông- số 8 Quang Trung-
Quận Hà Đông- Thành phố Hà Nội.
Vốn điều lệ của Công ty: hơn 15 tỷ đồng
Qua quá trình xây dựng và trưởng thành, Công ty đã nhiều lần đổi tên, bổ
sung các chức năng, nhiệm vụ, Công ty đã không ngừng lớn mạnh về quy mô, tổ
chức sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của
người lao động luôn luôn được nâng cao.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
21
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
* Giai đoạn I (1988 – 2001)
Đây là giai đoạn rất khó khăn của Công ty, vừa phải ổn định tổ chức để
thích ứng với sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, vừa phải

khắc phục những hậu quả của lịch sử để lại nhằm thích ứng được với cơ chế mới
và xây dựng cơ sở vật chất phát triển.
Năm 1988 Công ty bước vào hoạt động và lấy tên là: “Trung tâm thí
nghiệm điện - tổng công ty Sông Đà”. Với số vốn nhỏ nhoi, trang thiết bị làm
việc và cơ sở vật chất còn nghèo nàn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ yếu nên
hoạt động kém hiệu quả. Trong khoảng thời gian này vấn đề sản xuất kinh doanh
của công ty gặp rất nhiều khó khăn, giá trị sản lượng hàng năm chỉ khoảng 3 - 4
tỷ đồng. Do hiệu quả kinh doanh không cao, chưa phát huy được những thế mạnh
sẵn có nên đời sống của cán bộ công nhân viên công ty trong thời kỳ này hết sức
khó khăn. Hoạt động của các đoàn thể chưa phát huy tác dụng trong việc thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên Công ty.
Tuy nhiên, đến năm 1990 Công ty đổi tên thành “Công ty kinh doanh vật
tư Sông Đà 15” và đã bắt đầu tự tìm hướng đi đúng trên cơ sở tìm hiểu và nắm
bắt, tích luỹ kinh nghiệm và đặc điểm của nền kinh tế thị trường, bước đầu đặt
nền móng cho sự phát triển trong những năm tiếp theo.
* Giai đoạn II (2001 – 2006)
Sau một thời gian bươn trải trong cơ chế thị trường đến năm 2001 Công ty
đổi tên thành “Xí Nghiệp Kỹ Thuật Điện Sông Đà”. Ban lãnh đạo Công ty cùng
tập thể cán bộ, công nhân viên trong Công ty đã đoàn kết nhất trí, năng động
sáng tạo, đưa Công ty phát triển đi lên, liên tục làm ăn có lãi, tạo được uy tín trên
thị trường.
Có thể nhận thấy rõ ràng nhất trong thời kỳ này, đó là việc Công ty liên
tục đầu tư cải tiến, thay thế các thiết bị cũ bằng hệ thống các thiết bị mới tiên
tiến, hiện đại, phục vụ tốt cho quá trình thi công các công trình, các hạng mục
lớn. Có thể nói, đây là bước đi đúng đắn nhằm xác lập lại các định mức kinh tế -
kỹ thuật, cải tiến sản xuất, tiến hành quản lý khoán công việc – khoán tiền lương,
giảm bớt chi phí quản lý, nhất là những chi phí trong hội họp, tiếp khách.
Đối với những bộ phận kinh doanh kém hiệu quả, Công ty đã mạnh dạn
cho ngừng hoạt động để tìm hướng kinh doanh mới. Mặt khác, ban lãnh đạo
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN

22
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Công ty đã chỉ đạo các phòng ban, chức năng kiểm tra việc tổ chức sản xuất ở cơ
sở theo dõi và thực hiện tốt các pháp lệnh thống kê kế toán, lên các kế hoạch sát
thực để điều tiết và quản lý vốn. Do đó, đảm bảo việc thu hồi vốn nhanh và bảo
toàn vốn cho đơn vị. Đối với từng bộ phận, thường xuyên duy trì chế độ báo cáo
thường xuyên lên ban giám đốc để đánh giá đúng việc thực hiện các kế hoạch sản
xuất kinh doanh, kịp thời chấn chỉnh, giải quyết các hiện tượng phát sinh.
Bên cạnh đó, Công ty còn luôn lấy hiệu quả kinh tế để chỉ đạo sản xuất
kinh doanh là mục tiêu, phương hướng hoạt động, đồng thời triển khai mở rộng
đa dạng hoá ngành nghề, lấy đầu tư kinh doanh điện nước làm ngành mũi nhọn.
Từ những giải pháp đồng bộ trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện trên,
năm 2002 Công ty đã tiến hành cổ phần hoá và đổi tên thành “Công Ty Cổ Phần
Kỹ Thuật Điện Sông Đà”. Lúc này Công ty đã hoạt động trong hầu hết các ngành
nghề, lĩnh vực có thể kể ra một số ngành nghề kinh doanh của Công ty như sau:
+ Xây lắp nhà máy điện, đường dây tải điện, trạm biến áp và các dây
truyền công nghệ có cấp điện áp đến 500KV.
+ Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, thuỷ điện, thuỷ lợi,
giao thông.
+ Tư vấn thiết kế xây dựng, đầu tư hạ tầng và kinh doanh bất động sản.
+ Kinh doanh vật tư, vận tải, sản xuất đồ gỗ gia dụng.
+ Kinh doanh và đầu tư tài chính.
+ San lấp, đào đắp, nạo vét bằng cơ giới các loại công trình xây dựng.
+ Sản xuất vật liệu xây dựng, cấu kiện bê tông.
+ Xây dựng các công trình kiến trúc hạ tầng đô thị và công nghiệp.
+ Sửa chữa máy móc thiết bị và gia công cơ khí.
+ Thí nghiệm hiệu chỉnh đưa vào vận hành, thí nghiệm hiệu chỉnh định
kỳ, duy tu bảo dưỡng định kỳ và xử lý sự cố bất thường các nhà máy điện, đường
dây tải điện, trạm biến áp, các dây chuyền công nghệ công nghiệp có điện áp đến
500KV, công suất 3000MW.

+ Lắp đặt, thí nghiệm hiệu chỉnh đưa vào vận hành, bảo trì và nâng cấp
các hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống điều khiển phân tán, hệ thống
SCADA và các hệ thống khác trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
23
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Tư vấn chuyên ngành kỹ thuật điện cho quản lý xây dựng nhà máy điện,
hệ thống điện - điện tử và tự động hoá, bao gồm cả công tác đồng bộ thiết kế,
đồng bộ thiết bị, lập sơ đồ khởi động và thử đồng bộ thiết bị cho các nhà máy
điện, trạm biến áp các dây chuyền công nghệ công nghiệp có công suất
3000MW.
+ Sản xuất công nghiệp và quản lý vận hành các lĩnh vực cơ khí điện, điện
tử, thông tin viễn thông và sản xuất năng lượng điện.
+ Kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị điện - điện tử, công nghệ
thông tin, cơ khí, phương tiện vận tải cơ giới, phụ tùng cơ giới phục vụ thi công
xây lắp các công trình điện, kinh doanh điện thương phẩm theo luật điện lực.
+ Đào tạo chuyên ngành điện kỹ thuật, điện tử, công nghệ thông tin, tin
học,
2.1.2. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà thực hiện chế độ tự chủ sản xuất
kinh doanh theo phương thức hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ trang trải về tài
chính. Công ty là một doanh nghiệp Xây Dựng Cơ Bản với ngành nghề chính là
xây dựng dân dụng, công nghiệp, xây dựng các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi,
đầu tư hạ tầng Do đó đặc điểm sản xuất của Công ty là:
+ Thời gian thi công kéo dài, giá trị công trình lớn, sản phẩm được xây
dựng theo đơn đặt hàng và các hợp đồng kinh tế.
+ Tỷ trọng tài sản cố định và NVL chiếm 70-80% giá trị công trình.
+ Thiết bị thi công không cố định một chỗ mà phải di chuyển liên tục từ vị
trí này sang vị trí khác dẫn đến việc quản lý rất phức tạp.
+ Thiết bị thi công đa dạng, ngoài những thiết bị thông thường còn phải có

những thiết bị rất đặc chủng mới thi công được.
* Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: Do sản phẩm của Công ty
được sản xuất theo đơn đặt hàng do đó quá trình sản xuất sản phẩm được tiến
hành theo công đoạn bao gồm các bước:
Bước 1: Chuẩn bị sản xuất, bao gồm: Lập dự toán công trình, lập kế
hoạch sản xuất, kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu, chuẩn bị vốn và các điều kiện
khác để thi công công trình và các trang thiết bị chuyên ngành để phục vụ cho
việc thi công công trình.
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
24
Trường ĐH KTQD Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bước 2: Khởi công xây dựng: Quá trình thi công được tiến hành theo
công đoạn, điểm dừng kỹ thuật, mỗi lần kết thúc một công đoạn lại tiến hành
nghiệm thu.
Bước 3: Hoàn thiện quy trình sản xuất.
Công ty cổ phần kỹ thuật điện Sông Đà là doanh nghiệp cổ phần, có tư
cách pháp nhân, quản lý chỉ đạo mọi hoạt động kinh tế phát sinh diễn ra tại 2 xí
nghiệp và 7 đội có bộ máy trực thuộc cơ quan Công ty. Công ty tự đứng ra vay
vốn. Sau khi ký kết hợp đồng với các chủ đầu tư Công ty tiến hành giao khoán
cho các xí nghiệp thông qua hợp đồng giao khoán. Tiến độ sản xuất đến đâu đều
có biên bản nghiệm thu sản phẩm thực hiện. Đến khi nào hoàn thành xong thì
tiến hành quyết toán.
Do có thời gian sản xuất khác nhau, lực lượng lao động của Công ty được
chia thành 2 xí nghiệp và 7 đội thi công công trình. Ở mỗi đội có đội trưởng, đội
phó, các công nhân, thống kê kế toán đội Các đội theo dõi tình hình lao động
trong đội, lập bảng chấm công, bảng thanh toán tiền công Các đội hạch toán
riêng theo hình thức báo sổ lên xí nghiệp sau đó xí nghiệp báo cáo lên công ty.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy của công ty
Nguyên tắc tổ chức sản xuất: Bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất
trong quản lý điều hành cũng như trong thực hiện các nhiệm vụ sản xuất ở tất cả

các lĩnh vực hoạt động của công ty.
Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình quản lý dựa vào
chức năng, nhiệm vụ
Sơ đồ : Sơ đồ tổ chức quản lý bộ máy của Công ty
Sinh viên: Vũ Thị Tơ Khoa NHTC - Lớp TCDN
Ban giám đốc
25
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát

×