Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.46 KB, 81 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản chuyên đề là công trình
nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ ĐỀ TÀI
Ngô Phạm Thiện
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
MỤC LỤC
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBTD Cán bộ tín dụng
CSTD Chính sách tín dụng
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV Hưng Yên Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hưng Yên
CLTD Chất lượng tín dụng
DPRR Dự phòng rủi ro
ĐBTV Đảm bảo tiền vay
KH Khách hàng
KTTT Kinh tế thị trường
HĐKD Hoạt động kinh doanh
HĐTD Hợp đồng tín dụng
HĐNH Hoạt động ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NH Ngân hàng
NN Nhà nước
QLRRTD Quản lý RRTD
QTTD Quy trình tín dụng


RRTD Rủi ro tín dụng
SP Sản phẩm
SXKD Sản xuất kinh doanh
TCTD Tổ chức tín dụng
TCKT Tổ chức kinh tế
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
vẫn đang chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu nhập của các NH. Tuy nhiên, hoạt động
này luôn tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế mới nổi như Việt
Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy đủ, trình độ quản trị rủi
ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ NH chưa cao… Do đó, yêu
cầu xây dựng một mô hình quản trị RRTD có hiệu quả và phù hợp với điều kiện
Việt Nam là một đòi hỏi bức thiết để đảm bảo quản lý rủi ro trong hoạt động cấp
TD, hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro và phù hợp với môi
trường hội nhập.
BIDV Hưng Yên là một chi nhánh trực thuộc BIDV, trong những năm qua đã
không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp sự phát triển kinh tế tỉnh nhà. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, BIDV Hưng Yên cũng gặp phải không
ít khó khăn, nhất là trong công tác quản lý RRTD. Đối với công tác QLRRTD vẫn
còn những bất cập, chưa đồng bộ, chưa có chiến lược rõ ràng. Nội dung chủ yếu
trong QLRRTD là phòng ngừa, hạn chế trong phạm vi từng khoản vay mà chưa xây
dựng được chiến lược quản lý danh mục các khoản vay. Đối với từng khoản vay,
biện pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro chủ yếu vẫn mang tính định tính.

Góp phần đáp ứng những yêu cầu và tính cấp thiết nêu trên, đề tài "Tăng
cường công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển tỉnh Hưng Yên" được lựa chọn nghiên cứu.
2. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương cơ bản như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển tỉnh Hưng Yên
Chương 3: Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển tỉnh Hưng Yên
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vì hệ thống kiến thức và kinh nghiệm thực
tiễn của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề này chắc chắn còn nhiều thiếu xót. Do
vậy em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của cô giáo Tiến sĩ Lê Thanh
Tâm và qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Tâm và toàn thể các
anh chị em tại chi nhánh Ngân hang Đầu Tư và Phát triển Hưng Yên đã giúp đỡ chỉ
bảo tận tình để em hoàn thành bài chuyên đề thực tập một cách tốt nhất.
Hưng Yên, tháng 12 năm 2010
Sv. Ngô Phạm Thiện
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.1.1 Khái niệm
-Hoạt động TD là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, trong
đó người cho vay nhượng lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay dựa trên sự tín
nhiệm và theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Sự
hoàn trả này không chỉ bảo tồn giá trị mà còn được tăng thêm dưới hình thức lợi
tức. Quá trình vận động mang tính chất hoàn trả của hoạt động TD là biểu hiện về
sự khác biệt giữa hoạt động TD và các hoạt động kinh tế khác.
TD NH được hiểu là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa một bên là NHTM và một bên là
các cá nhân, các TCKT, tổ chức chính trị xã hội, TCTD, NHTM khác.
-Theo khoản 8, khoản 10 điều 20 theo luật các tổ chức tín dụng: Hoạt động
tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc hoàn trả
bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và
các nghiệp vụ khác.(Theo luật tổ các tổ chức tín dụng Việt Nam)
1.1.1.2 Các hình thức TD
- Các hình thức TD phân theo tiêu thức thời gian: Việc phân loại các
hình thức TD theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với HĐNH vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của TD cũng như hoàn trả của
KH. Theo cách phân loại này TD được phân thành 3 hình thức: TD ngắn hạn là
loại hình TD có thời hạn cho vay tối đa đến 12 tháng; TD trung hạn là loại hình
TD có thời hạn cho vay trên 1 năm đến 5 năm; TD dài hạn là loại hình TD có
thời hạn cho vay trên 5 năm.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
- Các hình thức TD phân theo tiêu thức ĐBTV: Việc phân loại các hình
thức TD theo tiêu thức này rất quan trọng vì các NH trong việc định hướng thu
hồi nợ. Vì đảm bảo cho các khoản TD cho phép NH có được nguồn thu nợ thứ
hai bằng cách phát mại tài sản đảm bảo hoặc qua bên bảo lãnh để thu nợ trong

trường hợp nguồn từ nợ thứ nhất gặp rủi ro. Thông thường, theo tiêu thức này
TD được chia thành 2 hình thức: TD có đảm bảo bằng tài sản và TD có đảm bảo
không phải bằng tài sản.
- Các hình thức TD phân theo mục đích TD:
+ TD bất động sản: TD ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai, TD dài
hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài.
+ TD công thương nghiệp: Là các khoản TD cấp cho các doanh nghiệp để
trang trải các chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, chi trả lương
+ TD nông nghiệp: Đây là khoản TD cấp cho các hoạt động nông nghiệp,
nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng, chăn nuôi
+ TD cá nhân: Đây là các khoản TD cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hoá
tiêu dung đắt tiền như xe hơi, nhà, trang thiết bị trong nhà…
+ TD cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản TD cấp cho các NH, công
ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
+ Cho thuê tài chính: Là việc NH mua các trang thiết bị, máy móc và cho
KH thuê lại các trang thiết bị, máy móc trên.
+ TD khác: Bao gồm các khoản TD khác chưa được phân loại ở trên (ví dụ:
cho vay mua cổ phiếu, góp vốn, )
Ngoài các tiêu thức trên, TD còn có thể phân loại theo đối tượng TD: TD tài
trợ cho tài sản lưu động, tài trợ cho tài sản cố định; theo xuất xứ TD như: TD trực
tiếp, TD gián tiếp… tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
1.1.2 Rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng ngân hàng
Những lĩnh vực HĐKD có khả năng mang lại càng nhiều lợi nhuận thì ẩn
chứa nhiều rủi ro. NH là loại hình kinh doanh đặc biệt, và những rủi ro đối với
HĐNH cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
vực tiền tệ, NHTM thường gặp các loại rủi ro chủ yếu sau: rủi ro về lãi suất, rủi ro

ngoại hối, RRTD, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ
và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác.
RRTD là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất trong thị trường tài chính.
RRTD là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối
với hoạt động của NH vì các khoản cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài
sản và tạo ra phần lớn nguồn thu cho NH song cũng mang lại những thiệt hại nặng
nề, có khi dẫn đến phá sản NH. RRTD gây ra hậu quả nghiêm trọng, do đó điều
quan trọng là phải thực hiện việc đánh giá toàn diện năng lực quản trị của NH liên
quan đến việc nhận định, điều hành, giám sát, kiểm tra củng cố và thu hồi nợ. Quản
trị RRTD gồm cả việc đánh giá chính sách và triển khai thực hiện của NH. Việc
đánh giá cũng nhằm xác định các thông tin tài chính đầy đủ do KH cung cấp để NH
sử dụng làm cơ sở cho việc mở rộng TD, cũng như đánh giá định kỳ về tình hình
biến đổi rủi ro. Sau đây là một số định nghĩa về RRTD:
Thomas P.Fitch: RRTD là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán
được nợ theo thoả thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với
lãi suất, RRTD là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của NH
(Dictionnary of banking terms, Barrons Edutional Series, Inc,c 1997).
Timothy W.Koch: Một khi NH năm giữ tài sản sinh lời, rủi ro xảy ra khi
KH sai hẹn - có nghĩa là KH không thanh toán vốn gốc và lãi theo thoả thuận.
RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc
KH không thanh toán hay thanh toán chậm trễ (Bank management, University of
south carolina, The Dryden Press, 1995, page 107)
Theo quyết định 493/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN: "RRTD
trong HĐNH của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất do KH không có khả năng thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết"
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra các nội dung cơ bản về RRTD như sau:
+ RRTD sẽ dẫn đến tổn thất về tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm
giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ,
hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09

5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
+ RRTD được hiểu là những tổn thất do KH không trả được nợ hoặc giảm
sút CLTD của khoản vay.
+ RRTD phát sinh trong trường hợp NH không thu được đầy đủ gốc và lãi
của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
+ RRTD được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền
lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong HĐTD. RRTD tức là
việc chi trả bị trì hoãn, hoặc không trả được (gốc + lãi) toàn bộ. Điều này gây ra sự
cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của NH.
Từ những định nghĩa và những nội dung cơ bản rút ra về RRTD, có thể đưa
ra khái niệm tổng quát về RRTD NHTM như sau:
RRTD là một trong các loại rủi ro trong hoạt động của NHTM, phản ánh
khả năng có thể xảy ra tổn thất cho NH khi KH vay không thực hiện trả nợ gốc và
lãi đúng hạn đã cam kết trong HĐTD.
RRTD gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của NHTM đó là hoạt động TD.
Các khoản vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của NHTM,
mang lại phần lớn thu nhập cho NH, song cũng mang lại thiệt hại nặng nề, có khi dẫn
đến phá sản. Trước khi cấp TD, NH cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao
cho độ an toàn cao nhất. Nhìn chung NH chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng RRTD
sẽ không xảy ra. Các NH luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức
cao nhất, quên đi vấn đề an toàn do đó rủi ro xảy ra là điều không tránh khỏi. Song
một NH phải cố gắng hạn chế RRTD đến mức thấp nhất, QLRRTD ở mức đã chấp
nhận. Có thể bằng cách: sàng lọc và giám sát KH vay, thiết lập mối quan hệ với KH
lâu dài, quy định các mức TD, tài sản thế chấp và hạn chế TD…
RRTD là một tất yếu trong HĐKD của NH, chỉ có thể tìm ra phương pháp
quản lý, hạn chế nó mà thôi. Để làm được điều đó không những phải hiểu đầy đủ về
RRTD mà còn hiểu thật sâu sắc tình hình kinh doanh thực tế của NH.
1.1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều cách thức để phân loại RRTD, sau đây có thể đưa ra một số

cách thức phân loại như sau:
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
- Căn cứ vào mức độ rủi ro có thể xảy ra: Có thể phân thành 2 loại là Rủi ro
đọng vốn và Rủi ro mất vốn.
Rủi ro đọng vốn: Là những khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi NH
cung cấp TD. Rủi ro đọng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến KH sử dụng vốn cũng như
gây cản trở và khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền.
Rủi ro mất vốn: Là những thiệt hại, mất mát mà NH phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng
nghĩa vụ cam kết trong HĐTD vì bất kể lý do gì. Rủi ro mất vốn có ảnh hưởng trực
tiếp đến NH, làm tăng chi phí đó là những khoản chi phí giám sát, chi phí pháp lý,
tạo thành những khoản nợ quá hạn và nợ khó đòi đối với NH, đồng thời làm cho số
lượng và vòng quay vốn khả dụng bị giảm, lãi chậm thu và có nguy cơ mất trắng,
kéo theo đó là khả năng sinh lời giảm do mất nợ gốc và thực hiện những khoản chi
phí dự phòng tăng lên.
- Căn cứ vào tính chất của rủi ro: Có thể chia thành 2 loại là Rủi ro giao
dịch (Transaction risk) và Rủi ro danh mục (Portfolio risk).
Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: Rủi ro lựa chọn, Rủi ro bảo đảm và Rủi ro
nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích TD ảnh
hưởng đến lựa chọn trong quyết định của NH là cho vay hay từ chối cho vay. Rủi
ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản ràng buộc
trong HĐTD, các loại tài sản bảo đảm, các hình thức bảo đảm và mức độ an toàn
của nó. Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay, như xây
dựng và thực hiện CSTD để định hướng cho việc thực hiện cho vay và kiểm soát
danh mục cho vay và giám sát danh mục cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ
thống xếp hạng rủi ro và kỷ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục được phân ra hai loại là Rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và
Rủi ro tập trung (Concentration risk). Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang

tính chất riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế. Rủi ro tập trung là
mức dư nợ cho vay được dồn cho một (một số) KH, một (một số) ngành kinh tế,
một (một số) loại cho vay hoặc một (một số) khu vực địa lý,
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
1.1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường RDTD.
a. Các chỉ tiêu xác định rủi ro tín dụng
 Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
Nợ quá hạn phản ánh chất lượng tín dụng, nó đo độ an toàn và đánh giá rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Ở Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% là chấp nhận
được.
 Tỷ lệ lãi treo
Lãi treo phát sinh
Tỷ lệ lãi treo =
Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng
Lãi treo là tiền lãi của khoản cho vay mà ngân hàng chưa thu hồi được. Chỉ
tiêu này phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của ngân hàng do rủi ro
tín dụng.
 Tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng doanh số cho vay
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không hoặc rất ít có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này
phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
 Tỷ lệ nợ khoanh, xoá nợ
Nợ khoanh, xoá nợ

Tỷ lệ nợ khoanh =
Tổng doanh số cho vay
Nợ khoanh là những khoản cho vay không thu hồi được, thường là các khoản
cho vay chính sách và Nhà nước phải “khoanh” lại.
 Tỷ lệ miễn giảm lãi
Miễn giảm lãi
Tỷ lệ miễn giảm lãi =
Tổng doanh số cho vay
 Tỷ trọng nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ trọng nợ khó đòi =
Nợ quá hạn
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
Các tỷ lệ này càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao, ngân hàng có
nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được, thậm chí nếu nghiêm
trọng có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực của phá sản.
b. Các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng của ngân hàng
Hiệp định Basel I: là thoả thuận về các quy chuẩn tài chính áp dụng đối với
các NHTM của nhóm G10 ký ngày 15/07/1988 tại Thuỵ Sĩ. Hiệp định này được coi
là một thể chế pháp lý quan trọng nhất có ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn hệ
thống ngân hàng trên thế giới và hiện nay có trên 100 nước áp dụng các quy chuẩn
tài chính của Hiệp định này. Nội dung được qui định: Các tài sản của ngân hàng
trong và ngoài bảng cân đối kế toán được phân thành 4 nhóm, tương ứng với mức
độ rủi ro của từng nhóm sẽ có một hệ số rủi ro.
Hiệp định Basel sửa đổi năm 1999 (Basel II): trong quá trình thực hiện Hiệp
định Basel I một số khiếm khuyết đã dần bộc lộ, nhất là trong việc phân bổ vốn an
toàn rủi ro tín dụng. Tháng 6/1999, Hiệp định Basel II ra đời với một số thay đổi
như sau:

+ Yêu cầu về vốn an toàn rủi ro: được tính toán dựa trên cách xếp hạng tín
dụng do tổ chức chuyên nghiệp thực hiện hoặc đánh giá tín dụng nội bộ do hệ thống
các ngân hàng cùng lập ra.
+ Kiểm tra đánh giá: cần thực hiện tốt công tác này để hoạt động của ngân
hàng luôn tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng, phát triển và hoàn thiện quá
trình đánh giá nội bộ.
+ Nguyên lý thị trường: khuyến cáo các ngân hàng công bố rộng rãi thông tin
về tình hình hoạt động, vốn và mức độ rủi ro cho cổ đông.
Tại Việt Nam, NHNN đã ban hành hai văn bản quan trọng liên quan tới vấn
đề này:
Quyết định số 297/1999 QĐ- NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng, theo đó, các TCTD tại
Việt Nam phải thường xuyên duy trì các tỷ lệ an toàn gồm:
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: TCTD (trừ chi nhánh các ngân hàng nước
ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có so với tài sản kể cả cam kết
ngoài bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
+ Tỷ lệ thanh khoản: kết thúc ngày làm việc các TCTD phải duy trì cho ngày
làm việc tiếp theo tỷ lệ thanh khoản tối thiểu bằng 1 giữa tài sản có thể thanh toán
ngay và nguồn vốn phải thanh toán ngay.
+ Tỷ lệ tối đa sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn: các TCTD chỉ
được phép sử dụng tối đa 25% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.
Riêng đối với các đối tượng vay là TCTD cổ phần của Nhà nước, nhân dân và tín
dụng của HTX thì tỷ lệ quy định tối đa là 20% và 10%.
Quyết định số 296/1999/QĐ- NHNN5 về giới hạn cho vay đối với một khách
hàng của TCTD. Tổng dư nợ cho vay của một TCTD đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD đó.
1.2 CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Phần lớn các thua lỗ của các NHTM đều có nguyên nhân từ hoạt động TD,
tức là khi RRTD xảy ra. Làm thế nào để RRTD không xảy ra hoặc hạn chế khả
năng thấp nhất RRTD có thể xảy ra trong hoạt động TD.
QLRRTD là việc NHTM xây dựng bộ máy tổ chức nhân sự, đề ra các quy
trình, quy chế, thực hiện quy định của Nhà nước nhằm hạn chế tối đa các RRTD có
thể xảy ra, cũng như hạn chế tối đa tổn thất cho NH.
Như vậy, QLRRTD đòi hỏi NH phải xây dựng được một bộ máy tổ chức
QLRRTD một cách hợp lý với đầy đủ các bộ phận chức năng rõ ràng, với đội ngũ
nhân lực của các bộ phận vừa đảm bảo đủ về số lượng vừa tinh về chất lượng, tức là
có đủ năng lực và kinh nghiệm trong công tác QLRRTD NH.
Sau khi bố trí được bộ máy chức năng hợp lý, sản phẩm của bộ máy tổ chức
này là đề ra các quy trình, quy chế, các biện pháp nhằm hạn chế tối đa tổn thất xảy
ra trong hoạt động TD, đưa lại lợi ích tốt nhất cho NH trong trong việc xử lý các
khoản nợ xấu, nợ có vấn đề đã xảy ra.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
1.2.2 Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
RRTD được xem là loại rủi ro mà NHTM phải quan tâm nhất vì nó quyết
định phần lớn đến thu nhập của NH, nó quan hệ mật thiết và cũng vừa là nguyên
nhân vừa là kết quả với các loại rủi ro khác như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất,
nó đe dọa sự an toàn, sự tồn tại của NH. Vì vậy, cần phải xây dựng bộ máy tổ chức,
xây dựng các quy chế, quy trình nghiệp vụ trong nội bộ NH để kiểm soát RRTD là
yêu cầu tất yếu và cần thiết của mỗi NH. Có thể phân tích sự cần thiết phải
QLRRTD bởi những lý do sau:
(1) Hoạt động TD có nguy cơ rủi ro cao
- Các rủi ro khác trong thị trường xảy ra đều có thể dẫn đến RRTD: Có thể
nói, RRTD là loại rủi ro liên quan trực tiếp đến hầu hết các loại rủi ro xảy ra trên thị

trường như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro giá cả hàng hóa, rủi ro chính sách, rủi
ro tự nhiên (thiên tai, dịch bệnh, ), khi các rủi ro này xảy ra đối với các chủ thể
kinh tế thì đều có thể dẫn đến RRTD vì phần lớn hoạt động của các chủ thể kinh tế
này là sử dụng vốn vay NH.
- Vốn thực bỏ ra hện tại, kết quả thu về chỉ là dự tính trong tương lai: Căn
cứ cơ bản và quan trọng nhất để NH quyết định cho vay là dựa vào dự án (hay
phương án) của KH vay. Trong khi đó, các dự án hay phương án của KH vay lúc
này đang ở trên giấy tờ, mới ở mức tính toán ở thời điểm hiện tại và những kết quả
của nó thì đang ở tương lai, trong dự tính. Có vô số những tình huống, những khả
năng xảy ra mà người vay không thể dự tính được trong dự án của mình, nguy cơ
xảy ra rủi ro đối với nó là hoàn toàn có thể, dẫn đến nguy cơ RRTD xảy ra, NH
không thể thu hồi được nợ gốc và lãi.
(2) Ảnh hưởng xấu (tiêu cực) của RRTD đến HĐKD của NH
- RRTD làm giảm uy tín của NH: RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực
HĐKD của NH không tốt, làm suy giảm uy tín của NH trên thị trường, suy giảm
lòng tin của công chúng gửi tiền, của bạn hàng, của đối tác, của các cơ quan quản lý
Nhà nước. Từ đó, gây cản trở cho mọi HĐKD nói chung của NH.
- RRTD làm cho khả năng thanh toán của NH giảm sút: Các khoản TD có rủi
ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, không đúng kế hoạch của NH để có các
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
nguồn tiền đáp ứng nhu cầu chi trả như rút tiền gửi, thanh toán, hay giải ngân các
khoản cho vay khác.
- RRTD làm giảm lợi nhuận của NH: Khi RRTD xảy ra, NH không thu hồi
được nợ gốc sẽ phải sử dụng quỹ dự phòng để xử lý, quỹ dự phòng được trích từ chi
phí NH; không thu được lãi, NH không có khoản thu nhập; ngoài ra phát sinh thêm
nhiều loại chi phí để xử lý nợ; NH thiếu vốn để tiếp tục cho vay hay mở rộng các
HĐKD khác. Do đó, làm giảm thu nhập và tăng chi phí của NH, dẫn đến giảm lợi
nhuận, thậm chí là thua lỗ

- RRTD làm tăng nguy cơ phá sản của NH: Từ các thiệt hại trên về uy tín, về
khả năng thanh khoản, về thua lỗ đều có khả năng dẫn đến nguy cơ phá sản của NH.
(3) Hoạt động TD là hoạt động chủ yếu, đưa lại nguồn thu nhập lớn
nhất, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của NH
Hoạt động TD vẫn là hoạt động chủ yếu trong hầu hết các NHTM hiện nay,
dư nợ TD chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, thu nhập từ lãi TD chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu nhập của NH. Do đó, nếu RRTD xảy ra, tài sản của NH có thể bị
thiệt hại lớn, phần lớn thu nhập là từ lãi nhưng không thu được trong khi chi phí lãi
huy động vốn vẫn phải trả đúng hạn. Trong ngắn hạn, NH sẽ bị lỗ do không thu
được lãi, trong trung và dài hạn NH sẽ bị thiệt hại về tài sản, mất cân đối với nguồn
vốn do không thu được nợ gốc. Những điều này rõ ràng là quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của NH.
1.2.3 Nội dung công tác quản lý rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Hạn chế các khoản TD có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi
- Tuân thủ các quy định về an toàn TD trong Luật các TCTD và các quy định
khác về an toàn TD của Nhà nước: Các quy định của Nhà nước về an toàn TD đã
nêu rõ các trường hợp cấm NHTM khộng được cho vay hoặc hạn chế cho vay, các
yêu cầu phải thực hiện khi thực hiện cho vay, các tỷ lệ tối đa, tối thiểu bắt buộc phải
thực hiện trong cơ cấu nợ vay. Như:
Luật các TCTD quy định:
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
+ Không được cho vay đối với: Bản thân, bố, mẹ, vợ, chồng, con của Thành
viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám
đốc (Phó Giám đốc) của TCTD; Người thẩm định, xét duyệt cho vay.
+ Hạn chế cho vay đối với: Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm
toán tại TCTD; Kế toán trưởng, Thanh tra viên; Các cổ đông lớn của TCTD.
Quyết Định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định:
+ Tổng dư nợ cho vay đối với một KH không vượt quá 15% vốn tự có của

TCTD. Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một KH không được vượt quá 25%
vốn tự có của TCTD.
+ Tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm KH có liên quan không được vượt
quá 50% vốn tự có của TCTD. Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một nhóm
KH có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của TCTD.
- Xác định danh mục các khoản cho vay theo các mức rủi ro khác nhau: Các
nhóm KH, đối tượng KH khác nhau, các ngành lĩnh vực khác nhau, các loại hình
cho vay khác nhau, sẽ có mức độ rủi ro và tính chất rủi ro khác nhau. Do đó, cần
có sự phân tích, nhận định đúng đắn về mức độ cũng như tính chất rủi ro theo các
đối tượng KH, theo các hình thức TD, hay theo các ngành nghề cho vay để có định
hướng cho vay và xác định cơ cấu TD phù hợp nhằm hạn chế thấp nhất RRTD có
thể xảy ra. Có thể nhận định, đánh giá mức độ và tính chất rủi ro đối với một số loại
hình cho vay như sau:
+ TD thương mại: Rủi ro liên quan đến khả năng đánh giá tình trạng kinh
doanh và tài chính của người vay. NH cần thu thập thông tin của KH cả trong quá
khứ lẫn tương lai. Tuy nhiên, khía cạnh tương lai của KH quan trọng hơn so với
quá khứ. Những KH truyền thống, có mối liên hệ tốt với NH thường có mức rủi ro
thấp hơn hoặc khả năng nhận biết những dấu hiệu rủi ro của NH sẽ nhanh hơn.
Rủi ro trong cho vay thương mại chủ yếu là do những tác động của thị trường đối
với người vay như mất thị trường, giá hàng bán bị giảm sút, giá nguyên liệu tăng,
thiên tai
+ Cho vay tiêu dùng: Rủi ro liên quan đến thu nhập của người vay và khả
năng kiểm soát thông tin về người vay. Thông tin thường ít, NH khó kiểm soát
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
người vay và khó thu nợ, công ăn việc làm của người vay không ổn định, hoàn
cảnh, điều kiện sống của người vay thay đổi,
+ Cho vay các định chế tài chính: Phần lớn các khoản cho vay các định chế
tài chính như các công ty tài chính, cho thuê tài chính, NH, thường là các khoản cho

vay có giá trị lớn nhưng không có bảo đảm bằng tài sản. Do đó, nếu định chế tài
chính đi vay bị phá sản thì NH sẽ mất vốn rất lớn. Rủi ro cho vay đối tượng này
thường xảy ra khi thị trường tài chính vĩ mô có những diễn biến phức tạp, có dấu
hiệu hoặc đi vào khủng hoảng, các định chế tài chính sẽ lâm vào rủi ro thanh khoản,
do đó ảnh hưởng đến RRTD của NH cho vay.
+ Cho vay đối với Nhà nước (NN): Cho vay đối với NN như cho vay đối với
Kho bạc NN, cho vay các định chế tài chính của NN, các tổ chức hành chính, xã hội
của Nhà nước do Nhà nước bảo lãnh trả bằng Ngân sách. Với hình thức cho vaynày
thường có độ an toàn cao, tuy nhiên, cũng có những rủi ro như khi lâm vào khủng
hoảng kinh tế dẫn tới thâm hụt Ngân sách trầm trọng, không bố trí được nguồn để
trả nợ, hoặc các cơ quan NN vay tùy tiện mà không cân đối được nguồn để trả nợ.
- Xây dựng CSTD và quy trình phân tích TD: QLRRTD liên quan đến nhiều
bộ phận trong NH, đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính
sách, quy tắc và sự kiểm soát. CSTD với mục tiêu chính là mở rộng TD đồng thời
làhạn chế RRTD nhằm nâng cao thu nhập cho NH. Trong QLRRTD, cần phải có
các chính sách như: Chính sách phân quyền phán quyết TD, Chính sách tài sản bảo
đảm, chính sách đồng tài trợ, chính sách đối với từng nhóm KH, từng ngành nghề,
quy trình xử lý nợ xấu, Bên cạnh những quy trình, chính sách nhằm hạn chế
RRTD, NH còn xây dựng quy chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và quyền hạn,
khen thưởng và kỷ luật đối với từng bộ phận, cá nhân trong công tác QLRRTD.
- Xác định dấu hiệu của các khoản cho vay có vấn đề: Qua xác định các
khoản vay có vấn để nhằm giúp NH cập nhật được danh sách các khoản vay này,
tách chúng ra khỏi danh sách các khoản vay bình thường khác, theo dõi riêng và có
bộ phận chuyên trách quản lý theo dõi để đề ra và áp dụng các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng các khoản vay này, đưa trở lại danh sách nợ thông thường hoặc
chuyển bước tiếp theo để có những biện pháp xư lý thu hồi nợ.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
1.2.3.2 Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề

RRTD luôn rình rập bên cạnh quá trình hoạt động TD của NH, muốn có thu
nhập phải chấp nhận những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra. Vì vậy, NH phải nhận thức
quy luật này và xây dựng chính sách chung sống cùng RRTD như: Hạn chế rủi ro,
chấp nhận rủi ro, xác định mức rủi ro cho phép, chính sách riêng đối với các khoản
nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ xấu
- NH phải phân loại nợ, phân nhóm nợ một cách thường xuyên và chính xác,
phân tích rõ nguyên nhân, thực trạng và khả năng giải quyết.
- Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời, song vẫn còn
khả năng và ý chí trả nợ, NH cần áp dụng chính sách hỗ trợ như cho vay thêm, gia
hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, giảm lãi,
- Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ỳ, không còn khả năng trả nợ,
NH cần áp dụng ngay các biện pháp như phong tỏa tài sản bảo đảm, tận thu nguồn
trả nợ, xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
- Hàng năm, NH tạo lập quỹ DPRR TD từ nguồn thu nhập của mình, quỹ
DPRRTD được trích lập theo quy định của Nhà nước và theo chính sách của NH.
Khi tổn thất xảy ra, các biện pháp đã được sử dụng hết để tận thu khoản nợ vay,
phần tổn thất cuối cùng sẽ đượ bù đắp bằng quỹ DPRRTD. Quỹ này không có tác
dụng giảm rủi ro mà để chống đỡ khi tổn thất xảy ra.
1.2.3.3 Quản lý tài sản tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
Khi RRTD xảy ra, tức là khoản vay không có khả năng thu hồi gốc và lãi
bằng các nguồn thu thông thường của người vay, NH xác định RRTD đã xảy ra và
thực thi các biện pháp xử lý các khoản nợ này như thu hồi tài sản bảo đảm để bán
đấu giá, định giá và bán các khoản nợ tổn thất, dùng quỹ DPRR để bù đắp và
chuyển các khoản nợ này ra ngoại bảng để theo dõi riêng. NH phải tiếp tục quản lý,
theo dõi các khoản nợ đã tổn thất trong những năm tiếp theo cũng như tiếp tục thực
thi các biện pháp có thể để tận thu tài sản đã tổn thất này. Sau một thời gian nhất
định (thường là 5 năm), sau khi xác định khoản nợ tổn thất không còn giá trị nào
nữa (hết khả năng thu hồi), NH mới xuất toán hoàn toàn khoản nợ.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
15

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
1.3 CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1 Các nguyên nhân của RRTD
1.3.1.1.Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định

Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới :
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên
liệu), dầu thô, may gia công,…vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế
giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu

Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các những khách
hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc
nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong
nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng
trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên
bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài
thu hút.

Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành :
Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ
tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại
lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và
đây cũng là một hiện tượng khách quan.
1.3.1.2. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi


Sự kém hiệu quả của các cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt
động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai
vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng
mắc bất cập như một số văn bản về cưỡng chế thu hồi nợ.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính

Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng
và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực
cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ
kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và
phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa
được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Do vậy
mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có
biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.

Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN
hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng
nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và
hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật chưa đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu tra cứu thông tin của các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho hệ thống
ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện
thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.

1.3.1.3 Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay

Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng
xấu đến các khách hàng khác

Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần
là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khách hàng nào dám mạnh dạng
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kết
toán theo đúng chuẩn mực.

Tình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé là đặc điểm chung của hầu hết các khách
hàng vay vốn Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các
sổ sách kế toán vẫn chưa được các khách hàng tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực.
Do vậy, sổ sách kế toán mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ
mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân
tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các khách hàng cung cấp thường
thiếu tính thực tế và xác thực.
1.3.1.4 Các nhân tố chủ quan
- Nhận thức của Ban lãnh đạo NH về vai trò của quản lý RRTD: Nhận
thức của Ban lãnh đạo NH về vai trò của hoạt động quản lý RRTD là rất quan
trọng và có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động này nói riêng cũng

như vào hiệu quả hoạt động quản trị nói chung của NH. Nếu Ban lãnh đạo nhận
thức đúng được vai trò của quản lý RRTD sẽ chú ý xây dựng chiến lược, chính
sách quản trị rủi ro hợp lý; xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý RRTD phù
hợp; đầu tư đầy đủ cả về nhân lực và tài chính cho hoạt động quản lý RRTD
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
- Sự phối hợp giữa các bộ phận trong hoạt động quản lý RRTD: Trong NH
thì hoạt động quản lý RRTD trước hết phải là nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban
tổng giám đốc, giám đốc của NH. Sau nữa là nhiệm vụ quản lý RRTD phải là nhiệm
vụ trực tiếp của mỗi người làm công tác TD từ nhân viên TD, nhân viên thẩm định,
quản lý TD đến các trưởng, phó phòng ban. Để công tác quản lý RRTD đạt được
hiệu quả cao thì các phòng, ban, bộ phận phải có sự phối hợp nhịp nhàng với nhau
trong quá trình xử lý các vấn đề phát sinh.
- Trình độ của đội ngũ cán bộ: Đội ngũ cán bộ chính là những nhân tố mấu
chốt của các nhân tố có ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động quản lý RRTD. Một
đội ngũ cãn bộ tốt sẽ làm cho các biện pháp quản lý RRTD phát huy được sức
mạnh, đẩy lùi được điểm yếu và đem lại kết quả tích cực hơn cho NH trong hoạt
động quản lý RRTD.
1.3.1.5 Các nhân tố khách quan
- Từ phía KH vay: RRTD TD từ KH vay là một trong những loại rủi ro
thường đem lại tổn thất nhiều nhất cho NH, khi người vay không thực hiện đúng
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
cam kết trong HĐTD. Nguyên nhân là do trình độ yếu kém của người vay trong dự
tính các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo, chây ỳ không
trả nợ, hoặc do người vay thiếu may mắn, gặp rủi ro trong kinh doanh,
- Từ phía các cơ quan quản lý: NH là một ngành chịu nhiều hoạt động kiểm
tra, giám sát từ cơ quan quản lý trực tiếp là NHNN. Vì vậy, nếu các chính sách, chế
độ, quy định của NHNN phù hợp, kịp thời thì sẽ trợ giúp rất tốt cho các NHTM
triển khai các biện pháp quản lý RRTD có hiệu quả.

- Các điều kiện môi trường: Sự thay đổi trong các chính sách của Nhà nước
như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai, nhà ở, Hay
những vấn đề kinh tế vĩ mô như chu kỳ kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, thiên tai
đều có tác động nhất định đến chính sách và hiệu quả quản lý RRTD của NHTM.
1.4 KINH NGHIỆM QLRRTD CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC ĐỐI
VỚI NHTM VIỆT NAM
1.4.1 Kinh nghiệm quản lý RRTD NH tại một số nước
1.4.1.1 NH Hàn Quốc với RRTD trong cho vay các tập đoàn kinh tế (Chaebol)
Để có thể đẩy mạnh phát triển nền kinh tế công nghiệp hóa, hệ thống tài
chính NH Hàn Quốc (HQ) cho đến nay bao gồm NH trung ương, các NHTM, các
NH chuyên doanh và năm 1950, Luật NH HQ đã có hiệu lực. Năm 1967, để khuyến
khích xuất khẩu và khuyến khích NH nước ngoài đầu tư vào HQ, chính phủ đã cho
phép thành lập NH ngoại hối và NH XNK. Đến năm 1995, HQ đã có 25 NHTM với
209 chi nhánh NH ở nước ngoài, 7 NH lớn của HQ được xếp vào trong danh sách
200 NH đứng đầu thế giới.
Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, hệ thống NH HQ vẫn đặt dưới sự kiểm
soát chặt chẽ của Chính phủ, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra của quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa, NH trở thành kênh cung ứng vốn quan trọng cho nền
kinh tế, năm 1960, TD NH cung ứng vốn cho nền kinh tế là 30% đến thập niên 90
con số này tăng lên đến 60%.
Tuy nhiên, sự tài trợ quá mức của NH dành cho các tập đoàn, đã đẩy hệ
thống NH HQ phải đối đầu với khó khăn nợ nước ngoài, đứng bên bờ vực thẳm.
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
Năm 1997, tỷ lệ bình quân nợ trên vốn của các Chaebol là 519%. Mặc dù HQ đã tự
do hóa hệ thống tài chính của mình nhưng lại phát triển theo một cấu trúc tài chính
dễ đổ vỡ, các trung gian tài chính, các NH mới được thành lập và chi nhánh tín thác
của NH được điều tiết một cách quá lỏng lẻo, các khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ
gia tăng nhanh. Trong khi đó, các chaebol lại tăng cường vay nợ ngắn hạn thị

trường tài chính trong và ngoài nước thông qua sự hỗ trợ gián tiếp của NH để đầu tư
mở rộng quá mức năng lực sản xuất.
Cuối cùng, chính các khoản nợ ngắn hạn không được đảo nợ khi các chủ nợ
nước ngoài cảm nhận sâu sắc sự bất an do các công ty con nợ HQ, nợ nần chồng
chất đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng. Chính tình trạng thua lỗ đến mức phá sản
của các công ty HQ là con nợ của NH đã trực tiếp chất đầy thêm gánh nặng nợ khó
đòi của NH HQ. Các tập đoàn “Chaebol” khổng lồ của quốc gia này mà thực chất là
tập đoàn gia đình kinh doanh đa lĩnh vực từ kim khí điện máy, vi mạch điện tử, ô tô,
tàu thủy với những dự án khổng lồ đầy mạo hiểm đứng trước nguy cơ phá sản.
Chỉ riêng tập đoàn thép Hanbo với khoản nợ của 61 NH và các định chế tài
chính khác tương đương 5,9 tỷ USD lớn gấp 10 lần vốn tự có của tập đoàn. Ngày
23.1.1997, tập đoàn Hanbo tuyên bố phá sản, mở màn cho sự sụp đổ hàng loạt của
các Chaebol, đến tháng 2.1998 đã có 8 Chaebol phá sản để lại các khoản nợ khổng
lồ lên đến hàng chục tỷ USD, nợ khó đòi HQ lên đến 20%, Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) đã phải tài trợ cho HQ đến 59 tỷ USD để cải cách lại nền kinh tế, đồng thời
buộc Chính phủ HQ phải đóng cửa các NH yếu kém và công bố danh sách những
NH có tỷ lệ nợ xấu cao.
Tuy nhiên sau khủng hoảng tài chính Đông Nam A, HQ đã tích cực cải tổ lại
hệ thống NH, cơ cấu lại các công ty các tập đoàn lớn. Nếu như năm 1998 HQ được
xếp ở vị trí cuối bảng về phát triển kinh tế của các nước thành viên trong tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), thì năm 2000 với tốc độ tăng trưởng là 9,5 %
HQ đã vươn lên đạt tốc độ tăng trưởng ở vị trí cao nhất.
1.4.1.2 Tín dụng nhà đất tại Mỹ, khơi nguồn khủng hoảng tài chính toán cầu
Trong thời gian qua, cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay thế chấp
nhà đất dưới tiêu chuẩn ở Mỹ đã tác động tiêu cực đến thị trường tài chính thế
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng Tài Chính
giới. Hàng loạt các định chế tài chính ở Mỹ đã công bố những tổn thất nặng nề
mà họ phải gánh chịu xuất phát từ hậu quả của cuộc khủng hoảng này gây nên.

Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này đã lan rộng sang một số nước khu vực Châu
Âu, Nhật… Một số NH lớn ở những quốc gia này cũng lâm vào tình trạng khủng
hoảng tương tự. Hậu quả của cuộc khủng hoảng không chỉ được nhìn nhận dưới
góc độ kinh doanh của từng NH, tỷ lệ tăng trưởng và giải quyết việc làm của
riêng nước Mỹ mà còn được xem xét dưới ảnh hưởng mang tính toàn cầu, đến sự
chu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế
thế giới nói chung.
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn hoạt động cho vay có phần dễ dãi và ồ ạt -
được gọi là “cho vay dưới chuẩn” - của các NH đối với người vay tiền mua nhà trả
góp với hy vọng sau đó bán đi để kiếm lời. Trong giai đoạn 2004-2007, cho vay thế
chấp dưới tiêu chuẩn chiếm khoảng 21% tổng các khoản vay thế chấp, tăng so với
mức 9% giai đoạn 1996-2004. Sự phát triển mạnh của hình thức cho vay thế chấp
dưới tiêu chuẩn đi kèm với sự bùng nổ thị trường nhà đất của Mỹ là hệ quả của việc
lãi suất giảm xuống mức thấp kỷ lục, các tiêu chuẩn cho vay nới lỏng và hội chứng
“thích mua nhà” của dân Mỹ. Trong khoảng thời gian này, việc mua nhà ở Mỹ khá
dễ dàng. Người mua chỉ cần trả ngay khoảng 20% giá trị căn nhà, còn lại sẽ trả góp
trong vòng 20 năm hoặc lâu hơn. Lãi suất lúc ấy lại rất thấp nên mua xong, cứ cho
thuê để lấy tiền trả góp NH, được giá là bán lại, lấy lời.
Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Khi việc mua
nhà không phải vì nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư thì chắc
chắn sau một thời gian xây thêm nhà để bán, thị trường sẽ thừa nhà. Trong khi đó,
các NH của Mỹ vì chạy theo lợi nhuận đã cho vay mua nhà ngay cả với những
người có tiền sử TD xấu để hưởng những khoản lãi suất cao. Khi lãi suất được liên
tục nâng lên trong những năm gần đây, món nợ vay mua nhà bỗng tăng vọt. Nhiều
người mất khả năng chi trả trong khi nhà lại không bán được dễ dàng như trước vì
thị trường địa ốc Mỹ rơi vào tình trạng đóng băng.
Như đã đề cập, trong giai đoạn gần đây thị trường đĩa ốc Mỹ lại rơi vào thời
kỳ đóng băng, người vay tiền để mua nhà bán kiếm lời lại không thể bán được nhà,
trong khi nhu cầu nhà ở lại giảm mạnh, cứ như thế món nợ vay mua nhà bỗng tăng
Ngô Phạm Thiện Lớp NH 19.09

21

×