Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Tăng cường hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần An Bình – Chi nhánh Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 86 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
MỤC LỤC
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NHNN : Ngân hàng Nhà nước.
TGTK : Tiền gửi tiết kiệm.
TMCP : Thương mại cổ phần.
HTX : Hợp tác xã.
CCTG : Chứng chỉ tiền gửi.
GTCG : Giấy tờ có giá.
HĐQT : Hội đồng quản trị.
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đưa Việt nam từ một
nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thực hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất
quan trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng phụ
thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát
triển và cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam cũng đòi hỏi phải được mở
rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mởi dây chuyền công nghệ,
nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hóa,
dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích
nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương mại.


Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy
nhiên trong điều kiện thị trường tài chính nước ta thì huy động vốn qua kênh
ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả nhất. Ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế -
kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính. Với vai trò trung gian tài
chính, Ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu khác của doanh nghiệp
và cá nhân, tổ chức theo nguyên tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương
với việc huy động vốn của các NHTM phải được tăng cường, mở rộng cho
phù hợp. Mặt khác, việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý cũng
giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu quả hơn.
Do vậy trong thời gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
ứng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho chính bản thân hệ thống
ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc chắn sẽ
được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại và ngân hàng TMCP
An Bình Nguyễn Văn Cừ cũng không là ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải
pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm
hiều tình hình thực tế tại ngân hàng TMCP An Bình Nguyễn Văn Cừ vừa qua,
em đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Tăng cường hoạt động huy động vốn tại
ngân hàng thương mại cổ phần An Bình – Chi nhánh Nguyễn Văn Cừ –
Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Chuyên đề được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn.

Chương II: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình –
Chi nhánh Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội.
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
An Bình – Chi nhánh Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội.
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
1- Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1- Khái niệm về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng với nền kinh tế
nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự
nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có
thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang
thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng
cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả
các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các
tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch
vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt
động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
• Ngân hàng là gì?
Ngân hàng trước tiên là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài
chính là gì? Trung gian tài chính là một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân
thực hiện các chức năng trung gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt
động tài chính nhất định. Cũng có thể hiểu theo một cách định nghĩa khác,
trung gian tài chính là một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn giữa
người cho vay và người đi vay theo phương thức gián tiếp. Những tổ chức

trung gian tài chính mà ta thường nghe nhắc đến bao gồm: Ngân hàng, Tổ
chức công cộng/ hiệp hội, Tổ chức tín dụng nghiệp đoàn, Đơn vị tư vấn/ cố
vấn tài chính và môi giới, Các hình thức công ty bảo hiểm, Quỹ tương hỗ, quỹ
hưu trí…
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngõn hng cú th nh ngha n gin l t chc hot ng kinh doanh
cung cp cỏc dch v ngõn hng tỡm kim li nhun.
Bn thõn ngõn hng ó cú lch s vi chc th k phỏt trin, tớnh ngc
c v trc Cụng nguyờn, khi cỏc thy tu quyt chớ i lm kinh doanh ó
mang tin ngi ta gi cho k khỏc vay. K t thi ú, ngõn hng ó phỏt
trin qua nhiu hỡnh thỏi, theo xu th ngy cng m rng. S m rng th hin
lng dch v, quy mụ dch v v s lan rng vt ra ngoi mi biờn gii
a lý.
ở Việt nam, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty tài chính
năm 1990 định nghĩa: Ngân hàng thơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà
hoạt động chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết
khấu và làm phơng tiện thanh toán".
Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10) Điều 20: NHTM là
loại hình tổ chức tín dụng đợc thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong đó Hoạt động Ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thờng xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
NHTM hot ng kinh doanh trờn c s cỏc iu kin kinh t v quy
nh ca lut phỏp, thụng qua cỏc hot ng ú chỳng tỏc ng n nn kinh
t v i sng xó hi. Chc nng chớnh ca NHTM l s dn vn t ni tha
vn n ni thiu vn, lm trung gian thanh toỏn trong nn kinh t.

Phõn loi ngõn hng thng mi:
Trên thế giới các ngân hàng thơng mại hoạt động với chức năng, nghiệp
vụ khá giống nhau, đó là việc: nhận tiền gửi ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ
kinh doanh khác của chính ngân hàng. Để phân loại các Ngân hàng thơng mại
ta có thể dựa trên các tiêu chớ sau:
* Căn cứ vào hình thức sở hữu: Các Ngân hàng thơng mại đợc phân
Trõn Thiện Sơn- NHC_ CĐ25 Trang
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thành:
- Ngân hàng sở hữu t nhân: Là ngân hàng đợc thành lập bằng vốn của
một cá nhân. Đây là các ngân hàng nhỏ, thờng chỉ hoạt động trong phạm vi
một địa phơng với đối tợng phục vụ chủ yếu là những ngời trong địa phơng.
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng đợc hình thành từ
nguồn vốn thông qua tập trung phát hành cổ phiếu. Những ngời nắm giữ cổ
phiếu này chính là những ngời chủ của ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào
các hoạt động của ngân hàng và đợc chia lãi cổ tức. Do huy động từ nhiều ng-
ời nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh
đa dạng.
- Ngân hàng sở hữu nhà nớc: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu
thuộc về Nhà nớc. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất ít
khi bị phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện những
nhiệm vụ nhà nớc giao, ảnh hởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
* Căn cứ theo tính chất hoạt động:
- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng.
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hớng chuyên
doanh, thờng chỉ cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định.
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây là
xu hớng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thơng mại.

- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ yếu
thực hiện đối với các khách hàng lớn. Số lợng các giao dịch của ngân hàng
bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ lại lớn.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó
thực hiện đối với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng
cá nhân. Số lợng các giao dịch của ngân hàng bán lẻ lớn song giá trị một giao
dịch thờng nhỏ.
* Căn cứ theo cơ cấu tổ chức:
Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự phân
chia này là do pháp luật ở nhiều nớc cấm không cho ngân hàng trực tiếp tham
gia vào một số hoạt động kinh doanh nh: buôn bán chứng khoán, bất động
sản nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có t cách pháp nhân để
kinh doanh.
1.2- Vai trũ ca ngõn hng thng mi:
Trõn Thiện Sơn- NHC_ CĐ25 Trang
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.2.1- Chức năng:
1.2.1.1-Là trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân trong
nền kinh tế:
- Các cá nhân và tổ chức thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng
và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn.
- Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại
của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền
để gửi tiết kiệm.
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân
hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu

cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ
giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với
một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín
dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Như vậy, trung
gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm , từ đó khuyến khích
tiết kiệm, đồng thời làm giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu
nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính
đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu
thuẫn tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi
nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi
ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng
bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn, các
khoản giảm tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ
mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị
trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho
người gửi. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng
cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng
thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng lực phân
tích thông tin làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả
năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các
công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro
– lợi nhuận hấp dẫn.

1.2.1.2-Tạo phương tiện thanh toán:
Tiền – vàng có chức năng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng
đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện
thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân
hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo
ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim
loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay
thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở
thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát
hành in tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là Ngân hàng
trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy
bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó,
bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện
thanh toán.
Toàn bộ các hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để
chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách
hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong

khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa,
toàn bộ hệ thống nh có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo
ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự
trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi
không phải là tiền gửi thanh toán…
1.2.1.3-Trung gian thanh toán:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và
cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện việc
thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua
các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt nhiều
hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy,
công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tìm cách áp dụng một cách rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn
hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân
hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các
trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh
toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan
trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.2.2- Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiện qua các nội dung sau:
1.2.2.1- Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:

Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một
lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động
khác. Nhưng điều khó khăn hơn lợi ích là cần có người đứng ra tập trung tiền
nhàn rỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn
huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương
mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một
cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân
hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân
có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
1.2.2.2- Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị
trường:
Bước sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng, Ngân
hàng đã làm biến đổi hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp khơi dậy sức
sống bằng các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển
giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện bằng vốn tự
có của các doanh nghiệp vốn dũ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng
còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu
động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thường trực của các
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng
đối với doanh nghiệp đó là một ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ
lao động phù hợp với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật công nghệ cao.
Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu
ngành, những cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
1.2.2.3- Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ
mô nền kinh tế:
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia

làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh (NHTM).
Nếu NHNN có nhiệm vụ xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ thông
qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất… thì các NHTM
một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các công cụ này mặt khác nó còn tham
gia gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức kinh tế,
cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua hoạt
động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên
quan đến việc hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHNN, giúp
NHNN có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng
thời kỳ để đảm bảo thúc đấy nền kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng thời kỳ để
đảm bảo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định.
1.2.2.4- Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền
tài chính quốc tế:
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh tế
quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững. Một trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc
đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính
quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nền tài chính quốc tế thông qua
hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực kinh doanh như nhận
tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ
tín dụng của các ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
và thông qua đó ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính
trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.3- Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
Ngay từ xa xưa, với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã làm xuất

hiện nhu cầu trao đổi hàng với nhau. Để việc trao đổi này được tiến hành dễ
dàng và thuận lợi, người ta đã dùng tiền mặt làm trung gian trao đổi hàng hóa.
Hệ quả là đã làm tăng tốc độ trao đổi hàng hóa, kích thích sản xuất, đưa xã
hội loài người ngày càng phát triển. Nếu không có tiền đóng vai trò trung gian
thì quá trình trao đổi sẽ vô cùng phức tạp.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát
huy. Các NHTM với chức năng kinh doanh tiền tệ đã biết tân dụng ưu thế,
sức mạnh của đồng tiền để sinh lời. Họ thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách
trao đổi ngoại tệ: mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng
phí dịch vụ.
Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các NHTM thường có két tốt để cất
giữ đảm bảo an toàn, vì vật họ thực hiện cất hộ tiền cho mọi người để làm
tăng thu nhập từ việc thu phí, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy
mô tài sản kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để
thực hiện thanh toán hộ.
Ngoài ra, họ còn cho vay lấy lãi. Ban đầu, các ngân hàng đã dùng vốn
của chủ để tài trợ cho các hoạt động nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt
động thực tiễn, các ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào
và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc,
đã tạo số dư không thường xuyên ở két. Do tính chất vô danh của đồng tiền,
ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Do vậy các
ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi
cho người gửi tiền. Như vậy, từ việc cất giữ hộ tiền để thu phí, ngân hàng
chuyển sang huy động vốn và trả lãi cho việc huy động số tiền nhàn rỗi, tiềm
tàng trong xã hội. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng
huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng hoạt động

của ngân hàng.
Bước chuyển mình lớn nhất của hệ thống ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ 20
khi mà các ngân hàng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào hoạt động
của mình. Hàng loạt sản phẩm mới ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng như bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, ủy thác tư vấn, môi giới
chứng khoán… Ngày nay ngân hàng đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu của mỗi nền kinh tế. Nó được coi là mạch máu của một quốc gia.
* Các dịch vụ của ngân hàng thương mại:
1.3.1- Thực hiện trao đổi ngoại tệ:
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện là trao đổi ngoại tệ- một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán loại tiền
này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và
hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ
sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc
gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại
tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như
vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
1.3.2- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại:
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng thương mại đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người
bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền
mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
15
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây
dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
1.3.3- Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn

quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng- một quỹ sinh lợi
được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều
năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử cũng đã
có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn như trong năm 2008 mức lãi suất tiết
kiệm đã lên tới 17- 18%/ năm.
1.3.4- Bảo quản vật có giá trị:
Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ
vàng và các vật có giá khác cho khác hàng trong kho bảo quản. Mọi điều hấp
dẫn các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về
các tài sản đang lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền- đó là hình thức đầu
tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho
khách hàng thường do phòng “ bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
1.3.5- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
1.3.6- Cung cấp các tài khoản giao dịch:
Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra
đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trọng
nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand
deposit) - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán
cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này
được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp
ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm
cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an
toàn hơn.
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.3.7- Cung cấp dịch vụ uỷ thác:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và
quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo
đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý.

Chức năng quản lý của tài sản này được gọi là dịch vụ uỷ thác (trust service).
Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ uỷ thác thông thường
cho cá nhân hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học, Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó
cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai
trò là người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả,
và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản tiền thừa kế.
Trong phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng
vai trò như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng uỷ thác trả lãi hoặc cổ tức cho
chứng khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách
thanh toán toàn bộ cho người nắm giữ chứng khoán.
1.3.8- Cho vay tiêu dùng:
Trong lịch sử hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung
có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở
nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều
hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ và cho vay đã buộc các ngân hàng
phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong
những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày
càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên,
người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra

một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
1.3.9- Tư vấn tài chính:
Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư
vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp
nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
1.3.10- Quản lý tiền mặt:
Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ
làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những
ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản
lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ
quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về
việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng.
1.3.11- Dịch vụ thuê mua thiết bị:
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn
mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó
ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các quy định yêu cầu
khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng
vũng đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa
chữa và thuế.
1.3.12- Cho vay tài trợ dự án:
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí
xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro

trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng,
cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
1.3.13- Bán các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách
hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị
chết hay bị tàn phế. Hiện nay ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng
thông qua các liên doanh hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền.
1.3.14- Cung cấp các kế hoạch hưu trí:
Phòng uỷ thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu
trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát
lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.
Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác nữa.
2- Vốn và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại:
2.1- Khái niệm về vốn:
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
thương mại tạo lập thông qua việc huy động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người
sở hữu gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền sở
hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi
ngân hàng phải trả cho họ một khoản lãi. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
19
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
trò tập trung vốn và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá
trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
Đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến việc tồn tại và phát triển

hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn của NHTM được thể hiện dưới các
dạng: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động.
2.1.1- Nguồn vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân hàng tạo
lập được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn của các chủ sở
hữu hoặc được hình thành từ kết quả kinh doanh. Ở những nước khác nhau,
định nghĩa về vốn tự có có thể khác nhau nhưng nét chung nhất của vốn tự có
bao gồm các thành phần sau:
- Vốn góp của chủ sở hữu để thành lập hoặc mở rộng doanh nghiệp.
- Các quỹ dự trữ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
của ngân hàng theo cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn như:
Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính…
- Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh chưa sử dụng.
- Các khoản nợ được coi như vốn.
Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong khi tổng nguồn vốn của ngân
hàng, song lạ là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do
tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, chức năng bảo vệ và điều
chỉnh đối với hoạt động ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì
vốn tự có của ngân hàng chiếm dưới 10%, như vậy vốn ký thác của ngân hàng
khoảng trên 90%. Các ngân hàng Nhà nước quy định mức vốn tự có của ngân
hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này muốn
nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã
được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ
không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân
hàng vỡ nợ, mà nó còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
một khoản tài sản có dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ, để có
thể tiếp tục hoạt động.

Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và bảo vệ người gửi
tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của
NHTM. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ quan quản lý xác
định, điều chỉnh hoạt động cho ngân hàng ví dụ như các ngân hàng chỉ có thể
cho một khách hàng lớn vay nhưng không quá 15% vốn tự có của ngân hàng.
Nếu như ngân hàng cho vay quá số đó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động an toàn
của ngân hàng.
2.1.2- Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là những
giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ ký thác, các
nghiệp vụ khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau,
ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách
nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến hạn (nếu là tiền gửi có kỳ hạn)
hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn (nếu là tiền gửi không kỳ hạn). Vốn
huy động đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. NHTM huy động vốn dưới các hình thức: Nhận tiền gửi (tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm); phát hành các công cụ nợ (tín
phiếu, trái phiếu) và nguồn vốn đi vay. Ngoài ra vốn của ngân hàng còn được
hình thành thông qua việc làm đại lý ủy thác, đại lý cho tổ chức trong và
ngoài nước hoặc cung cấp các phương tiện thanh toán như thẻ rút tiền tự động
từ máy ATM…
Nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau nhưng trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn
nhất, chiếm khoảng từ 70- 80% và nó có tính biến động. Nhất là đối với loại
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
tiền gửi không kỳ hạn và vốn ngắn hạn, hơn nữa vốn huy động chịu tác động

lớn của thị trường và môi trường kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Vì vậy
NHTM cần phải đi sâu tìm hiểu, phân tích nguồn hính thành vốn này, dự đoán
trước tình hình cung cầu vốn để có đối sách phù hợp.
2.2- Vai trò của vốn:
Chính vì vốn có vai trò quyết định trong việc tạo mọi của cải vật chất và
những tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá
trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển
dịch cơ cấu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, đời sống của
nhân dân ngày một được nâng cao các nguồn lực về con người, tài nguyên ca
các mối giao bang cũng được khai thác hiệu quả hơn. Từ đó tác động mạnh
đến cơ cấu kinh tế của đất nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng
công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao hướng mạnh về xuất khẩu. Chính điều
đó đã dẫn tới nền kinh tê sẽ có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
2.3- Hình thức huy động vốn:
2.3.1- Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi:
2.3.1.1- Tiền gửi không kỳ hạn:
Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách hàng không có
thỏa thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức lãi suất
thấp hoặc là không phải trả lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì, tiền gửi không kỳ
hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do
đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một
số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu. Tiền
gửi không kỳ hạn gồm hai loại:
• Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hóa, dịch vụ và các
khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
khách hàng. Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi

vào ngân hàng để sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như:
Séc, thẻ thanh toán, ủy nhiệm chi… Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông
qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng thì coi đây là một khoản
tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy
nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn kinh doanh của
mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân hàng do có sự chênh
lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản của khách hàng.
• Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách
hàng gửi vào ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ
hạn thuần túy cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc
nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn thuần túy cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Mục đích của
người gửi tiền bảo đảm an toàn vì khách hàng không xác định được thời gian
nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ không có nhu cầu sử dụng tiền gửi thanh
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
23
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
2.3.1.2- Tiền gửi có kỳ hạn:
Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thỏa thuận trước về
thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn định vì ngân
hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng để thanh toán cho khách
hàng đúng thời hạn. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền gửi đó
vào mục đích kinh doanh trong thơig gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này,
ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng… mục đích
là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn phù hợp với thời gian nhà rỗi của
khoản tiền mà họ có. Chính vì là loại tiền gửi mà ngân hàng có quyền sử dụng
nó trong thời gian nhất định nên loại tiền gửi này được trả lãi suất cao hơn lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn.
2.3.1.3- Tiền gửi tiết kiệm:

Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi. Khi
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng cấp cho khách hàng một cuốn
sổ, khách hàng phải quản lý và mang theo mỗi khi đến ngân hàng giao dịch.
Xét về bản chất, tài khoản tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của cá
nhân người lao động mà họ chưa đưa vào tiêu dùng, và là một dạng đặ biệt để
tích lũy tiền tệ thay cho hình thức cất trữ vàng, hàng hóa. Tiền gửi tiết kiệm
có ba loại:
• Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác. Số dư tiền gửi này không lớn nhưng ít biến động, vì vậy đối với loại
tiền gửi này các Ngân hàng thương mại thường trả lãi suất cao hơn với tiển
gửi thanh toán.
• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thỏa thuận về thời
gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam, các Ngân hàng thương
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
24
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
mại Việt Nam thường huy động tiết kiệm với thời hạn phong phú từ ba tháng
đến một năm.
• Tiết kiệm dài hạn: Đây là loại tiền gửi phổ biến ở một số nước công
nghiệp. Loại tiết kiệm này có tính ổn định cao bởi vì thời gian tiền gửi tư một
năm trở lên, do đó ngân hàng chủ động sử dụng nguồn vốn này, nó tạo cho
ngân hàng có tính chủ động sử dụng vốn cho mục đích vốn dài hạn. Để thu
hút vốn này ngân hàng thường phải trả lãi suất cao.
2.3.2- Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá mà các Ngân hàng thương mại dùng để huy động vốn thực
chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân hàng
vay tiền xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một mức
lãi suất và ngày hoàn trả nhất định.

Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn sử dụng
có tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt có
tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiền tiết kiệm hạn chế. Ngân
hàng thường sử dụng các loại giấy tờ có giá dưới các hình thức:
2.3.2.1- Phát hành trái phiếu:
Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng
phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi
phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành
trái phiếu các Ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà
nước, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoản và có thể bị chi
phối bởi uy tín của ngân hàng.
2.3.2.2- Phát hành chứng chỉ tiền gửi:
Là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như
trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử dụng cho
mục đích huy động vốn ngắn hạn ở ngân hàng.
Trân ThiÖn S¬n- NHC_ C§25 Trang
25

×