Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Giải pháp nâng cao công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan TP. Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.1 KB, 57 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 25 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước chuyển mình rõ
rệt, Việt Nam không chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế trong nước mà còn chú
trọng tới các mối quan hệ song phương, đa phương và tham gia rất nhiều tổ chức
Quốc tế trên Thế giới. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của kinh
tế đối ngoại đối với phát triển nền kinh tế, hoạt động ngoại thương cũng vì vậy mà
được quan tâm và có nhiều bước tăng trưởng đáng kể. Lưu lượng xuất nhập khẩu
hàng hóa vào Việt Nam ngày càng nhiều. Một mặt, đây là cách thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế nhưng mặt khác cũng gây khá nhiều khó khăn cho công tác quản lí hoạt
động xuất nhập khẩu của Nhà nước nói chung và của cơ quan Hải quan nói riêng.
Thông qua chức năng - quản lý nhà nước về hải quan trong lĩnh vực kiểm tra
giám sát và thu thuế hàng hoá xuất nhập khẩu, nguồn thuế thu từ hoạt động này của
Hải quan đã đóng góp đáng kể cho ngân sách. Giai đoạn 1986 – 2005 số thuế thu từ
Hải quan chiếm từ 20% đến 25%, giai đoạn 2006 – 2010 chiếm 18% đến 20% tổng
thu của ngân sách nhà nước.
Trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước đối với hàng hoá xuất nhập khẩu
và quản lý nguồn thu cho ngân sách, những năm qua, Ngành hải quan với công cụ
quản lý là các quy định của pháp luật, các chính sách của Đảng và Nhà nước, đã gặp
nhiều vấn đề cần phải xử lý để đảm bảo thu được thuế và tạo thuận lợi cho hoạt
động xuất nhập khẩu.
Cục Hải quan TP.Hà Nội là một tổ chức trực thuộc Tổng cục Hải quan, có
chức năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lí nhà nước về hải quan
và tổ chức thực thi pháp luật về Hải quan. Trong thời gian qua, Cục Hải quan TP.Hà
Nội đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công việc thúc đẩy phát triển hoạt động
xuất nhập khẩu, đóng góp một phần to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Thuế là trách nhiệm và nghĩa vụ của người nộp thuế. Trong các văn bản pháp
luật liên quan đều quy định điều này. Đồng thời, các cơ quan quản lý thuế cũng có
trách nhiệm thu đúng, thu đủ, đôn đốc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của mình.
Sau thời gian thực tập tại Cục Hải quan TP. Hà Nội em đã chọn đề tài "Giải
pháp nâng cao công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan TP. Hà


Nội". Nội dung đề tài gồm 3 phần:
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Chương I: Những lí luận cơ bản về thuế và công tác quản lí thu thuế xuất
nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu tại Cục
Hải quan TP. Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu
tại Cục Hải quan TP. Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Văn Tuấn – trưởng bộ môn
Thương Mại Quốc Tế khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế, ĐH Kinh tế Quốc dân
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành
đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
CHƯƠNG I: NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ
CÔNG TÁC QUẢN LÍ THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
I. VAI TRÒ VÀ PHÂN LOẠI THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
1. Khái niệm và quá trình hình thành thuế xuất nhập khẩu
a. Khái niệm
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thường có tên gọi chung là thuế quan
(custom duty). Đây là loại thuế gián thu, các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng
hoá thuộc đối tượng chịu thuế, phải thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp
theo quy định cho Nhà nước. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống chính sách tài chính, thương mại, đi liền với cơ chế quản lí
xuất nhập khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Từ đó, có thể nói thuế xuất nhập khẩu là loại thuế mà một nước dùng để

đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu tại cửa khẩu nhằm huy động nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước và là chính sách để can thiệp vào quá
trình trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn bán giữa các quốc gia trên Thế giới.
b. Quá trình hình thành thuế xuất nhập khẩu
Hoạt động thuế quan ở nước ta xuất hiện từ thời Lý (thế kỉ XI) và trở thành
một bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương. Năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành
công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Việt Nam. Chỉ sau một tuần ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh độc bản Tuyên ngôn độc
lập, ngày 10/09/1945, Sở thuế quan và thuế gián thu được thành lập. Thuế quan
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ 19/12/1946
đến tháng 7/1954): về cơ bản luôn có mối quan hệ mật thiết với các lực lượng vũ
trang dân quân du kích và ngoại thương.
Thuế quan Việt Nam thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh
thống nhất đất nước ở miền Nam đã phục vụ nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai
đoạn lịch sử có những nét đặc thù riêng.
Ngày 29/12/1987, kì họp lần thứ 2 Quốc hội khoá VIII thông qua Luật Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, đồng thời có ban hành kèm theo biểu thuế chung, biểu
thuế xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, chưa tách hai biểu thuế riêng biệt. Biểu
thuế này, được xây dựng dựa trên danh mục hàng xuất nhập khẩu Việt Nam theo
tiêu chuẩn của Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV)
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Biểu thuế này hoàn toàn tuân theo từng mục đích sử dụng. Nói chung, biểu thuế
xuất nhập khẩu và cả Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu chỉ phù hợp cho giai
đoạn nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc xuất nhập khẩu theo chế độ nghị định
thư kí giữa các chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa, sau đó cải tiến ban hành thêm
khung thuế xuất nhập khẩu để chính phủ kịp thời điều chỉnh cho hợp lý.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật thuế xuất - nhập khẩu đã bộc lộ
nhiều nhược điểm và chưa bảo vệ nền sản xuất hàng hoá trong nước, chưa định

hướng tiêu dùng, và đặc biệt chưa tăng thu cho ngân sách Nhà nước…. Vì vậy,
chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng và trình Quốc hội thông qua Luật Thuế
xuất - nhập khẩu ngày 26/11/1991. Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
bảo vệ nền kinh tế trong nước, tăng thu cho Ngân sách Nhà nước và hướng dẫn bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng. Năm 1993, 1998 Quốc hội ban hành Luật sủa đổi bổ
sung một số điều của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho phù hợp với tình hình
kinh tế chính trị của từng giai đoạnh lịch sử. Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã hội
nhập sâu với nền kinh tế Thế giới, tham gia và kí kết nhiều cam kết, hiệp định Quốc
tế. Do đó, chính sách pháp luật cũng phải thay đổi để phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Và ngày 14/06/2005, Quốc hội khoá XI kì họp thứ 7 đã thông qua Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO.
2. Đặc điểm và vai trò của thuế xuất nhập khẩu
a. Đặc điểm:
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu nhập
khẩu, góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất hướng dẫn tiêu dùng trong nước và
góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
 Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là tất cả hàng hóa được phép xuất
khẩu, nhập khẩu theo quy định hiện hành, bao gồm:
- Hàng hóa xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam bao gồm: hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ, đường sông, cảng biển, cảng
hàng không, đường sắt liên vận Quốc tế, bưu điện Quốc tế và địa điểm làm thủ tục
hải quan khác được thành lập theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu
phi thuế quan vào thị trường trong nước.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn

- Hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất, nhập khẩu.
Như vậy, đối tượng chịu thuế xuất, nhập khẩu phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Là các hàng hóa được cơ quan chức năng của nhà nước cho phép xuất khẩu,
nhập khẩu.
- Những hàng hóa này thực tế có xuất khẩu, nhập khẩu.
 Đối tượng không chịu thuế
Theo quy định, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không thuộc diện chịu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu sau khi làm thủ tục hải quan gồm:
- Hàng vận chuyển quá cảnh, mượn đường, chuyển khẩu qua cửa khẩu, biên giới
Việt Nam theo quy định của pháp luật về hải quan.
- Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của các Chính phủ, các tổ
chức thuộc Liên hợp quốc, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức và cá nhân người nước
ngoài cho Việt Nam và ngược lại nhằm phát triển kinh tế - xã hội, mục đích nhân
đạo được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, các khoản trợ giúp nhân đạo, cứu trợ
khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh.
- Hàng hóa từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu
từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan; hàng
hóa đưa từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác.
- Hàng hóa là phần dầu khí thuộc thuế tài nguyên của nhà nước khi xuất khẩu.
b. Vai trò
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng
lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp
định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước và
chính thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006. Đối với mỗi quốc gia, thuế
quan có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước, đóng
góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
của mỗi quốc gia.
Thuế là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ Ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của Nhà nước.

Chúng ta cũng như các nhà kinh tế học đều có thể nhận thấy vai trò của thuế
được thể hiện rõ ràng nhất đối với hai đối tượng: Ngân sách Nhà nước và đời sống
xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được
một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước và
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ
quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,
các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các
chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố
quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể ở các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự
thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ nhất, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng của nhà nước
để kiểm soát hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nội
địa. Tuy nhiên, hoạt động ngoại thương mở rộng, nếu không được kiểm soát sẽ dẫn
đến những tác hại đối với kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì vậy các quốc gia
đều sử dụng thuế xuất khẩu, nhập khẩu như một công cụ quan trọng để kiểm soát
hoạt động ngoại thương, quản lý các mặt hàng xuất, nhập khẩu; khuyến khích xuất,
nhập khẩu những hàng hóa có lợi và hạn chế xuất, nhập khẩu những hàng hóa có
hại cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Thứ hai, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ bảo hộ sản xuất trong nước.
Ở những nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nội địa chưa đủ sức cạnh tranh

với kinh tế nước ngoài. Vì vậy, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công
cụ của nhà nước để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Khi nền kinh tế có dấu hiệu
nhập siêu, tức là hàng hóa nước ngoài lấn át hàng hóa sản xuất trong nước, nền sản
xuất trong nước có nguy cơ kém và không thể phát triển, nhà nước khi này cần tăng
thuế nhập khẩu để hạn chế việc hàng hóa nước ngoài xâm nhập vào nội địa. Bên
cạnh đó nhà nước cắt giảm thuế xuất khẩu để khuyến khích các nhà kinh doanh xuất
khẩu hàng hóa ra thị trường Thế giới.
- Thứ ba, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Tùy vào từng thời kì, giai đoạn phát triển thương mại quốc tề và quan điểm
mà thuế nhập khẩu có vai trò khác nhau ở mỗi quốc gia trong việc tạo nguồn thu
cho Ngân sách nhà nước. Ở nước ta, trong những năm đầu của thập kỷ 90, do Nhà
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
nước có chính sách mở rộng hoạt động ngoại thương nên đã thúc đẩy các hoạt động
xuất, nhập khẩu hàng hóa phát triển.Theo đó, số thu về thuế xuất, nhập khẩu cũng
tăng nhanh, chiếm tỷ trọng đáng kể (từ 25% đến 30%) trong tổng số thu về thuế và
trở thành khoản thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Những năm gần đây, trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại, Việt Nam thực hiện cắt giảm
thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế nhưng thuế nhập khẩu vẫn là nguồn động viên
một phần quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 2000 đến năm 2005 thu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu luôn chiếm từ 20% đến 25% tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ
thể là:
Đơn vị: %
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tỷ trọng thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trong tổng thu
ngân sách nhà nước
20,9 22,1 25,5 23,8 21,3 20,6
(Nguồn: Bộ tài chính)

3. Phân loại thuế xuất nhập khẩu
Thuế xuất nhập khẩu có nhiều tiêu thức để phân loại, mỗi tiêu thức phân loại
khác nhau lại có nhiều loại thuế xuất nhập khẩu khác nhau. Nhưng thông thường
thuế xuất nhập khẩu được phân chia theo 4 tiêu thức. Đó là: theo xu hướng vận
động của hàng hóa, theo phạm vi tác dụng, theo cách thức đánh thuế và theo mục
đích đánh thuế
3.1. Theo xu hướng vận động của hàng hóa
- Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh vào giá trị hàng hóa xuất khẩu nhằm hạn
chế những mặt hàng cần thiết, những loại vật tư quý hiếm để phát triển nền kinh tế
trong nước, nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường hoặc bảo vệ môi trường. Ở những
nước phát triển đây còn là một nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, nhưng đối
với các nước có nền kinh tế khá cao, chính sách của Nhà nước là gia tăng hàng hóa
xuất khẩu nên thường không đánh thuế hoặc đánh thuế rất thấp vào những hàng hóa
xuất khẩu này, việc đánh thuế này nhằm mục đích chính là quản lí.
- Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào giá trị hàng hóa nhập khẩu vào trong
nước, loại thuế này nhằm mục đích làm cản trợ sự xâm nhập của hàng hóa nước
ngoài vào thị trường trong nước, thúc dẩy và bảo hộ nền sản xuất nước nhà. Tuy
vậy thời gian gần đây mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước của thuế nhập khẩu
không được coi trọng như trước. Nhưng không vì thế mà vị trí của thuế nhập khẩu
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
bị hạ thấp mà ngược lại do nhiều lí do kinh tế, chính trị, xã hội khác mà thuế nhập
khẩu vẫn được coi như một hàng rào che chắn trong hoạt động thương mại quốc tế
và là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
- Thuế quá cảnh là loại thuế đánh vào hàng hóa nước ngoài đưa qua lãnh thổ
của một nước để đến với quốc gia thứ ba, vẫn nhằm mục đích gia tăng ngân sách
Nhà nước. Nhưng hiện nay nguồn thu này ít được sử dụng trong hoạt động ngoại
thương do một số quy định của Thế giới.
3.2. Theo phạm vi tác dụng

Khi phân loại thuế xuất nhập khẩu theo tiêu thức này có hai loại thuế xuất nhập
khẩu, đó là:
- Thuế xuất nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: thuế là một yếu tố quan trọng
luôn được đưa ra trong mỗi cuộc đàm phán thương mại quốc tế. Nội dung đàm phán
về thuế có rất nhiều khía cạnh tuy vậy không thể không đề cập tới vấn đề thuế suất.
Một khi các hiệp định về thuế được thông qua, các nước tham gia hiệp định phải
tuân thủ theo hiệp định thuế xuất nhập khẩu đã kí kết.
- Thuế xuất nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính chủ quyền của một quốc
gia, thuế này quy định tuỳ ý theo mục tiêu của từng quốc gia, không phụ thuộc vào
bất kì một hiệp định song phương hay đa phương nào đã kí kết. Vì vậy, tuỳ vào mối
quan hệ với các đối tác mà các nước có thể có những chính sách thuế phân biệt đối
xử, bằng hệ thống thuế suất cao hay thấp (thuế suất tối đa, thuế suất tối thiểu).
3.3. Theo cách thức đánh thuế
- Thuế tuyệt đối (thuế cố định hay thuế đánh theo số lượng hàng hoá): là loại
thuế tính theo một số tiền nhất định cho mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu, loại
thuế này không phụ thuộc vào sự biến động giá cả của hàng hoá.
- Thuế theo tỷ lệ phần trăm (thuế tính theo giá trị- ad valorem tariff): về mặt
pháp lý loại thuế này được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị xuất nhập khẩu
thực tế của mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu. Khác với thuế tuyệt đối, số thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà kinh doanh phải nộp được tính theo tỷ lệ % thay đổi
tuỳ theo trị giá xuất nhập khẩu thực tế của hàng hoá.
- Thuế hỗn hợp: là loại thuế áp dụng hỗn hợp thuế tuyệt đối và thuế tỷ lệ
phần trăm, tức là loại thuế này đánh trên đầu hàng hoá xuất nhập khẩu vừa theo đơn
vị vật lí, vừa theo tỷ lệ trên giá cả của hàng hoá.
- Thuế theo lượng thay thế: Loại thuế này được áp dụng với một số mặt hàng
đặc biệt, dựa vào tính chất của hàng hoá. Là trường hợp một mặt hàng được quy
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
định đồng thời áp dụng thuế tính theo tỷ lệ % và thuế theo một số tiền tuyệt đối,

nhưng khi tính và nộp thuế phải tính và nộp theo số tiền nào cao hơn.
Phân loại thuế xuất nhập khẩu theo cách thức đánh thuế có 4 loại thuế nhưng hiện
nay cơ quan Hải quan chủ yếu thực hiện đánh thuế xuất nhập khẩu theo giá trị hàng
hoá, loại thuế này tuy có khó khăn hơn thuế tuyệt đối nhưng nó thấy được sự công
bằng giữa các chủ hàng và sự tiện lợi hơn so với các loại thuế khác.
3.4. Theo mục đích đánh thuế
- Thuế quan tăng thu ngân sách: là một tập hợp các mức thuế suất mà đưa
ra nhằm mục đích chính là tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, còn mục đích
bảo hộ nền sản xuất nước nhà chỉ là thứ yếu.
- Thuế quan bảo hộ: loại thuế này được đưa ra với mục đích bảo hộ nền
sản xuất trong nước trước sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài, nhờ có loại thuế
này hàng hoá nội địa được tăng cường tính cạnh tranh. Hay nói một cách khác thuế
quan bảo hộ được tính toán và đưa ra khi người ta cho rằng nếu ở mức thuế suất
thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt từ hàng nhập
khẩu và thị trường hàng hóa cơ bản sẽ nằm trong tay các nhà nhập khẩu.
- Thuế quan cấm đoán: là loại thuế quan được đưa ra với mức thuế suất
quá cao, dường như không còn nhà nhập khẩu nào dám nhập khẩu mặt hàng đó nữa.
- Thuế quan trừng phạt: loại thuế này là biện pháp thực hiện tác động phân
biệt đối xử một số nước với những mục đích trừng phạt nhất định, nói cách khác
loại thuế quan này được sử dụng nhằm mục đích trả đũa lại những hành vi phân biệt
đối xử của một quốc gia này đối với hàng hoá của một quốc gia khác.
4. Tác động của thuế xuất nhập khẩu
 Thuế xuất nhập khẩu thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất
kinh doanh và là điều kiện để tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt để đạt
tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả
càng trở nên cần thiết đối với tất cả các Quốc gia.
Việt Nam là một nước đang phát triển do đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây sẽ là
nguồn tài nguyên chủ yếu để chính phủ đầu tư tái thiết cơ sở hạ tầng đang trên đà

xuống cấp, lạc hậu nghiêm trọng và cần được khẩn trương nâng cấp, đổi mới để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và mở rộng thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài nói riêng.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
 Thuế xuất nhập khẩu làm giảm thất nghiệp trong nước
Nhà nước ta thông qua mức điều chỉnh thu thuế xuất nhập khẩu đã gây sức ép
lên hàng hoá nhập khẩu, từ đó gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước là
hướng vào các sản phẩm nội địa. Chính lúc này là cơ hội cho các nhà kinh doanh
trong nước nắm bắt thị trường, thu hút đầu tư và lao động. Điều này đã làm giảm
đáng kể tỷ lệ thất nghiệp nước nhà.
Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế.
Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập về thuế
quan cho các nước đánh thuế. Nhưng nếu xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thuế
quan phần nào đã làm giảm phúc lợi chung do nó đã làm giảm hiệu quả khai thác
nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Thuế quan đã làm thay đổi cán cân thương mại
và đang điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia.
Thêm nữa thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ gây
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các loại hàng hóa và do đó nó làm giảm
lượng hàng hóa tiêu thụ. Mặt khác, thuế quan cao cũng sẽ làm gia tăng tệ nạn buôn
lậu. Thuế quan càng cao, nạn buôn lậu càng phát triển và ngày cangd thêm tinh vi
hơn. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp
hơn so với ở thị trường nội địa. Điều này đã phần nào làm giảm lượng khách hàng ở
nước ngoài, vì vậy khách hàng nước ngoài sẽ tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng
thời thuế quan cao sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành
sản phẩm.
Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế của hàng hóa thấp thì thuế quan xuất khẩu sẽ
không làm giảm quá nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và mặt khác vẫn mang

lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò rất quan trọng
trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp còn
non trẻ. Thế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do đó nó sẽ khuyến khích
các nhà sản xuất trong nước. Nhưng điều này cũng đã làm giảm đáng kể khả năng
cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế quan nhập khẩu có thể giúp cải
thiện thương mại của nước đánh thuế. Với một số loại hàng hóa có thể giá của
chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế, đối với loại hàng hóa này thuế quan có
thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giá. Lúc này, lợi nhuận sẽ được dịch
chuyển một phần cho nước nhập khẩu. Do đó, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng háo
nhập khẩu.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
XUẤT NHẬP KHẨU
Quản lí thuế nói chung và quản lí thuế xuất nhập khẩu nói riêng là một công
tác có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Với vai trò quan trọng như
vậy, việc không ngừng hoàn thiện và nâng cao công tác quản lí thu thuế xuất nhập
khẩu là một tất yếu khách quan của mỗi quốc gia. Công tác quản lí thu thuế xuất
nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt ba mục tiêu sau:
Một là, tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước
trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Hai là phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế, đặc biệt là trong
hoạt động thương mại quốc tế.
Ba là tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và cá
nhân kinh doanh xuất nhập khẩu.
Công tác quản lí thu thuế là một phần quan trọng của quản lí tài chính Nhà nước, vì
vậy nó cần được xem xét và nhìn nhận ở tầm vĩ mô. Để thực hiện tốt ba mục tiêu đề
trên, công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu cần thực hiện đầy đủ các nội dung

sau:
1. Quản lý đối tượng nộp thuế
Trên cơ sở đăng kí quyền kinh doanh của các cá nhân, các đối tượng sản xuất
kinh doanh, cơ quan thuế tiến hành đăng kí đối tuợng nộp thuế, trên cơ sở này sẽ
quản lí và thu thuế đối với các đối tượng này. Hiện nay, cơ quan Hải quan thường
áp dụng hai phương pháp đăng kí đối tượng nộp thuế. Đó là:
 Phương thức thủ công
Theo phương thứuc này, mỗi đối tượng nộp thuế được cung cấp một sổ đăng kí thuế
riêng, tất cả thông tin cần thiết về đối tượng nộp thuế được phản ánh và lưu lại trong
sổ này.
Tuy vậy phương thức này chỉ thực hiện dễ dàng khi số lượng đối tượng nộp thuế ít
và tập trung. Một khi số lượng đối tượng nộp thuế gia tăng thì việc quản lí quản
tượng nộp thuế bằng phương pháp này trở nên khó khăn, dễ bị nhầm lẫn, mất nhiều
thời gian, nhân lực mà hiệu quả không cao.
 Phương thức quản lí bằng mạng vi tính
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Đây là một phương thức quản lí đối tượng nộp thuế khá hiệu quả, hạn chế được các
nhược điểm của phương thức thủ công trên nhờ áp dụng thành tựu của khoa học
công nghệ. Theo phương thức này, mỗi đối tượng nộp thuế được gắn với một mã số
duy nhất. Mọi thông tin, hồ sơ cần thiết về đối tượng nộp thuế được quản lí trên
máy vi tính. Phương thức này hiện đại giúp tiết kiệm chi phí quản lí thuế đồng thời
có thể giúp cơ quan thuế dễ dàng, nhanh chóng phát hiện các trường hợp gian lận
thuế ngay cả khi gia tăng số lượng đối tượng nộp thuế.
2. Xây dựng và lựa chọn quy trình quản lý thu thuế:
Quy trình quản lí thu thuế nói lên trình tự các bước công việc phải làm nhằm
tập trung đầy đủ số thu thuế cho vào ngân sách Nhà nước.
Có hai dạng quy trình quản lí thu thuế như sau:
- Thứ nhất, cơ quan thuế tính và ra thông báo số thuế phải nộp cho đối tượng

nộp thuế
Theo định kì thời gian hoặc theo chuyến hàng, các đối tương kinh doanh tuân
theo những quy định trong luật thuế và hoạt động kinh doanh của mình sẽ phải kê
khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế thông qua tờ khai, kiểm tra
tờ khai và tính thuế, sau đó thông báo số thuế phải nộp và gửi cho đối tượng nộp
thuế. Đối tượng nộp thuế phải có nghĩa vụ nộp đầy đủ số thuế vào Kho bạc Nhà
nước theo đúng thời hạn trong thông báo.
Với phương thức quản lí này việc tính toán số thuế phải nộp của mỗi đối tượng nộp
thuế là rất chính xác, nhưng khối lượng công việc của các cơ quan thuế đảm nhận sẽ
rất nhiều và phức tạp đặc biệt khi số lượng đối tượng nộp thuế lớn, mỗi đối tượng
lại nộp những loại thuế khác.
- Thứ hai, đối tượng nộp thuế tự kê khai, tính thuế và nộp thuế.
Ngược lại với quy trình thứ nhất, quy trình này đòi hỏi các đối tượng nộp
thuế tự kê khai, tính và nộp thuế cho chuyến hàng của mình vào Kho bạc Nhà nước.
Với phương thức này công việc mà cơ quan thuế đảm nhận được giảm đi đáng kể,
xong quy trình này chỉ được thực hiện tốt khi các thành viên tham gia nắm vững và
tự giác chấp hành nghĩa vụ đóng thuế của mình, đồng thời tính pháp lý của các luật
thuế phải cao và công tác kiểm tra thuế, thanh tra thuế phải được thực hiện thường
xuyên và có hiệu quả.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
3. Tính thuế và thu thuế
 Tính thuế:
Cơ quan Hải quan căn cứ vào số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, vào trị giá tính
thuế và thuế suất của hàng hoá để tính ra số thuế xuất nhập khẩu mà nhà kinh doanh
phải nộp:
Trị giá hải quan bao gồm trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu và trị giá
hải quan của hàng hóa nhập khẩu. Trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu là giá
bán hàng hóa tại cửa khẩu theo hợp đồng mua bán, không bao gồm các chi phí vận

chuyển và bảo hiểm quốc tế. Trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế
phải trả tính đến cửa khẩu nhập khẩu đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng
một trong sáu phương pháp xác định trị giá theo quy định của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Đặc biệt, đối với thuế nhập khẩu thì có hai phương pháp chính để
đánh thuế nhập khẩu, đó là:
- Phương pháp tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần
trăm:
Căn cứ vào số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong
tờ khai hải quan, trị giá tính thuế, thuế suất từng mặt hàng và được thực hiện theo
công thức:
Số tiền thuế Số lượng đơn vị từng Trị giá tính Thuế suất
xuất khẩu, = mặt hàng thực tế xuất x thuế tính trên x của từng
thuế nhập khẩu, nhập khẩu ghi một đơn vị mặt hàng
khẩu phải trong tờ khai hải quan hàng hóa
nộp
Trường hợp số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực tế có chênh lệch so
với hóa đơn thương mại do tính chất của hàng hóa, phù hợp với điều kiện giao hàng
và điều kiện thanh toán trong hợp động mua bán hàng hóa thì số tiền thuế xuất
khẩu, nhập khẩu phải nộp được xác định trên cơ sở trị giá thực thanh toán cho hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu và thuế suất từng mặt hàng.
- Phương pháp tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối
Số tiền thuế xuất Số lượng đơn vị từng mặt hàng Mức thuế tuyệt đối
khẩu, thuế nhập = thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi x quy định trên một
khẩu phải nộp trong Tờ khai hải quan đơn vị hàng hóa
Ngoài ra còn phương pháp hỗn hợp là sự kết hợp của hai phương pháp trên
(thuế gộp). Trong trường hợp một mặt hàng được quy định đồng thời thuế tính theo
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
tỷ lệ phần trăm và thuế theo một số tiền tuyệt đối, thì khi tính thuế phải tính và nộp

thuế theo số thuế nào cao hơn.
Thông thường, các nước đều áp dụng cách tính thuế phần trăm thay cho cách
tính thuế theo giá trị bởi nó đảm bảo được tính công bằng khi đánh thuế.
 Thu thuế:
Sau khi cơ quan Hải quan tính ra số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp của
mỗi doanh nghiệp thì mỗi doanh nghiệp tuân theo quy định trong luật thuế có nghĩa
vụ nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước hoặc nộp bằng tiền mặt qua cơ quan
thuế.
4. Thanh tra thuế
Đây là một trong những nội dung quan trọng của quản lý thuế, được thực hiện
bởi hệ thống các cơ quan thanh tra chuyên ngành về thuế hoặc có sự phối hợp của
các cơ quan chức năng có liên quan, với mục tiêu phát hiện ra những sai phạm bắt
nguồn từ các tổ chức, các cá nhân kinh doanh xuất nhập khẩu và cơ quan Hải quan
nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu.
Đối tượng của thanh tra thuế là các đối tượng nộp thuế và chính bản thân các
đơn vị thuộc ngành thuế.
- Đối với đối tượng nộp thuế: thanh tra thuế nhằm phát hiện để từ đó có những
biện pháp xử lí kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế như khai man, nợ
đọng thuế, trốn thuế, chiếm dụng tiền thuế… nhằm hạn chế mức thấp nhất tình
trạng thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước. Các nội dung thanh tra đối với đối
tượng này là:
+ Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng kí, kê khai thuế.
+ Thanh tra việc chấp hành chế độ kế toán hoá đơn chứng từ.
+ Thanh tra thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
- Đối với bản thân các đơn vị thuộc ngành thuế: thanh tra thuế nhằm phát hiện
những sai sót của Hải quan trong công tác thu thuế xuất nhập khẩu từ đó đề ra biện
pháp chỉnh sửa để công tác thu thuế hiệu quả hơn. Nội dung thanh tra của đối tượng
này là:
+Thanh tra việc giải quyết các khiếu nại và xử lí các vi phạm về thuế
+ Thanh tra việc tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn chấp hành pháp luật

thuế
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ THU
THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
1. Ý nghĩa của việc quản lý thu thuế xuất nhập khẩu
Thuế xuất nhập khẩu hiện nay đóng góp phần lớn vào nguồn thu của Ngân
sách Nhà nước, là một trong những phương tiện có hiệu quả để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý của mình. Bằng việc thông qua thuế xuất nhập khẩu Nhà nước có
thể quản lý doanh nghiệp ở tầm vĩ mô, bảo hộ nền sản xuất trong nước, và định
hướng tiêu dùng.
Hiện nay hoạt động xuất nhập khẩu thực sự đóng vai trò rất lớn đối với sự
phát triển của mỗi Quốc gia. Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng lên với số
thu về thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu của Ngân sách
Nhà nước. Đây là một nguồn thu rất quan trọng cho Ngân sách Nhà nước nhằm đáp
ứng cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cấp
giao thông liên lạc và phát triển kinh tế nước nhà. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế được coi như là một tất yếu khách quan, hội
nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đấu tranh gay gắt để tạo điều kiện củng cố an
ninh quốc phòng, giữ vững độc lập về kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thực hiện là
thông qua việc ký các Hiệp ước, Hiệp định song phương và đa phương, tham gia
vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Do vậy việc xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng gia
tăng và được tiến hành ngày càng thuận lợi hơn. Khi đó, việc quản lý thuế xuất
nhập khẩu là rất cần thiết, không chỉ đáp ứng đảm bảo các cam kết được tuân thủ
mà còn quản lý chặt chẽ được hoạt động ngoại thương của nước ta với các quốc gia
khác.
Từ tầm quan trọng của nguồn thu thuế xuất nhập khẩu đòi hỏi công tác quản
lý thu thuế xuất nhập khẩu phải được tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa. Càng
quan trọng hơn nữa, hiện nay tình trạng thất thu thuế, gian lận thuế ngày càng trở

nên phổ biến, thông qua nhiều hình thức khác nhau, lợi dụng các đối tượng và kẽ hở
của pháp luật mà các đối tượng trốn thuế thực hiện hành vi của mình.
Công tác quản lý thuế nói chung và thuế xuất nhập khẩu nói riêng đang càng trở nên
cấp bách và phức tạp đối với các nước đang phát triển và Việt Nam cũng nằm trong
số này. Để phù hợp hơn với xu thế hôi nhập Chính vì điều này, mặt trái của nền
kinh tế thị trường là các nhà kinh doanh luôn chạy theo lợi nhuận và để thực hiện
mục tiêu đó họ sẵn sàng quên mất trách nhiệm đóng thuế của mình bằng cách trốn
thuế, gian lận thương mại, buôn lậu, nợ đọng thuế lâu ngày. Theo đánh giá của
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Tổng cục hải quan và các ngành khác có liên quan thì tình trạng buôn lậu và gian
lận thương mại vẫn còn tồn tại và ngày càng bức xúc vì hình thức buôn lậu không
những rất tinh vi mà hàng hoá thông qua con đường này còn khá phong phú về
chủng loại.
Thuế xuất nhập khẩu là một loại thuế phức tạp, có rất nhiều mức thuế suất,
nhiều loại mặt hàng được miễn giảm thuế, các loại hàng hoá này các cơ quan Hải
quan rất khó kiểm tra một cách toàn diện và chính xác… Chính nhờ vào đặc điểm
này của thuế xuất nhập khẩu mà nhiều chủ hàng lợi dụng những sơ hở của luật thuế
để kê khai trốn thuế, giảm thuế là điều không tránh khỏi. Và do vậy đã gây tổn thất
không nhỏ về nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Vì thế, công tác quản lý thu
thuế, chống thất thu thuế xuất nhập khẩu luôn được đặt, Việt Nam đã có những
bước đi cố gắng trong vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản hành
chính, văn bản pháp luật có liên quan tới kinh doanh xuất nhập khẩu. Nói chung
hiện tại công tác quản lí thuế xuất nhập khẩu đang tiến triển theo chiều hướng ngày
càng tốt hơn, điều này không những tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu mà
còn tăng cường được vai trò quản lý của Nhà nước. ra là một điều tất yếu.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều
thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Là thành viên thứ 150 của Tổ

chức Thương mại Thế giới (WTO), nước ta có được vị thế bình đẳng trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội thiết lập một trật tự kinh tế
mới công bằng, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh
nghiệp. Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên
với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở
cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử.
Điều đó tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng kinh
doanh, dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô
đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu
cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất
nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, nhất là pháp luật về thuế quan,
một số vấn đề ảnh hưởng tới công tác quản lí thu thuế xuất nhập khẩu.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Một là, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, mặc dù đã được sửa đổi nhiều
lần, nhưng vẫn chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các đối tượng và nguồn
thu. Thuế nhập khẩu ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh theo
mục đích sử dụng nên dễ tạo ra những sơ hở, bất hợp lý để cho các đối tượng làm
ăn bất chính triệt lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế suất của Việt Nam vẫn
còn phức tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, mặt hàng có
nhiều mức thuế suất khác nhau: giữa các mức thuế tối thiểu và tối đa có sự chênh
lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp
thuế lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu
chỉ cần khai báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có
lợi hơn hoặc chỉ cần khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau
khi nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi kết cấu thành loại hàng hóa có trị giá thương mại

cao hơn. Do vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.
Hai là, cần ban hành ngay các loại thuế như: thuế chống bán phá giá, thuế
hạn ngạch, thuế phản kháng, thuế chống trợ cấp để chống lại "cuộc chiến thương
mại" được núp bóng tinh vi trong cái "áo khoác" tự do thương mại và toàn cầu hóa.
Ba là, vấn đề cho nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lý hàng tạm nhập tái xuất,
hoàn thuế VAT cùng với thủ tục thành lập, giải thể công ty lỏng lẻo là những sơ
hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác trốn thuế. Đặc biệt lợi dụng chính sách ân
hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc đã làm cho danh sách các
doanh nghiệp chây ỳ, chiếm đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu ngày một dài thêm. Theo
ước tính hiện nay có số tiền thuế xuất nhập khẩu trên cả nước (khoảng 3.000 tỉ
đồng) còn nợ đọng kéo dài, khả năng không thể thu hồi. Đề nghị bãi bỏ thời gian ân
hạn thuế quy định trong Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Chỉ nên dùng một
trong hai hình thức: nộp thuế ngay hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng trước khi
thông quan hàng hóa.
Bốn là, trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế xuất
nhập khẩu. Người nộp thuế chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật lệ
về thuế xuất nhập khẩu. Vì vậy, trình độ nhận thức và thái độ chấp hành nghĩa vụ
thuế của họ đóng vai trò quyết định trong việc thu thuế và chống thất thu thuế. Cho
dù hệ thống chính sách, pháp luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lý đổi
mới, cán bộ thuế đáp ứng năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn triệt để
việc trốn, lậu thuế nếu người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Do
đó để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính sách,
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
pháp luật; mặt khác, phải tuyên truyền giáo dục, vận động người nộp thuế tự giác
chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ.
Năm là, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi Việt Nam đã là thành viên chính
thức của WTO, phải nâng cao năng lực của cơ quan thuế nói chung, hải quan nói
riêng; sắp xếp lại tổ chức bộ máy cơ quan thuế, đào tạo và đào tạo lại công chức

ngành thuế quan theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp; xây dựng hệ thống
quản lý đạt chuẩn ISO 9001.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ THU
THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. TỔNG QUAN VỀ CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
Cục Hải quan TP. Hà Nội là tổ chức trực thuộc Tổng cục Hải quan, có chức
năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lý Nhà nước về Hải quan, các
quy định khác của pháp luật có liên quan trên địa bàn hoạt động của Cục Hải quan
theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/09/1945, Bộ trưởng Bộ nội vụ Võ Nguyên Giáp được uỷ quyền của
Chủ tịch lâm thời Việt Nam Dân chủ công hoà ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập "Sở
thuế quan và thuế gián thu'' khai sinh ngành Hải quan Việt Nam với
Nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó,
ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt,
hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Ngay trong ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, Hải quan Trung ương đã cử
lực lượng vào tiếp quản cơ quan đầu não thuế quan của Pháp đóng ở đường Trần
Quang Khải (nay là Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam). Ngày 02/4/1955 Bộ
trưởng Bộ Công thương (ông Phan Anh) đã ký Nghị định số 34/BCT/KB/NĐ thành
lập Sở Hải quan Hà Nội, trực thuộc Sở Hải quan Trung ương để thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát, kiểm soát Hải quan trên địa bàn thủ đô và vùng lân cận.
Hoạt động xuất nhập khẩu đầu những năm 1980 trên địa bàn thủ đô ngày
càng mở rộng, theo đó các hoạt động buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hoá qua
biên giới cũng diễn biến theo hướng vô cùng phức tạp. Ngoài ra, Hải quan Thủ đô
còn thực hiện một số chính sách đối với các đối tượng có hàng hoá từ nước ngoài về

(Quyết định số 151/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 31/8/1982 về việc các
gia đình có thân nhân di cư ở nước ngoài nhận tiền hàng do thân nhân gửi về (gọi là
hàng 151), Chỉ thị số 202/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 10/7/1985 về chấn
chỉnh công tác kiểm tra, kiểm soát Hải quan tại các sân bay, hải cảng và cửa khẩu,
trong đó có tăng cường quản lý Hải quan đối với hàng hoá của người lao động, học
tập, công tác ở nước ngoài gửi về cho thân nhân (gọi là hàng 202). Trước tình hình
trên, sau khi thống nhất ý kiến với Chủ tịch UBND TP. Hà Nội, Tổng cục trưởng
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Tổng cục Hải quan đã ký Quyết định số 101/TCHQ/TCCB ngày 03/8/1985 thành
lập Cục Hải quan TP. Hà Nội trực thuộc Tổng cục Hải quan để thống nhất quản lý
toàn bộ các đơn vị Hải quan trên địa bàn Hà Nội. Lúc này, tổ chức bộ máy gồm có 3
phòng và 4 đơn vị Hải quan cửa khẩu với biên chế là 225 cán bộ, công chức.
Trong những năm gần đây, cùng với tiến trình cải cách, hiện đại hoá và hội
nhập, Cục Hải quan TP. Hà Nội đã được sự quan tâm, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của
lãnh đạo Bộ Tài chính, lãnh đạo Tổng cục Hải quan, Thành uỷ, UBND TP. Hà Nội và
các Tỉnh, sự phối hợp công tác của các cơ quan hữu quan. Đến nay, cơ quan Cục đã có
trụ sở làm việc khang trang, trụ sở các chi cục cũng đã và đang được đầu tư xây dựng
lại, từng bước được trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại (máy soi, camera, hệ
thống máy tính được nối mạng và triển khai đồng bộ hệ thống phần mềm quản lý tập
trung.…). Đặc biệt phương pháp quản lý hải quan đã có những bước thay đổi mang
tính đột phá như: chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, thu thập và xử lý thông tin theo
phương pháp quản lý rủi ro, khai báo từ xa qua mạng máy tính đạt trên 97% kim ngạch
xuất nhập khẩu, tiến tới áp dụng thủ tục hải quan điện tử.
 Một số thành tích khen thưởng tiêu biểu của Cục Hải quan TP. Hà Nội
đã được ghi nhận (từ tháng 1 năm 2000 - tháng 6 năm 2010)
- Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 2000)
- Huân chương Chiến công hạng ba vì thành tích bắt giữ ba vụ vận chuyển trái
phép chất ma túy (năm 2001)

- Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2005)
- Cờ thi đua của Chính phủ (năm 2002, 2008, 2009)
- Giải nhất cho đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin xuất sắc nhất TP. Hà Nội
năm 2008
- Cờ thi đua xuất sắc cho đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua của UBND TP.
Hà Nội năm 2009.
- Tập thể Lao động xuất sắc năm 2009
- Bằng khen của Ban 127 trung ương về thành tích chống buôn lậu và gian lận
thương mại năm 2009.
- Huân chương Độc lập hạng Ba (năm 2010)
2. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Hải quan TP. Hà Nội
Chức năng: Cục Hải quan TP. Hà Nội là một tổ chức trực thuộc Tổng cục
Hải quan, có chức năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lí nhà nước
về hải quan và tổ chức thực thi pháp luật về Hải quan, các quy định khác của pháp
luật có liên quan trên địa bàn hoạt động của cục.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Nhiệm vụ:
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai thực hiện các quy định của Nhà
nước về Hải quan trên địa bàn hoạt động của Cục Hải quan
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục Hải quan trong việc tổ chức triển
khai nhiệm vụ được giao.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về hải quan theo quy
định của pháp luật.
- Xử lí vi phạm hành chính hoặc khởi tố đối với các vụ buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại
đối với các quyết định hành chính của các đơn vị trực thuộc và giải quyết vấn đề
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Kiến nghị với Cục trưởng những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung các quy định

của Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu, các quy
định của tổng cục Hải quan về chuyên môn nghiệp vụ và quản lí nội bộ; báo cáo
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan những khó khăn phát sinh, các vấn đề vượt quá
thẩm quyền giải quyết của Cục Hải quan.
- Tổ chức triển khai vận dụng tiến bộ khoa học công nghệ và phương pháp
quản lí Hải quan hiện đại vào hoạt động của Cục Hải quan.
- Cục Hải quan phối hợp với các đơn vị trên địa bàn, cơ quan nhà nước và các
tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về Hải quan trên
địa bàn.
- Hướng dẫn, giải thích các vấn đề thuộc phạm vi quản lí của Cục Hải quan
theo quy định của pháp luật.
- Hợp tác quốc tế về Hải quan theo quy định của pháp luật và theo phân công
hoặc ủy quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan.
- Tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của Cục Hải quan; thực
hiện chế độ báo cáo theo chế độ quy định.
- Quản lí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của cục Hải quan
theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lí cán bộ của Bộ tài chính.
- Quản lí, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chi thuế; quản lí, sử dụng phương pháp,
trang thiết bị kĩ thuật và kinh phí hoạt động của cục Hải quann theo quy định của
pháp luật.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan giao và
theo quy định của pháp luật.
3. Cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực
Bảng 1 : Mô hình cơ cấu tổ chức Cục Hải quan TP. Hà Nội
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49

Cục Hải quan
TP. Hà Nội
Khối cơ quan Cục Khối đơn vị Chi cục Hải quan cửa
khẩu và tương đương
1. Văn phòng
2. Phòng Tổ chức cán bộ
3. Phòng Tài vụ - quản trị
4. Phòng Giám sát quản lý
5. Phòng Chống buôn lậu và xử lý
vi phạm
6. Phòng Thuế xuất nhập khẩu
7. Trung tâm dữ liệu và công nghệ
thông tin
8. Phòng Thanh Tra
9. Đội Kiểm soát hải quan
10. Đội Kiểm soát phòng chống
ma túy
11. Phòng Quản lý rủi ro
12. Chi cục Kiểm tra sau thông
quan
1. Chi cục Hải quan cửa khẩu Sân
bay quốc tế Nội Bài
2. Chi cục Hải quan Bưu điện TP
Hà Nội
3. Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội
4. Chi cục Hải quan quản lý hàng
đầu tư, gia công
5. Chi cục Hải quan Gia Lâm
6. Chi cục Hải quan Gia Thụy
(ICD Gia Thụy)

7. Chi cục Hải quan ga Đường sắt
quốc tế Yên Viên
8. Chi cục Hải quan Khu công
nghiệp Bắc Thăng Long
9. Chi cục Hải quan Hà Tây
10. Chi cục Hải quan Phú Thọ
(ICD Thụy Vân)
11. Chi cục Hải quan Bắc Ninh
12. Chi cục Hải quan Vĩnh Phúc
13. Chi cục Hải quan Tiên Sơn
(ICD Tiên Sơn)
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Để đáp ứng tiến trình đổi mới của Ngành Hải quan, lực lượng cán bộ, công
chức Hải quan TP. Hà Nội phấn đấu trưởng thành cả về số lượng và chất lượng.
Biên chế toàn Cục tính đến ngày 18/03/2011 có 793 người, với 4% trình độ trên đại
học, 83% trình độ đại học, 13% cao đẳng và trung học. Đảng bộ Cục Hải quan TP.
Hà Nội trực thuộc Thành uỷ có 21 đảng bộ, chi bộ trực thuộc với 480 đảng viên.
Đoàn thanh niên có 12 chi đoàn với 162 đoàn viên. Công đoàn cơ sở có 21 công
đoàn bộ phận với 100% cán bộ, công chức là đoàn viên công đoàn.
4. Mục tiêu của Cục Hải quan TP. Hà Nội
Căn cứ vào những mục tiêu của Tổng cục Hải quan đã đề ra, Cục Hải quan
Hà Nội đã đề ra. Trong giai đoạn 2011 – 2015 Cục Hải quan TP. Hà Nội tiếp tục
thực hiện mục tiêu cải cách, phát triển hiện đại hóa với các nhiệm vụ ba trọng tâm,
đó là:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh các công tác hoàn thiện thủ tục hành chính:
Thực hiện Nghị quyết số 25/NĐ-CP ngày 02/06/2010 của Chính phủ về việc đơn
giản hóa 258 thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lí của Bộ, ngành;
ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả quy trình thủ tục Hải quan và trong quản
lí hành chính, quản lí điều hành, quản lí nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực quản lí

Hải quan, tạo mọi điều kiện thuận lợi, phục vụ có hiệu quả nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội vùng thủ đô.
Thứ hai, Cục Hải quan TP. Hà Nội tập trung triển khai công tác xây dựng,
hiện đại hóa trụ sở làm việc, các trang thiết bị của Cục đáp ứng được yêu cầu quản
lí Hải quan hiện đại.
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả công tác quản lí, đào tạo phát triển nguồn
nhân lực nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức về quản lí thay đổi kĩ
thuật nghiệp vụ và phương pháp quản lí Hải quan hiện đại. Thực hiện đào tạo bồi
dưỡng nguồn nhân lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu đối với từng chức
danh công việc, phù hợp với tiến trình hiện đại hóa, nâng cao năng lực chuyên môn
nghiệp vụ cho các cán bộ công chức. Cục đang tập trung đào tạo theo tiêu chuẩn
chức danh đối với các cán bộ lãnh đạo, cán bộ trong quy hoạch.
Và thứ tư, tập trung hoàn thành và vượt 10% so với chỉ tiêu năm
2011(16.250 tỷ đồng). Cục Hải quan TP. Hà Nội tăng cường công tác nắm tình
hình, kiểm tra việc thực hiện quy trình nghiệp vụ, chú trọng công tác giá,, thực hiện
tham vấn về giá, xây dựng hệ thống dữ liệu về giá phục vụ cho công tác kiểm tra,
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
tính thuế. Thực hiện các giải pháp đôn đốc thu đòi nợ thuế có hiệu quả… không để
nợ mới phát sinh.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
TẠI CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Quản lí đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu
Để quản lí được thuế xuất nhập khẩu thì việc đầu tiên phải quản lí được đối
tượng nộp thuế, công việc này là phải xác định được đối tượng nào thuộc diện quản
lí của sắc thuế đó. Công tác này là công việc đầu tiên trong cả quá trình và nó quyết
định tới doanh thu vào Ngân sách Nhà nước cũng như việc giám sát, thanh tra sau
này.
Quản lí thu thuế xuất nhập khẩu là một quá trình thực hiện hình thức, các

biện pháp cụ thể cụ thể hóa các chính sách của Nhà nước về lĩnh vực thuế xuất nhập
khẩu, trong quá trình đó các cán bộ Hải quan là các nhà quản lí bằng các nghiệp vụ
tác động vào đối tượng nộp thuế là các chủ hàng nhằm đảm bảo thực hiện thành
công nhằm những mục tiêu đề ra. Đây là những chủ thể tạo ra doanh thu cho Ngân
sách Nhà nước.
ĐTNT theo quy định tại Điều 4 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm:
- Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu
- Cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh; gửi hoặc
nhận hàng hóa qua cửa khẩu biên giới Việt Nam.
Hình thức quản lí đối tượng nộp thuế có nhiều loại như: quản lí theo mã số
thuế, quản lí theo loại hình doanh nghiệp… Hiện nay nhờ áp dụng khoa học công
nghệ, các Cục Hải quan trong nước nói chung và Cục Hải quan Thành Phố Hà Nội
nói riêng đều thấy rõ được sự tiện lợi và ưu điểm rút ngắn thời gian của loại hình
quản lí đối tượng nộp thuế theo hình thức áp mã số thuế nên đã bắt đầu áp dụng
hình thức quản lí đối tượng thuế theo hình thức này.
Mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu đăng kí kinh doanh sẽ được cấp một mã số
thuế. Đây không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm của mối doanh nghiệp. Điều
này chính là cơ sở pháp lí cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngay từ
khi bắt đầu hoạt động.
Tất cả đối tượng xuất nhập khẩu hàng hoá nếu không thuộc diện miễn thuế
hay giảm thuế xuất nhập khẩu thì đều được các cán bộ Hải quan kiểm tra, giám sát,
quản lý và hướng dẫn làm đầy đủ thủ tục nộp thuế.
SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Quyết định số 56/2003/QĐ- BTC ngày 16/04/2003 ra đời đã tạo ra bước
ngoặt rõ rệt, làm tăng tính chủ động của chủ hàng thông qua việc tự khai, tự tính
thuế, mọi sai sót của chủ hàng đều được các cán bộ phụ trách tận tình hướng dẫn và
điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, ngày nay công tác này vẫn còn gặp một số khó

khăn, như việc số ít các đối tượng đã lợi dụng việc xuất nhập cảnh thường xuyên
cùng với doanh nghiệp của mình để vận chuyển hàng hoá trái phép qua cửa khẩu.
Nhận xét: Công tác quản lý đối tượng nộp thuế của cục Hải quan TP. Hà Nội
thời gian qua là tương đối tốt. Dù vậy công tác này rất quan trọng nên không thể lơ
là việc quản lý, một vấn đề luôn luôn đặt ra là các cán bộ nhân viên Hải quan phải
tìm biện pháp để hoàn thiện và nâng cao công tác quản lý thu thuế xuất nhập khẩu.
2. Quản lí căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu
Để quản lý tốt thuế xuất nhập khẩu thì trước hết cần xác định đúng căn cứ
tính thuế của hàng hoá. Căn cứ tính thuế của hàng hoá xuất nhập khẩu là số lượng
hàng hoá, giá tính thuế và thuế suất của từng mặt hàng thực tế xuất nhập khẩu
 Tình hình quản lý số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu
Số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng
thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính thuế và
thuế suất của từng mặt hàng ghi trong Biểu thuế tại thời điểm tính thuế.
Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập
khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn
vị hàng hoá tại thời điểm tính thuế.
Việc xác định đúng số lượng, trọng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong quy trình quản lý thu thuế xuất nhập khẩu. Nếu số
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thực tế thấp hơn số lượng khai trên tờ khai thì đối
tượng nộp thuế sẽ phải nộp nhiều hơn so với thực tế, điều này sẽ gây thiệt hại về
kinh tế cho đối tương nộp thuế. Nhưng ngược lại, nếu số lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu nhiều hơn so với số lượng hàng hoá doanh nghiệp kê khai điều này sẽ gây ra
thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Trong thời gian gần đây, hầu hết các sai phạm đều xuất phát từ phía các đối
tượng nộp thuế cố ý kê khai không trung thực, cụ thể là kê khai số lượng, trọng
lượng hàng hoá thấp hơn so với số lượng, trọng lượng hàng hoá thực tế. Mục đích
của các đối tượng này là làm giảm số thuế thực tế phải nộp. Tuy vậy do các cán bộ
Cục Hải quan TP. Hà Nội đã có nhiều chuyên môn, thực hiện các nghiệp vụ cộng

SV: Bùi Hải Trang Lớp: Hải quan 49
25

×