Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nghiên cứu thực trạng vệ sinh trường học và sức khỏe học sinh tại 3 trường phổ thông huyện gia lâm -hà nội năm 2010-2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.76 KB, 59 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO Bộ Y Tế
TRƯờNG ĐạI HọC Y Hà NộI
PHạM HOàNG ANH
NGHIÊN CứU THựC TRạNG Vệ SINH TRƯờNG HọC Và
SứC KHỏE HọC SINH TạI 3 TRƯờNG PHổ THÔNG
HUYệN GIA LÂM - Hà NộI NĂM 2010-2011
KHóA LUậN TốT NGHIệP BáC Sĩ ĐA KHOA

Thy hng dn khoa hc : PGS.TS Chu Vn Thng
Ths Ch Th Chung
Hµ NéI - 2011
2
Lời cảm ơn

Trong quá trình học tập và nghiên cứu,em luôn nhận được sự quan tâm
giúp đỡ nhiệt tình và có hiệu quả của thầy cô giáo, cha mẹ em,em gái em và
các bạn cùng lớp Y6A,các trung tâm .Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:
Cha mẹ em, những người đã sinh thành ,nuôi dưỡng và hướng nghiệp
cho em.
PGS.TS Chu Văn Thăng ,Trưởng bộ môn Sức Khỏe Môi Trường-
trường Đại học Y Hà Nội, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em
thực hiện, hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Ths Chử Thị Chung, cán bộ khoa cộng đồng trung tâm y tế Hà
Nội,người đồng hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện, hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp.
Ban giám hiệu ,phòng đào tạo đại học,thư viện ,các thầy cô giáo các bộ
môn đặc biệt là các thầy cô giáo bộ môn Sức Khỏe Môi Trường của trường
Đại học Y Hà Nội đã dạy dỗ chỉ bảo cho em trong suốt quá trình làm khóa
luận.
Trung tâm y tế Hà Nội khoa cộng đồng cùng với ban giám hiệu,các
thầy cô giáo,các tổ chức y tế học đường và học sinh 3 trường :Đa Tốn, Kim


Sơn, Cao Bá Quát đã tạo điều kiện thuận lợi để em thực hiện khóa luận.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè em : bạn Minh
Hằng,bạn Cẩm Tú, bạn Viên Long cùng các bạn trong lớp Y6A và toàn bộ
các bạn làm khóa luận tốt nghiệp ở khoa với em, đã động viên,khuyến khích,
giúp đỡ em mọi mặt trong quá trình làm khóa luận này

Hà Nội ngày 18 tháng 5 năm 2011
Người làm khóa luận

Phạm Hoàng Anh
4
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Phòng Đào tạo trường Đại học Y Hà Nội
Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp
Bộ môn Sức khỏe môi trường, trường Đại học Y Hà Nội
Tôi là Phạm Hoàng Anh, sinh viên lớp Y
6
A, hệ bác sỹ đa khoa, khóa
2005-2011.
Tôi xin cam đoan rằng nghiên cứu này là của riêng tôi. Những số liệu
trong nghiên cứu là do tôi thu thập tại 3 trường : tiểu học Đa Tốn, trung học
cơ sở Kim Sơn, trung học phổ thông Cao Bá Quát một cách tỷ mỷ, chính xác
và trung thực.
Kết quả thu được trong nghiên cứu chưa được đăng tải trên bất kỳ một tạp
chí hay công trình khoa học nào. Các bài trích dẫn đều là những tài liệu đã
được công nhận.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2011
Phạm Hoàng Anh

6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HS Học sinh
KSK Khám sức khoẻ
NCSK Nâng cao sức khỏe
QH Quận huyện
SK Sức khỏe
TH Tiểu học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
VS Vệ sinh
VSMT Vệ sinh môi trường
VSTH Vệ sinh trường học
WHO Tổ chức Y tế thế giới (Worl Health Organization)
YTTH Y tế trường học
Mục Lục
Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O 1
Bé Y TÕ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 7
Mục Lục 8
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 3
1.1.Vài nét về sức khỏe học sinh trong trường học: 3
1.2.Vài nét về một số bệnh học đường: 7
1.3.Khái niệm về vệ sinh trường học: 11
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1.Địa điểm nghiên cứu: 19
2.2.Đối tượng nghiên cứu 19
2.3.Phương pháp nghiên cứu 19
2.4.Thời gian nghiên cứu 26

2.5.Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 26
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
3.1.Đặc điểm chung về 3 trường học thuộc Huyện Gia Lâm 26
3.2.Thực trạng vệ sinh trường học của 3 trường khối phổ thông tại huyện Gia Lâm Hà
Nội năm học 2010 - 2011. 27
3.3.Thực trạng sức khỏe học sinh của 3 trường khối phổ thông tại huyện Gia Lâm Hà
Nội năm học 2010 - 2011 31
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN 36
4.1.Thực trạng sức khỏe học sinh: 36
4.2.Thực trạng vệ sinh trường học: 38
KẾT LUẬN 40
KIẾN NGHỊ 41
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O 1
Bé Y TÕ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 7
Mục Lục 8
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 3
1.1.Vài nét về sức khỏe học sinh trong trường học: 3
1.2.Vài nét về một số bệnh học đường: 7
1.3.Khái niệm về vệ sinh trường học: 11
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
2.1.Địa điểm nghiên cứu: 19
2.2.Đối tượng nghiên cứu 19
2.3.Phương pháp nghiên cứu 19
2.4.Thời gian nghiên cứu 26
2.5.Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 26
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 26
3.1.Đặc điểm chung về 3 trường học thuộc Huyện Gia Lâm 26

3.2.Thực trạng vệ sinh trường học của 3 trường khối phổ thông tại huyện Gia Lâm Hà
Nội năm học 2010 - 2011. 27
3.3.Thực trạng sức khỏe học sinh của 3 trường khối phổ thông tại huyện Gia Lâm Hà
Nội năm học 2010 - 2011 31
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN 36
4.1.Thực trạng sức khỏe học sinh: 36
4.2.Thực trạng vệ sinh trường học: 38
KẾT LUẬN 40
KIẾN NGHỊ 41
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, lứa tuổi học đường được cả xã hội đặc biệt quan tâm.Vì đây là
độ tuổi các em phát triển về mọi mặt cả về thể chất và trí tuệ.Một câu hỏi mà
bất kỳ bậc cha mẹ nào cũng như toàn xã hội đặt ra là làm sao các em được
học tập,rèn luyện,vui chơi trong môi trường lành mạnh,và an toàn.Cùng với
sự phát triển mọi mặt của đất nước, thì vấn đề đó càng được quan tâm.
Trường học là môi trường để các em phát triển toàn diện về tinh thần,thể
chất,đạo đức.Rất nhiều bệnh ở lứa tuổi học trò như cong vẹo cột sống,cận
thị,bệnh răng miệng.1 số bệnh truyền nhiễm khác như cúm,sởi,quai bị,đau
mắt đều có thể nguyên nhân từ môi trường trường lớp.Để các em hạn chế tối
đa những ảnh hưởng bất lợi từ môi trường này thì vệ sinh trường học cần
được quan tam đúng mức.
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 về việc bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới đã đề cập
đến việc cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường học tập, đảm bảo nguồn lực
cho các hoạt động y tế các trường học, chăm lo sức khoẻ học sinh. Quán triệt
tinh thần chỉ đạo, ngày 12/07/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị
số 23/2006/CT-TTg quy định vai trò cụ thể của từng Bộ, Ban, Ngành trong
công tác y tế trường học [9]. Các Bộ, Ban, Ngành cũng đã có nhiều văn bản
chỉ đạo, quyết định, thông tư liên tịch hướng dẫn và phối hợp thực hiện nhằm
cải thiện VSMT, VSTH nâng cao sức khoẻ trường học[5], [6].

Nhiều tổ chức cũng đã triển khai các chương trình dự án nâng cao sức
khoẻ trường học như Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc, Tổ chức Y tế thế giới,
Ngân hàng thế giới, tổ chức Plan tại Việt nam, Tổ chức mắt hột quốc tế [46].
Công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh trường học có vai trò quan trọng đối
1
với sức khoẻ về thể chất, tinh thần và kết quả học tập của các em:”Trẻ em
hôm nay,thế giới ngày mai”,”Tất cả vì tương lai con em chúng ta”,”Tất cả vì
học sinh thân yêu”
Hiện nay hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta đã có từ thành thị,nông
thôn ,miền núi,cho đến vùng biên giới hải đảo.Chúng ta đã có hơn 20000
trường phổ thông với hơn 14 triệu học sinh,trong đó có hơn 10 triệu học sinh
tiểu học,3,3 triệu học sinh trung học cơ sở và gần 1 triệu học sinh phổ thông
trung học.
Cho tới nay đã có một số nghiên cứu trong nước và ngoài nước nghiên cứu
về vấn đề học đường. Hà Nội là thủ đô,là trung tâm văn hóa chính trị của cả
nước.Cũng đã có các công trình nghiên cứu về SKHS và VSMT ở Hà Nội
nhưng chưa có tính chất hệ thống .Gia Lâm là một huyện ở Hà Nội hiện tại
chưa có 1 nghiên cứu nào về thực trạng vệ sinh trường học và sức khỏe học
sinh khối phổ thông ở nơi đây.Vì vậy em tiến hành nghiên cứu này với mục
tiêu:
- Mô tả thực trạng vệ sinh môi trường tại ba trường PTTH
của huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội năm 2010-2011
- Mô tả thực trạng sức khỏe học sinh tại ba trường PTTH của
huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội năm 2010-2011
Từ đó đề xuất 1 số biện pháp nhằm góp phần giải quyết vấn đề vệ sinh
trường học và nâng cao sức khỏe học sinh cho các trường tại huyện
huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội trong những năm học sau

2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1.Vài nét về sức khỏe học sinh trong trường học:
Các em học sinh trong quá trình học tập của mình đã bị tác động nhiều
yếu tố của gia đình,nhà trường,môi trường thiên nhiên.Những yếu tố đó ảnh
hưởng đến toàn bộ quá trình phát triển về thể lực,tinh thần và cả tri thức của
các em.Để hạn chế tối đa sự gia tăng của các bệnh học đường như là bệnh
cận thị,bệnh cong vẹo cột sống,các bệnh về răng miệng cũng như đảm bảo
sức khỏe cho các em học tập tốt,đồng thời phát hiện các bệnh bẩm sinh,mạn
tính như thấp tim,tim bẩm sinh thì y tế học dường cần được quan tâm,và có
mối liên hệ chặt chẽ với nhà trường và gia đình,xã hội.
.1.1.1. Nghiên cứu thế giới về sức khỏe học sinh:
Cho tới nay nhiều nước trên thế giới đã có những nghiên cứu về sức khoẻ
học sinh, nhưng chủ yếu tập trung các bệnh liên quan đến quá trình học tập
của các em, đó là bệnh biến dạng cột sống và bệnh cận thị trường học.
Morgan K.S, Kenemer J.C. (1997) điều tra 14.075 trẻ em tuổi nhà trẻ và
học sinh từ lớp 1 đến lớp 4 tại 70 trường thuộc 5 bang phía Tây Nam nước
Mỹ đã đưa ra tỷ lệ cận thị là 4,5% [64].
Cong vẹo cột sống đã được phát hiện rất sớm trong lịch sử y học.
Hypocrat là một trong những tác giả đầu tiên mô tả về cong vẹo cột sống, đặt
tên là Scoliosis. Đến thế kỷ 18 - 19, các nhà nghiên cứu đã tìm ra nguyên
nhân, bệnh sinh của bệnh cong vẹo cột sống một cách đầy đủ, rõ ràng hơn.
Đây là thời điểm đánh dấu bước phát triển to lớn trong việc phòng và chữa trị
bệnh trường học [58].
Năm 1982 tại Singapore J. S. Daruwalla và các cộng sự khám sàng lọc
cho 110.744 học sinh ở các nhóm tuổi 6 - 17 tuổi, cho thấy: tỷ lệ cong vẹo cột
sống ở nhóm 6 - 7 tuổi là 0,12%, nhóm 11 - 12 tuổi là 1,7%, nhóm 16 - 17
tuổi là 3,1% [59].
3
Một số công trình nghiên cứu cho thấy SK của HS có sự khác biệt giữa
các vùng miền. Tại các nước đang phát triển, HS chủ yếu mắc các bệnh nhiễm
trùng cấp tính. Các nghiên cứu này chưa được thực hiện tại trường học mà

chủ yếu thực hiện ở các cơ sở y tế. Kết quả nghiên cứu của Skai và cộng sự
tại bệnh viện Băng Cốc Thái Lan cho thấy: 45% HS đến khám bệnh là do mắc
các bệnh về đường hô hấp, 8,5% là do các bệnh nhiễm trùng khác [65].
.1.1.2.Các nghiên cứu ở Việt Nam về sức khỏe học sinh:
Cho tới nay tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về tình hình sức khoẻ HS
nhưng chủ yếu là các bệnh học đường ở học sinh (cong vẹo cột sống, cận thị),
tai nạn thương tích ở học sinh như nghiên cứu của Trần Văn Dần [13], [14],
[15], [16], [17], Nông Thanh Sơn [36], Hoàng Văn Tiến [44], nghiên cứu mối
liên quan giữa môi trường sống và SK của HS như Nguyễn Võ Kỳ Anh [1].
Theo điều tra của Phạm Văn Hán trên 504 học sinh gồm 4 lớp cấp II tại
Thị Trấn Minh Đức - Thuỷ Nguyên - Hải Phòng năm 1998 cho thấy: Tỷ lệ
cong vẹo cột sống từ 18,6% - 27,9% [24].
Kết quả nghiên cứu của Phạm Ngọc Khái và cộng sự năm 1998 về tình
hình sức khoẻ bệnh tật của 11.935 học sinh 6 - 15 tuổi ở các trường THCS,
tiểu học, Mẫu giáo vùng nông thôn Thái Bình cho thấy: trẻ mắc bệnh răng,
hàm mặt là 39,8% [27].
Hồng Xuân Trường nghiên cứu một số yếu tố môi trường liên quan đến
SK bệnh tật ở HS Khermer tỉnh Kiên Giang 2001 cho thấy: Bệnh tật của học
sinh Khmer: bệnh hô hấp 52,0%, mắt hột 30,2%, bệnh ngoài da 52,5%, bệnh
răng lợi 73,3% (học sinh Khmer), và 82,5% (học sinh Kinh) [47].
Vũ Thị Liên nghiên cứu năm 2001 ở học sinh phổ thông Thái Nguyên
cho thấy: Tỷ lệ cong vẹo cột sống của học sinh là 10,4%, ở học sinh THCS
13,0% cao hơn học sinh TH (10,9%), học sinh THPT (7,2%) [28].
4
Nghiên cứu của Đặng Đức Nhu ở học sinh quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
năm học 2000 - 2001 cho thấy: Tỷ lệ cận thị và cong vẹo cột sống tương ứng
là 29,9% và 28,6%. Tỷ lệ cận thị và gù cột sống tăng dần theo cấp học [34].
Đặng Anh Ngọc nghiên cứu tật cận thị ở 2.508 HS tiểu học, THCS Hải
Phòng cho thấy: Tỷ lệ cận thị tăng tỷ lệ thuận theo khối, ở nội thành cao hơn
ngoại thành [32].

Hoàng Văn Tiến, Đào Thị Mùi, Trần Văn Dần (2004 - 2007) nghiên cứu
tình hình bệnh chương trình học đường và cong vẹo cột sống ở HS Hà Nội
chủ yếu đề cập đến hai bệnh học đường và các yếu tố liên quan [45].
Nguyễn Quang Tân nghiên cứu về tình hình cong vẹo cột sống và một số
yếu tố ảnh hưởng ở HS phổ thông nội thành Hà Nội năm 2005 cho thấy: Tỷ lệ
HS phổ thông khu vực nội thành bị cong vẹo cột sống là 16,3%, tỷ lệ này tăng
lên theo cấp học: tiểu học là 13,1%, THCS: 19,9%, THPT: 18,7% [40].
Nghiên cứu của Đào Thị Mùi về cong vẹo cột sống ở 2.771 học sinh tại
12 trường phổ thông Hà Nội năm học 2004 - 2005 cho thấy: tỷ lệ cong vẹo
cột sống ở học sinh phổ thông tại Hà Nội là 18,9%, ở nam là 49,9%, ở nữ là
50,1%. Tỷ lệ này phân bố không tăng dần theo cấp học: khối 9 là 22,2%, khối
12 là 18,8%, khối 5 là 17,6%, khối 1 là 17,0% [30].
Kết quả nghiên cứu của Chu Văn Thăng và cộng sự tại tỉnh Phú Thọ,
Quảng Bình và Đồng Nai năm 2008 - 2009 cho thấy: trong 2 tuần qua HS chủ
yếu mắc các bệnh cấp tính như sổ mũi (57%), ho (54%), sốt (30%), đau họng,
mũi, tai (30%). Tỷ lệ HS khai báo mắc cận thị là 19%, cong vẹo cột sống là
4%. Tỷ lệ HS khai báo bị cận thị ở thành thị là 27%, vùng đồng bằng 20%,
miền núi 12%. Tỷ lệ cong vẹo cột sống không có sự khác biệt giữa 3 vùng [41].
Nghiên cứu của Phạm Hồng Hải về thực trạng vệ sinh lớp học và một số
bệnh thường gặp của học sinh Thành phố Thái Nguyên năm 2003 cho thấy:
5
Tỷ lệ học sinh bị bệnh sâu răng là 38,3%, trong đó tiểu học 59,2%, THCS
20,0%; tỷ lệ HS bị cận thị là 10,0%, trong đó HS tiểu học 9,3%, THCS
10,7%, bệnh có xu hướng tăng dần theo cấp học, tỷ lệ HS bị tai mũi họng là
9,2%, trong đó tiểu học 13,9%, THCS 5,1%, tỷ lệ học sinh bị cong vẹo cột
sống có cấu trúc 4,8%, cong vẹo cột sống không cấu trúc là 17,6%, bệnh có
xu hướng tăng dần theo cấp học, tỷ lệ học sinh bị bệnh nội tiết là 3,6%, bệnh
nội khoa là 1,2%, bệnh thần kinh 0,3%. Phân loại SK theo mức độ A, B, C:
Tỷ lệ học sinh có sức khoẻ loại A là 39,7%, loại B là 60,1%, loại C là 0,2%.
Phân loại theo mức độ I, II, III: Tỷ lệ học sinh có SK loại I là 99,9%, loại II:

0%, loại III: 0,1% [23].
Nghiên cứu của Trần Thị Kim Oanh về thực trạng hoạt động y tế trường
học và tình hình sức khoẻ HS phổ thông quận Thanh Xuân - Hà Nội trong 5
năm (2004 - 2008) cho thấy: Học sinh đạt sức khoẻ tốt và rất tốt tương đối
cao và ổn định trong 5 năm học (khoảng 96%). Các bệnh HS hay mắc nhất
trong 4 tuần qua là: ho (53,6%), sổ mũi (52,9%), đau họng, mũi, tai (20,4%),
cận thị (20,3%). Tỷ lệ học sinh THCS mắc cận thị có xu hướng tăng dần
(5,3% vào năm học 2004 - 2005 đến 28,7% vào năm học 2007 - 2008). Tỷ lệ
này ở học sinh tiểu học cao vào năm học 2004 - 2005 (13,8%), nhưng có xu
hướng giảm và ổn định trong các năm học sau [35].
Bên cạnh các nghiên cứu về việc đánh giá tình trạng sức khoẻ HS trong
trường học, một số nghiên cứu cũng đưa ra hình thức đánh giá sức khoẻ HS
thông qua việc KSK định kỳ hàng năm như nghiên cứu của Lê Thị Thanh
Hương [30], Đặng Thị Nhài [33].
Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội về điều tra thực trạng một số bệnh của
học sinh phổ thông và hoạt động y tế học đường tại Hà Nội năm 2009 cho
thấy: trong số 16.024 học sinh các trường phổ thông tại Hà Nội được khám,
có 5.087 HS mắc bệnh về tai mũi họng (chiếm 31,7%), 1.327 HS mắc các
6
bệnh nội khoa (chiếm 8,6%), 1.415 học sinh mắc các bệnh ngoại khoa (chiếm
8,8%), 1.335 HS mắc bệnh về da liễu (chiếm 8,3%. Tỷ lệ HS mắc bệnh về mắt
32,9%, trong đó 30,2% bị cận thị (chiếm 91,8% các bệnh về mắt) và có xu
hướng tăng dần theo bậc học (cấp 1: 20,4%, cấp 2: 29,6%, cấp 3: 36,9%). Tỷ
lệ HS mắc bệnh về răng miệng chiếm 41,2%, tỷ lệ HS bị sâu răng là 10,8%
(chiếm 26,2% các bệnh về răng miệng) [38].
1.2.Vài nét về một số bệnh học đường:
1.2.1.Cong vẹo cột sống:
− Giải phẫu và sinh lý cột sống:Cột sống là cột trụ vững chắc của thân
người,là chỗ dựa vững chắc c các hê thống cơ quan phát triển,bảo vệ tủy
sống.Nhờ đó cơ thể người có thể vận động một cách linh hoạt để đáp ứng các

nhu cầu hoạt động của cuộc sống cá nhân.Cột sống chạy dài từ mặt trước
xương chẩm đến hết xương cụt gồm 32-34 đốt sống khớp vào nhau.
− Biến dạng cột sống là hiện tượng cột sống có hình dạng khác với bình
thường.Bình thường nhìn phía sau lưng cột sống thẳng như dây dọi.nếu lệch
sang bên là vẹo cột sống.nhìn nghiêng cột sống có những đoạn cong sinh
lý,nếu những đoạn này cong quá mức bình thường gọi là cong cột sống.
− Ngoài những nguyên nhân mắc phải như:còi xương, di chứng bại
liệt,bệnh cơ thần kinh,chấn thương cột sống thì nguyên nhân chr yếu là do tư
thế xấu trong học tập,ngồi học không đúng tư thế (ngồi chen chúc,ngồi những
bàn ghế không đúng quy định ,ngồi ngực tỳ vào bàn ),đứng học nằm học,do
thiếu ánh sáng ở nơi ngồi học làm học sinh phải ngồi veo một bên để hoc ở
chỗ sáng .Tất cả nguyên nhân trên nếu không được phát hiện và uốn nắn kịp
thời sẽ ảnh hưởng xấu đến các em về phát triển cơ thể đặc biệt là cột sống
− Hình dạng và mức độ cong vẹo cột sống:
Cong vẹo cột sống thường gặp một số hình dạng như hình chữ C thuận
7
hoặc chữ C ngược,hình chữ S thuận,Chữ S ngược,gù, ưỡn
Cong vẹo cột sống được chia làm 4 mức độ
+ Mức độ I:Cột sống thẳng,độ lệch cột sống bằng o
+ Mức độ II:Cong vẹo cột sống sinh lý,độ lệch từ 0,1 đến 2,9 độ Scoliosis
+ Mức độ III:nguy cơ cong vẹo cột sống,độ lệch từ 3 đến 4,9 độ Scoliosis
+ Mức độ IV:Cong vẹo cột sống thực sự,độ lệch ≥5 độ Scoliosis
1.2.2.Bệnh,tật ở mắt:
Mắt là cửa sổ tâm hồn.Các bệnh,tật ở mắt rất nhiều.Nhưng ở đây chúng
ta chỉ xét các bệnh,tật ở mắt có liên quan đến các yếu tố ở trường học,điển
hình là cận thị.Cận thị là một tật khúc xạ của mắt khiến mắt chỉ nhìn rõ các
vật ở gần,không thấy các vật ở xa do độ hội tụ của mắt tăng quá mức bình
thường[15].Cận thị có thể do bẩm sinh là sai lạc của quá trình phát triển phôi
thai[37],do sự bất thường của các thành phần cấu tạo khúc xạ nhãn cầu ,do di
truyền chiếm khoảng 30% trong tổng số bệnh cận thị[40].Ngoài ra còn

nguyên nhân mắc phải gặp ở lứa tuổi học đường.Các yếu tố nguy cơ gây ra
:hệ thống chiếu sáng không đầy đủ,bàn ghế không đạt tiêu chuản vệ sinh,học
tập không khoa học như học lúc sáng sớm,tư thế ngồi học không đúng,chế độ
học tập quá căng thẳng.Gần đây,do trò chơi điện tử,xem băng đĩa hoạt
hình,đọc truyện tranh kém chất lượng,sử dụng vi tính quá nhiều.Các trò giải
trí này đã chiếm quá nhiều thời gian của các em khiến mắt điều tiết liên tục
không thư giãn lâu dần dẫn đến cận thị
Mắt kém sẽ ảnh hưởng đến học tập, lao động, rèn luyện đến tương lai
của các em về chọn ngành nghề và vẻ đẹp thẩm mỹ của con người.
Có 2 loại cận thị là cận thị bệnh lý và cận thị đơn thuần.
Ngoài cận thị ra thì bệnh ở mắt vẫn còn các bệnh khác cần được chú ý là
bệnh mắt hột,bệnh viêm kết mạc,và một số bệnh khác.
8
1.2.3.Bệnh răng miệng:
Bện răng miệng rất phức tạp và có nhiều loại bệnh,trong đó có sâu răng
và viêm quanh răng là 2 bệnh phổ biến nhất trong các bệnh răng miệng .Tổ
chức WHO đã xếp sâu răng là tai họa thứ 3 của loài người sau tim mạch và
ung thư [25]Chi phí chữa bệnh và phục hồi ăn nhai ở 1 số nước rất lớn vì vậy
nhiều nước đã quan tâm đến vấn đề này.
Bệnh sâu răng là một bệnh phổ biến và tồn tại từ rất lâu.Theo WHO,sâu
răng là sự phá hủy tổ chức cứng của răng như men răng,ngà răng [52].Tổn
thương răng là kết quả của sự phá hủy khoáng chất do axit được tạo bởi sự lên
men của thức ăn ,bột đương .Sau khi ăn uống thành lỗ sâu.Qua lỗ sâu vi khuẩn
thâm nhập vào tủy răng gây viêm tủy răng và viêm quanh cuống răng [27].
Đã có nhiều giả thuyết về nguyên nhân sâu răng như :
Sơ đồ Key thể hiện tác động của 3 yếu tố:thức ăn,vi khuẩn và chất
lượng răng thiếu 1 trong 3 yếu tố không thể gây sâu răng.
C
Chất lượng răng
Thức ăn

Vi khuẩn
9
Sơ đồ White
Sâu răng=sự hủy khoáng >tái khoáng
Bên cạnh bệnh sâu răng thì viêm lợi và viêm quanh răng cũng là những
bệnh hay gặp.Nguyên nhân chủ yếu là do kích thích của vi khuẩn từ mảng
bám răng.
1.2.4.Bệnh Tai Mũi Họng:
Đường chảy PH quanh răng
Nước bọt
C
Chất lượng răng
Thức ăn
Vi khuẩn
10
Nhóm bệnh về Tai –Mũi –Họng rất đa dạng ,phức tạp gây nhiều biến
chứng nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.Mũi và Họng
là cửa ngõ hệ hô hấp ,nhóm bệnh về Tai-Mũi-Họng có liên quan mật thiết với
nhau,trong đó hay gặp là viêm họng(cấp tính,mãn tính)viêm mũi,viêm tai
giữa,viêm xoang.Nhiều tác giả trên thế giới và trong nước đã quan tâm nghiên
cứu đến nhóm bệnh này đặc biệt ở lứa tuổi học sinh.
1.3.Khái niệm về vệ sinh trường học:
1.3.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vệ sinh trường học:
-Trên thế giới:
Tuổi học đường là lứa tuổi cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của mỗi
cá nhân.Học sinh trong lứa tuổi đi học phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12 đều đến
trường.Dụng cụ học tập,môi trường học tập là những thứ mà các em tiếp xúc
nhiều nhất.Các bệnh học đường phần lớn đều hình thành trong quá trình các em
học tập.Chính vì thực tế đó mà vệ sinh trường học ra đời.Một môn khoa học
gắn liền với trường học.Vệ sinh học đường là một hệ thống các các phương

pháp,biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe củ học sinh.
Vệ sinh học đường đã ra đời và phát triển từ rất lâu.Việc chú trọng đến
vấn đề ánh sáng, yên tĩnh,diện tích lớp học trong quá trình xây dựng trường
lớp đã có từ thế kỷ thứ XIII.Và đã có những cuốn sách giáo khoa về vệ sinh
học đường,các yêu cầu kiểm tra về y tế học đường.Từ năm 1864 đến năm
1866, Giáo sư y học nhãn khoa Breslauer và Hermann Cohn đã nghiên cứu sự
tăng nhanh của bệnh cận thị trường học và đặt ra các yêu cầu về chiếu sáng
lớp học. Năm 1882, S.S. Erismann đã nói: “ Vệ sinh là khoa học về sức khỏe
cộng đồng”,“ Y học dự phòng là khoa học của y học”[24] Tuy lúc đó các
công trình nghiên cứu về vấn đề vệ sinh trường học còn quá ít nhưng nó đã
đặt cơ sở cho các nghiên cứu sau này. Hệ thống y tế học đường bắt đầu phát
triển vào thế kỉ XIX, các bác sĩ, y tá học đường đã hoạt động giới hạn trong các
biện pháp dự phòng nhằm chống lại các bệnh dịch trong trường học nhưng
11
bệnh học đường vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Việc cộng tác chặt chẽ
của các cơ sở phòng bệnh và các bác sĩ học đường đã đánh dấu một bước tiến
mạnh mẽ và các vấn đề sức khỏe của học sinh bắt đầu được quan tâm vào đầu
thế kỉ XX. Và khi có sự tham gia của toán học thống kê thì hàng loạt các công
trình nghiên cứu đã được tiến hành và công bố như công trình của Gaspar vào
năm 1937 nghiên cứu về sự phát triển thể lực của học sinh thành phố Stugate
trong 10 năm và ông nhận thấy sức khỏe của học sinh bị ảnh hưởng rõ rệt qua
đời sống xã hội và chiến tranh ví dụ: cân nặng, chiều cao.
-Ở Việt Nam:
Từ trước năm 1960, chúng ta chưa có một công trình nghiên cứu nào về
vệ sinh trường học. Và từ đầu thập kỉ 60 đã có văn bản quy chế tạm thời về
ánh sáng, tới năm 1977 đã có điều luật về giữ vệ sinh do Chủ tịch hội đồng bộ
trưởng Phạm Văn Đồng ký. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, một
cuộc điều tra lớn về tình hình thể lực và bệnh tật của học sinh tại 13 tỉnh,
thành phố phía Bắc. Nhà nước ta đã có những chỉ thị, văn bản về việc giữ gìn
nâng cao sức khỏe cho học sinh với sự phối hợp của các bộ ngành thực hiện.

Qua đó ta có thể thấy rõ rằng Đảng và Nhà nước đã thấy được tầm quan trọng
của công tác vệ sinh trưởng học. Môi trường nhà trường là yếu tố tác động
trực tiếp đến sức khỏe,kết quả học tập của các em kèm với việc giáo dục về vệ
sinh tự rèn luyện và bảo vệ sức khỏe cho bản thân. Vệ sinh trường học bao
gồm vệ sinh môi trường và vệ sinh lớp học.
Vệ sinh lớp học nghiên cứu về sự phù hợp về sinh lý người và công cụ
học tập như bàn ghế, bảng viết. Trong xây dựng trường học nên chú ý giải
quyết chống nóng, chống rét. Tận dụng tối đa gió, ánh sáng tự nhiên, hệ thống
chiếu đèn đảm bảo không chói lóa, sấp bóng. Có những tiêu chuẩn vệ sinh về
độ cao của bảng, khoảng cách giữa bảng và học sinh.
12
VSMT là một trong các nội dung YTTH, chủ yếu giải quyết tốt phân, rác
thải, nước thải, khí thải trong trường, quan tâm trồng cây xanh, hoa, thảm cỏ
đảm bảo uống nước tinh khiết, vô trùng, dùng bếp đun không khói, lọc nước
để làm trong nước, đủ sọt rác có nắp đậy, đủ sân chơi bãi tập sạch thoáng mát,
ít bụi và an toàn, thải tốt nước mưa và nước sinh hoạt hàng ngày, không để ứ
đọng [16].
1.3.2.Yêu cầu về vệ sinh lớp học trong trường học
Theo Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT ngày 18/4/2000 của Bộ trưởng
Bộ Y tế quy định về vệ sinh trường học:
− Diện tích phòng học cho một học sinh:
Trung bình từ 1,10m
2
đến 1,25m
2
cho một học sinh.
− Kích thước phòng học
Chiều dài không quá 8,5m, chiều rộng không quá 6,5m, chiều cao 3,6m.
− Điều kiện chiếu sáng phòng học
Chỉ số chiếu sáng phòng học: 1/4 -1/5.

Chỉ số chiếu sáng phòng học là tổng diện tích các cửa sổ có nguồn sáng
tự nhiên lọt qua chia cho tổng số diện tích phòng học, không kể diện tích cửa
ra vào và trừ bớt phần trăm diện tích cửa sổ nếu có (trừ 10% diện tích cửa sổ
nếu chấn song sắt, 15% nếu chấn song gỗ) [55].
Phòng học cần đảm bảo độ chiếu sáng đồng đều không dưới 100 lux.
Riêng phòng học có học sinh khiếm thị thì độ chiếu sáng không dưới 300 lux.
+ Chiếu sáng tự nhiên:
Phòng học phải được chiếu sáng tự nhiên đầy đủ.
Hướng để lấy ánh sáng tự nhiên chủ yếu là hướng Nam (cửa sổ ở phía
không có hành lang) về phía tay trái của học sinh khi ngồi viết.
13
Tổng số diện tích các cửa được chiếu sáng không dưới 1/5 diện tích
phòng học. Cửa sổ phải có cửa chớp, cửa kính để che nắng và cản mưa, gió
lạnh thổi vào.
+ Chiếu sáng nhân tạo: Để hỗ trợ khi phòng học thiếu ánh sáng tự nhiên
cần chiếu sáng nhân tạo. Số lượng bóng đèn chiếu sáng như sau:
Nếu là bóng đèn tóc thì cần 4 bóng, mỗi bóng có công suất từ 150W đến
200W treo đều ở 4 góc.
Nếu là bóng đèn neon thì treo 6 - 8 bóng, mỗi bóng dài 1,2m. Các bóng
đèn treo ở độ cao cách mặt bàn học 2,8m.
Trần của phòng học quét vôi trắng, tường quét vôi mầu vàng nhạt.
- Điều kiện về bàn ghế học sinh
+ Bàn ghế phải đủ rộng, chắc chắn, các góc cạnh bàn phải tròn, nhẵn
đảm bảo an toàn.
+ Tổ hợp bàn ghế của học sinh liên quan chặt chẽ đến tư thế ngồi học,
trường thị giác trên bảng và cảm giác thoải mái khi ngồi nghe giảng, nhìn
bảng và viết bài, đến sự tập trung tư duy, tiếp thu tri thức. Kích thước của tổ
hợp này cần chú ý đặc biệt đến chiều cao, chiều dài, chiều sâu của bàn ghế.
+ Kích thước (chiều cao, bề rộng, chiều sâu) của bàn và ghế phải tương
ứng với nhau đồng thời phải phù hợp với tầm vóc của học sinh.

Các chỉ số (cm) Cỡ bàn và ghế
I II III IV V VI
Chiều cao bàn 46 50 55 61 69 74
Chiều cao ghế 27 30 33 38 44 46
Hiệu số chiều cao
giữa bàn và ghế
19 20 22 23 25 28
14
Hiệu số chiều cao giữa bàn và ghế được đo bằng hiệu số giữa chiều cao
của bàn tính từ mặt đất đến mép sau của bàn trừ chiều cao ghế tính từ mặt đất
đến mép trước của ghế.
Loại I giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,00m đến 1,09m.
Loại II giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,10m đến 1,19m.
Loại III giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,20m đến 1,29m.
Loại IV giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,30m đến 1,39m.
Loại V giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,40m đến 1,54m.
Loại VI giành cho học sinh có chiều cao cơ thể từ 1,55m trở lên.
Bàn học thích hợp nhất là loại bàn 2 chỗ ngồi, mỗi chỗ ngồi rộng không
dưới 0,5m. Ghế học phải rời với bàn và có thành tựa.
Cách kê bàn ghế trong phòng học: Bàn đầu đặt cách bảng từ 1,7m đến
2m. Bàn cuối cùng cách bảng không quá 8m.
- Điều kiện về bảng học
+ Bảng cần được chống loá.
+ Kích thước: Chiều dài từ 1,8m đến 2,0m. Chiều rộng từ 1,2m đến 1,5m
+ Mầu sắc bảng: Màu xanh lá cây hoặc mầu đen (nếu viết bằng phấn), mầu
trắng nếu viết bằng bút dạ bảng đen.
+ Cách treo bảng: Treo ở giữa tường, mép dưới bảng cách nền phòng
học từ 0,8m đến 1m.
+ Chữ viết trên bảng có chiều cao không nhỏ hơn 4cm.
1.3.3.Yêu cầu về vệ sinh môi trường trong trường học

Theo Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT ngày 18/4/2000 của Bộ trưởng
Bộ Y tế quy định về vệ sinh môi trường trong trường học như sau:
15
- Diện tích khu trường trên một học sinh
Trường phải đủ rộng để làm chỗ học, sân chơi, bãi tập và trồng cây xanh.
Ở các vùng nông thôn, miền núi diện tích trung bình không dưới 10m
2
cho một học sinh. Ở các thành phố, thị xã trung bình không dưới 6m
2
cho một
học sinh. Trong đó:
Diện tích để xây dựng các loại công trình chiếm từ 20% đến 30%.
Diện tích để trồng cây xanh từ 20% đến 40%.
Diện tích để làm sân chơi, bãi tập … từ 40% đến 50%.
Sân trường phải bằng phẳng, rộng rãi, có rãnh thoát nước tốt, không bị
lầy lội, ứ đọng nước khi trời mưa. Sân được lát bằng gạch, láng xi măng hoặc
bằng đất nện chặt.
- Đối với hệ thống cung cấp nước
Nước là một thành phần không thể thiếu đối với đời sống và nhu cầu
sinh lý con người. Vì vậy nước phải đảm bảo hai yêu cầu: Đủ và sạch.
Nước sạch ở trong trường học dùng để uống (khi đun sôi) và để rửa, vệ
sinh sau khi ra chơi hoặc sau buổi lao động, tập thể dục.
+ Cung cấp nước sạch để tắm rửa:
Có thể sử dụng nước máy hoặc nước giếng. Nếu dùng nước máy thì mỗi
vòi cho 200 học sinh trong 1 ca học. Nếu dùng nước giếng thì từ 4 đến 6 lít
cho 1 học sinh trong 1 ca học.
+ Cung cấp nước uống:
Có đủ nước sạch đã được đun sôi hoặc nước lọc để cho học sinh uống
trong thời gian học tại trường.
Về mùa hè: đảm bảo bình quân mỗi học sinh mỗi ca học có 0,3 lít.

16

×