Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

skkn Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.11 KB, 8 trang )

A/ Đặt vấn đề:
I/ Đặc trưng môn văn
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội. Đây là một môn
học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của
mỗi con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo
dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là một
môn học thuộc nhóm công cụ,môn văn còn thể hiển rõ mối quan hệvới rất
nhiều các môn học khác trong nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác
động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng
góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực
hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức
phong phú, sinh động của cuộc sống.
II/ Thực trạng học văn hiện nay:
Lê-nin nói: “ Văn học là nhân học”vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là
học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này đã được báo
động. Ban đầu chỉ là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp
giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã
trực tiếp dạy và chấm bài văn của học sinh trong những năm gần đây mới
thấy cần thiết phải thay đổi phương pháp dạy và học văn hiện nay. Qua công
tác giảng dạy cũng như chấm trả bài kiểm tra ngữ văn, chúng ta nhận thấy có
rất nhiều biểu hiện tâm lí chán học văn của học sinh, cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lí thờ ơ với việc
học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buòn nhất cho các giáo viên dạy
vănlà nhiều HS có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia với đội tuyển
văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác, mà phần lớn là các
môn: Toán, Lí, Hoá…
- Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản, GV có thể nhận ra
những lỗi sai cơ bản của HS như: dùng từ, viết câu, viết chính tả sai, bố cục,
lời văn lủng củng, thiếu logic…Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến
thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.


III/ Nguyên nhân của thực trạng trên:
- Đối với người dạy: Đa số GV có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tuỵ với công
tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến HS. Tuy nhiên vẫn còn mặt hạn chế
sau:
+ Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp với một bộ phận không nhỏ HS yếu
kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
+ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp
trực quan đưa vào tiết học còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của
HS.
+ Một só GV chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch
nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học
- Đối với HS: Một số HS còn lười học, mải chơi,ngại viết bài, dung lượng từ
ngữ trong một bài nhiều nên ngại học, phần lớn các em không chuẩn bị tâm
thế tốt cho giờ học văn.
B/ NỘI DUNG:
I/ Bản đồ tư duy( BĐTD) và tư duy bằng bản đồ:
1/ Bản đồ tư duy:
- Bản đồ tư duy(BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy…là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý
chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề…bằng cách kết hợp việc
sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết.
-Theo các nhà nghiên cứu thì bộ não con người sẽ hiểu sâu nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, vẽ theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy
việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não. Việc HS lập BĐTD còn giúp cho các em phát triển
khả năng thẩm mĩ, do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét,
các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng một cách khoa học, súc tích, hợp
lí trực quan, dễ hiểu, dễ đọc, dễ tiếp thu.
- Dạy học bằng BĐTD cũng có tác dụng thiết thực vì vẽ BĐTD bằng những
vật liệu dễ kiếm, rất kinh tế và cách làm đơn giản, BĐTD có thể vận dụng

với bất kì điều kiện nào của nhà trường hiện nay.
2/ Tư duy bằng bản đồ:
- Tư duy bằng bản đồ là dùng hình ảnh, đường nét, màu sắc, ngôn ngữ ghi
lại nhận thức của mình về sự vật, sự việc, hành động…định hướng phát triển
của sự vật, sự việc, hành động đó theo cách nhìn nhận của mỗi cá nhân.
3/ Bản chất phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy:
- BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học
chuyển tải thông tin vào não bộ rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách
đễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng,
đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu
rộng.
- Dạy học bằng BĐTD - một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
II/ Bản đồ tư duy đối với hoạt động giảng dạy ngữ văn
Những câu hỏi cần đặt ra là:
- BĐTD có phải là công cụ ghi chép vạn năng với mọi bài học?
- BĐTD có thể vận dụng trong mọi trường hợp, mọi công đoạn của
quá trình nhận thức?
- Giáo viên có thể soạn bài dưới hình thức BĐTD?
- Học sinh có thể ghi bài theo BĐTD?
- Trong dạy học Ngữ văn, BĐTD dùng vào các trường hợp nào sẽ
phát huy hiệu quả?
II/ Bản đồ tư duy đối với hoạt động dạy và học ngữ văn
1/ Giáo viên sử dụng BĐTD như một công cụ để hỗ trợ quá trình dạy
học:
a/ Vận dung BĐTD vào việc hỗ trợ kiểm tra bài học cũ của học sinh.:
- GV đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài rồi yêu cầu HS vẽ BĐTD
bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các từ liên quan
đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD.
Ví dụ :
Kiểm tra kiến thưc cũ về bài “ So sánh”(Ngữ văn 6), đầu giờ GV cho từ

khoá “ So sánh” rồi yêu cầu HS vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho
các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ
(Nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em
lên trình bày trước lớp để các HS khác bổ sung ý. GV kết luận qua đó giúp
các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên rất hiệu quả,
đồng thời kích thích hứng thú học tập của HS.
- GV cũng có thể vận dụng BĐTD như một công cụ để kiểm tra kiến thức cũ
bằng cách đưa ra một bản đồ tư duy rồi nêu yêu cầu để HS thuyết trình
Ví dụ: Muốn kiểm tra kiến thức về tác giả, tác phẩm bài Nước Đại Việt ta
( Ngữ Văn8), GV đưa ra BĐTD rồi yêu cầu HS bổ sung nội dung vào các
nhánh,sau đó các em nhìn BĐTD thuyêt trình
BĐTD giới thiệu tác giả, tác phẩm bài Nước Đại Việt ta
b/ Vận dụng BĐTD vào việc hỗ trợ dạy học kiến thức mới:
Đây la cách làm khó nhất trong việc vận dụng BĐTD vào việc dạy kiến thức
mới. BĐTD ở đây là công cụ ghi chép một cách khoa học để HS nhìn vào
BĐTD để đọc được và khắc sâu kiến thức đã học thành vốn riêng của mình.
Dùng BĐTD giáo viên chỉ là người hướng dẫn gợi ý để HS chủ động tiếp
thu kiến thức, tránh được cách dạy truyền thống là GV giảng, HS nghe, ghi
chép một chiều. Như vậy tính tích cực và chủ động của HS sẽ sinh động
hơn, giúp các em thích học môn văn hơn.
Ví dụ :
Với văn bản “ Thầy bói xem voi”(Ngữ văn 6) sau phần đọc và tìm hiểu chú
thích, GV có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở
mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài
học.
- Để có thể hoàn thiện mô hình BĐTD của bài học GV sử dụng hệ thống câu
hỏi định hướng để khai thác kiến thức (như: Dựa vào văn bản em hãy xác
định các ý chính?HS dễ dàng xác định được các ý chính: hoàn cảnh các thầy
bói xem voi, cách xem voi, các thầy phán về voi, kết quả, bài học rút ra).
- Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có

tính gợi mở như: các thầy xem trong hoàn cảnh nào? Cách xem của các thầy
ra sao?
Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6-
- Dùng BĐTD để sơ đồ hoá kiến thức của một phần bài học
c. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi chương, phần…:
- Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến
thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài
học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm
này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh
chóng, dễ dàng.
- Dùng BĐTD để sơ đồ hoá kiến thức của một phần bài học
- Sử dụng BĐTD rất hiệu quả và tiết kiệm được thời gian khi dạy bài ôn
tập hoặc tổng kết chương phần
2/ Học sinh sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy logic,
học tập độc lập
- HS có thể tự sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà như: tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy,
bìa…hoặc để tư duy một vấn đề mới, qua đó phát triển khả năng tư duy
logic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
- Học sinh có thể làm việc trực tiếp với máy tính, sử dụng phần mềm
ImindMap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy
tính trong học tập.
III/ Những ưu điểm và hạn chế khi ứng dụng sử dụng BĐTD trong đổi
mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn:
1/ Ưu điểm của BĐTD
- Dễ nhìn, dễ viết.
- Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của HS
- Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
- Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách

logic.
+ Tiết kiệm thời gian, công sức.
+ Cung cấp bức tranh tổng thể.
+ Sử dụng rộng rãi , hiệu quả và dễ dàng ở nhiều lĩnh vực
=> BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Bản đồ tư duy là một
công cụ giúp học tập hiệu quả thông qua việc vận dụng cả não phải và não
trái giúp người học tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu bài kĩ hơn, nhớ được nhiều
chi tiết hơn.
2/ Những hạn chế của BĐTD:
- Không nên quá cực đoan cho rằng BĐTD có thể giúp người học tất cả.
Trên cơ sở những kiến thức được hệ thống hoá, sơ đồ hoá, người học còn
phải biết thực hành ngôn ngữ bằng việc đọc, nói và viết.
- Đừng ngộ nhận sử dụng Bản đồ tư duy là đổi mới phương pháp dạy học.
Cũng như CNTT, Bản đồ tư duy chỉ là phương tiện trong quá trình dạy học.
- Không phải bài nào, chương nào cũng sử dụng bản đồ tư duy cho hiệu
quả cao. Cần sử dụng Bản đồ tư duy cho hợp lí và phù hợp với nội dung và
hình thức bài học. Bản đồ tư duy nếu bị lạm dụng sẽ làm hạn chế kĩ năng
viết bài luận của học sinh.
- Đối với văn bản nghị luận, việc sử dụng BĐTD hỗ trợ đọc hiểu các văn
bản sẽ là thuận lợi. Nhưng với văn bản nghệ thuật, muốn dùng BĐTD để
biểu hiện một văn bản, người học phải tìm ra mạch của văn đó (xét đơn
thuần về mặt ý).
- BĐTD không tái hiện được cảm xúc, không chuyển tải hết sự tinh tuý
trong cách dùng từ, đặt câu, trong nghệ thuật cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, sử
dụng BĐTD trong dạy học là cần thiết, nhưng phải tránh được sự suy diễn
khô khan đẫn đến xã hội hoá dung tục tác phẩm.
IV/ Cách thức tạo lập một bản đồ tư duy:
1/ Phương tiện thiết kế BĐTD
Phương tiện để thiết kế BĐTD khá đơn giản, chỉ cần giấy, bìa, bảng phụ,
phấn màu, bút chì màu, tẩy,…hoặc dùng phần mềm Mindmap, vì vậy có thể

vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện
nay. Điều quan trọng là GV hướng cho HS có thói quen lập BĐTD trước
hoặc sau khi học một bài hay một chủ đề, một chương, để giúp các em có
cách sắp xếp kiến thức một cách khoa học, lôgic.
2/ Phương thức tạo lập
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có
thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng
của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề
không rõ ràng.
+ Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu , câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng
sâu sắc về chủ đề.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi
bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được
vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và
hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và
thời gian.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng
đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong

được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúngvào trí nhớ tốt hơn.
3/ Điều cần tránh khi ghi chép trên BĐTD
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
- Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
- Dành quá nhiều thời gian để ghi chép.
C/ KẾT LUẬN:
Trong thời đại thông tin bùng nổ, kiến thức ngày một nhiều, cái mới liên
tục phủ định cái cũ thì việc có một công cụ ghi nhớ và sáng tạo là vô cùng
quan trọng và cần thiết. Mạnh dạn mang cái mới đến với thế hệ trẻ yêu thích
sáng tạo là việc nên làm. Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy
học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học
tập của HS và PP giảng dạy của GV, có thể vận dụng nó cho tất cả môn học
ở trường phổ thông và cho lập kế hoạch công tác quản lí. Hi vọng việc sử
dụng Bản đồ tư duy sẽ được nhân rộng để tăng hiệu quả cho quá trình dạy
học môn Ngữ văn nói riêng và các môn khoa học khác.
Mong sự góp ý cuả các bạn đồng nghiệp để chuyên đề của tôi được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.

×