Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
M
ột trong những giải pháp cơ bản thực hiện đường lối đổi mới kinh tế
theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của nước ta là đổi mới cơ cấu kinh
tế, bao gồm cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế. Định hướng đó được thể
hiện rõ nét qua các kỳ Đại hội Đảng vừa qua trong các chiến lược phát triển kinh
tế xã hội. Đó là việc thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, GDP
tăng bình quân hàng năm từ 8,5% -- 9% thời kỳ 2001- 2010 với tổng nhu cầu
vốn đầu tư từ 90 - 95 nghìn tỷ đồng trong đó 39% – 40% tổng nguồn vốn này
được đầu tư từ doanh nghiệp và dân cư. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải
giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó các giải pháp thuộc lĩnh vực tài chính
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và một trong những giải pháp tài chính đó là việc
phát huy hơn nữa vai trò của các ngân hàng thương mại trên phạm vi cả nước để
thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chuyển sang đầu tư một cách có hiệu quả.
Như chúng ta vẫn biết, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Nếu không kể việc
đầu tư từ ngân sách hoặc tự đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp thì việc khai
thác và chuyển dịch các nguồn vốn tích luỹ đến lĩnh vực đầu tư cho vay có thể
được tiến hành theo hai phương thức: đầu tư trực tiếp qua thị trường tài chính
(phát hành trái phiếu doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp thông qua các trung gian
tài chính. Tuy nhiên, do thị trường tài chính nước ta mới đang trong giai đoạn
hình thành và ngay cả khi thị trường đi vào hoạt động thì khả năng huy động
cũng sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy nguồn vốn đầu tư qua các trung gian tài
chính mà chủ yếu là hệ thống ngân hàng thương mại càng trở nên quan trọng và
hữu hiệu hơn bao giờ hết.
Cùng với sự phát triển phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống ngân
hàng thương mại nước ta cũng đã không ngừng phát triển và ngày càng khẳng
định mình là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế. Bằng lượng vốn huy
Khoa: Ng©n Hµng - 1 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động được trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng thương mại
đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu
vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó mà hoạt
động sản xuất kinh doanh của các thành phần trong nền kinh tế được diễn ra một
cách trôi chảy. Do vậy, trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò của mình
và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như cho
nhính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong
tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các tổ chức tài chính nói
chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm
hiểu tình hình thực tế tại SGD I Ngân hàng Công thương vừa qua, em đã mạnh
dạn chọn đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn
tại SGD I Ngân hàng Công thương VN” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
Chuyên đề được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Lý luận chung về nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại SGD I Ngân hàng
Công thương VN.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy
động vốn tại SGD I Ngân hàng Công thương VN.
Khoa: Ng©n Hµng - 2 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát
triển hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một
ngân hàng thương mại nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế
tài chính quen thuộc trong đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì
hoạt động dịch vụ của ngân hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của
nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt
động của ngân hàng, dù họ chỉ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn
giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các
dịnh vụ ngân hàng, mà còn là cái “bơm” luôn điều hoà vốn tới mọi thành phần
trong nền kinh tế.
1.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ tài sản
nợ (nghiệp vụ huy động vốn); nghiệp vụ tài sản có (nghiệp vụ cho vay) và
nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngân hàng như: dịch vụ tư vấn, thanh toán hộ, giữ
hộ... Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng
phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ
này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của ngân hàng, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
Nghiệp vụ tiền gửi:
Khoa: Ng©n Hµng - 3 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các
doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó
NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản
tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục
đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có
tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng
cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn
nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn
định vốn trong hoạt động kinh doanh.
Nghiệp vụ đi vay:
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích
tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường
tiền tệ và vay ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có
đảm bảo... Trong đó các khoản vay từ ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự
cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối
được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo
vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy động không
thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các ngân
hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với
đối tượng các khoản vay.
Vốn tự có của NHTM :
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định, ngân
Khoa: Ng©n Hµng - 4 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật
chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân
ngân hàng, cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực
tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh
của bản thân Ngân hàng mang lại.
1.1.2.2. Nghiệp vụ tài sản có.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận.
Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với
mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả
năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do
Ngân hàng Nhà nước đề ra.
Nghiệp vụ cho vay:
Đây có thể nói là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong hoạt động quản lý
tài sản có của NHTM. Nghiệp vụ này đóng góp phần lớn lợi nhuận trong quá
trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Thông qua nghiệp vụ này mà
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng ngắn, trung và dài hạn cho các thành
phần trong nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được
từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình
thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường... và trực
tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
1.1.2.3. Nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM.
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản được nêu trên, trong hoạt động kinh doanh,
các NHTM còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường như :
kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và đá quý, thực hiện dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
Khoa: Ng©n Hµng - 5 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý trong hoạt động cung ứng chứng khoán ra thị
trường... và hàng loạt những dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
như : dịch vụ bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két sắt, dịch vụ cầm đồ...
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế
theo cơ chế thị trường, hoạt động thu - chi hộ, chuyển tiền qua ngân hàng ngày
càng được mở rộng và phát triển. Các ngân hàng đã không ngừng áp dụng
những tiến bộ, thành tựu khoa học công nghệ, kết hợp với uy tín kinh doanh của
ngân hàng làm cho nghiệp vụ này ngày càng được thay đổi về chất.
1.2. VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm về vốn
Khi nói đến thuật ngữ “Trung gian tài chính” người ta thường hay nghĩ tới
hai loại hình tổ chức cơ bản đó là: các tổ chức nhận tiền gửi (bao gồm các ngân
hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay) và các trung gian đầu tư
(bao gồm các công ty tài chính, các quỹ tương trợ, các công ty bảo hiểm....).
Nhưng cho dù có được hiểu thế nào đi chăng nữa thì NHTM, xét về khối lượng
tài sản cũng như những đóng góp đối với nền kinh tế, vẫn luôn giữ một vai trò
quan trọng. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau,
chẳng hạn như ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng quốc doanh và
các ngân hàng liên doanh. Dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM vẫn luôn đặt
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lên hàng đầu và để làm được điều đó, công cụ duy
nhất mà các ngân hàng phải có đó là vốn.
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về vốn của NHTM như sau:
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư
hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Theo như định nghĩa trên thì nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được sẽ là
một phần thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân
phối và tiêu dùng, được người chủ sở hữu của khoản vốn đó gửi vào ngân hàng
để thực hiện các mục đích khác nhau. Nói cách khác, họ chuyển quyền sử dụng
Khoa: Ng©n Hµng - 6 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoản vốn tiền tệ đó cho ngân hàng để rồi nhận được một khoản thu nhập từ
phía ngân hàng. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại
vốn cho nền kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là làm tăng nhanh quá trình
luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh
phát triển. Nhưng đồng thời cũng chính các hoạt động đó lại là yếu tố mang tính
chất quyết định đến sự tồn tại và phát tiển hoạt động kinh doanh của chính ngân
hàng.
Vốn nói chung của ngân hàng thương mại bao gồm:
• Vốn tự có.
• Vốn huy động
• Vốn đi vay.
• Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có những tính chất, vai trò riêng trong tổng nguồn vốn
hoạt động của ngân hàng và đều có những tác động ít nhiều đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
1.2.1.1 Vốn tự có.
Vốn tự có của NHTM là vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn tự có chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của
vốn tự có mà ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như:
mua sắm máy móc trang thiết bị... phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và
tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có
được coi là tài sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh
toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có của NHTM bao gồm:
• Vốn tự có cơ bản:
Vốn tự có cơ bản gồm có vốn pháp định và vốn điều lệ. Theo quyết
định số 327/QĐ- NH5 ban hành ngày 04/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt nam thì: “Vốn pháp định của NHTM là mức vốn tối thiểu phải có
Khoa: Ng©n Hµng - 7 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
để thành lập Ngân hàng”, còn “Vốn điều lệ của NHTM là vốn do các cổ đông
đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của Ngân hàng”.
• Vốn tự có bổ sung:
Vốn tự có bổ sung là một bộ phận trong nguồn vốn tự có của NHTM, nó
tồn tại dưới dạng các quỹ chuyên dụng cũng như các quỹ đặc biệt của ngân hàng
như: quỹ dự trữ bổ sung, quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng..., các khoản lợi nhuận chưa phân phối. Và nhờ có nguồn vốn này mà
vốn tự có của ngân hàng không ngừng được gia tăng cả về quy mô lẫn số lượng
theo thời gian.
1.2.1.2 Vốn huy động.
Vốn huy động của NHTM được xem là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng
huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc
thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn và được dùng làm vốn kinh doanh. Trong
thực tế, ngân hàng có thể sử dụng nhiều công cụ huy động vốn khác nhau nhưng
nhìn chung vẫn tập chung chủ yếu vào các công cụ sau:
a) Nhận tiền gửi:
Tiền gửi tại NHTM bao gồm có tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
Trong đó:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất
cứ lúc nào và ngân hàng có trách nhiệm phải thoả mãn yêu cầu đó của khách
hàng. Do tính lỏng cao như vậy nên loại tiền gửi này thường được ngân hàng trả
lãi thấp hoặc không được trả laĩ và bao gồm hai loại đó là: Tiền gửi thanh toán
và tiền gửi thanh toán thuần tuý.
- Tiền gửi có kỳ hạn: khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn là
loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian
rút tiền. Phần lớn nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất
chúng được gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
b) Nhận tiền gửi tiết kiệm:
Khoa: Ng©n Hµng - 8 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một bộ phận thu nhập của người lao
động chưa sử dụng cho tiêu dùng, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ
tiền một cách an toàn và hưởng lãi trên khoản tiền gửi đó. Trên thực tế, trong
nền kinh tế thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai hình thức đó là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gưỉ tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra
bất cứ lúc nào song không được sử dụng cho việc thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa ngân
hàng và người gửi về thời gian rút tiền (thường có lãi suất cao hơn tiền gửi
không kỳ hạn).
c) Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh nghiệp vụ nhận tiền gửi, các NHTM còn sử dụng một số nghiệp
vụ trên thị trường mở để huy động vốn như: phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái
phiếu.... Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn từ nền kinh tế
bằng việc phát hành các chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là công
cụ nợ ngắn hạn và trái phiếu là công cụ nợ trung và dài hạn. Việc phát hành hai
loại phiếu nợ này tuỳ thuộc vào mục đích huy động vốn của ngân hàng cũng như
sự chấp thuận của Ngân hàngTrung ương.
1.2.1.3 Vốn đi vay
Đây là vốn được hình thành trên quan hệ vay mượn giữa ngân hàng thương
mại với Ngân hàng Trung ương hoặc với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn
này thường được sử dụng khi ngân hàng đã sử dụng hết lượng vốn khả dụng mà
vẫn không đủ vốn hoạt động kinh doanh (hay thiếu vốn khả dụng). Thông
thường, NHTM sẽ ưu tiên việc vay từ các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế
trước, sau đó mới đến vay Ngân hàng Trung ương, có nghĩa là NHTM chỉ vay
Ngân hàng Trung ương khi đã thực hiện các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
không tìm kiếm đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng của ngân hàng.
1.2.1.4 Vốn khác.
Khoa: Ng©n Hµng - 9 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài các hình thức huy động và vay vốn như trên, NHTM còn có thể tạo
lập vốn kinh doanh cho mình thông qua việc thực hiện một số nghiệp vụ như:
làm trung gian thanh toán, làm nghiệp vụ đại lý... qua đó Ngân hàng có thể sử
dụng một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi
hộ khách hàng.
Tóm lại, trong cơ cấu vốn kinh doanh của NHTM, vốn huy động có thể
nói là chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, điều này
hoàn toàn phù hợp về mặt cơ sở lý luận vì ngân hàng thương mại luôn được xem
là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, lấy vốn vay để cho vay. Như vậy, vốn
huy động là công cụ chính trong hoạt kinh doanh của các NHTM, giữ vị trí quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, quyết định trực tiếp tới những
nguồn lợi cũng như uy tín của ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.2.1 Vốn là cơ sở nền tảng để NHTM hoạt động kinh doanh.
Như đã biết, vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và
phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu
quả các hoạt động kinh tế. Đối với ngân hàng, vốn còn là cơ sở nền tảng để tiến
hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của ngân hàng
là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường
vốn thì vốn không còn đơn thuần là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối
tượng kinh doanh chính của NHTM, trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Như vậy, những ngân hàng có vốn lớn sẽ có nhiều
thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những ngân hàng không có hoặc có ít vốn
cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
Khoa: Ng©n Hµng - 10 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.2.Vốn quyết định khả năng cạnh tranh của NHTM.
Những NHTM có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân
viên cao cũng như trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại là tiền đề quan trọng
cho việc thu hút vốn. Đồng thời khả năng vốn lớn lại là điều kiện thuận lợi đối
với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các tổ chức kinh tế xã
hội trong nền kinh tế. Khi đó, ngân hàng sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách
hàng đến với ngân hàng, kết quả là doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng
lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Mặt
khác, vốn lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa
dạng trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như: kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua... chứ không chỉ dừng lại ở dịch vụ cho vay
đơn thuần. Và chính các hình thức kinh doanh đa dạng này đã góp phần phân tán
giảm thiểu rủi ro, tạo thêm vốn cũng như tăng sức cạnh tranh cho NHTM trên
thị trường.
1.2.2.3. Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của NHTM.
Trong hoạt động ngân hàng, uy tín có thể nói là yếu tố quan trọng, quyết
định trực tiếp đến sự sống còn của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng trong kinh
doanh được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách
hàng. Khả năng thanh toán chi trả của ngân hàng càng cao thì uy tín cũng như
vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Hay nói cách khác, khả năng thanh toán
của ngân hàng tỷ lệ thuận với lượng vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả
dụng của ngân hàng nói riêng.
Như vậy, với khả năng cung ứng vốn lớn, các NHTM có thể tiến hành
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, cạnh tranh có hiệu quả
nhưng đồng thời lại giữ được chữ tín và nâng cao danh tiếng của ngân hàng.
1.2.2.4. Vốn quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thực tế đã chứng minh, những ngân hàng có vốn lớn thường có khoản
mục đầu tư và cho vay đa dạng hơn rất nhiều so với những ngân hàng có quy mô
vốn nhỏ. Thật vậy, trong khi các NHTM lớn có thể cho vay tại thị trường trong
Khoa: Ng©n Hµng - 11 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước thậm chí là cả thị trường quốc tế thì các NHTM nhỏ lại bị giới hạn trong
phạm vi hẹp, thường là thị trường khu vực, thị trường địa phương. Hơn nữa, do
lượng vốn hạn hẹp nên các NHTM nhỏ sẽ không phản ứng nhanh nhạy trước
những tình huống biến động về lãi suất thị trường, từ đó tác động đến khả năng
thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Vì vậy, khi
khả năng vốn của NHTM dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ mở rộng và đáp
ứng được nhu cầu vay vốn, có điều kiện để mở rộng thị trường tín dụng, tăng
đều khả năng thanh toán và dịch vụ ngân hàng.
1.2.3. Các hình thức tạo lập vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường
Sau khi đã sử dụng hết lượng vốn tự có nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu giao dịch, thanh toán của khách hàng thì các NHTM phải tiến hành huy
động vốn từ bên ngoài. Thông thường nguồn vốn huy động này chiếm một tỷ
trọng tương đối lớn trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng, nó rất cần thiết và
không thể thiếu, đảm bảo cho Ngân hàng có thể hoạt động một cách bình
thường. Quá trình huy động vốn của NHTM chủ yếu dưới các hình thức sau:
1.2.3.1. Huy động vốn bằng tiền gửi
• Tiền gửi không kỳ hạn.
Như trên đã trình bày, tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền mà chủ sở hữu
của khoản tiền này có thể rút tiền hoặc trả cho đối tác kinh doanh của họ bằng
hình thức phát séc. Ở những nước có hệ thống ngân hàng phát triển hoạt động
dựa trên công nghệ cao, thì việc rút tiền từ tài khoản này phần lớn được thực
hiện bằng điện thoại hoặc thực hiện qua các máy giao dịch tự động ATM được
lắp đặt rộng rãi.
Đối với khách hàng, việc gửi tiền vào tài khoản này với mục đích chủ yếu
là thanh toán và chi trả cho các hoạt động kinh doanh, các hoạt động dịch vụ
phát sinh một cách thường xuyên. Nên việc dễ dàng chuyển nhượng, dễ dàng
thanh toán được xem là yếu tố rất quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với khoản
tiền gửi này chỉ là thứ yếu. Do đó, loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi theo
yêu cầu, nó không đem lại lợi tức cao cho người gửi. Ngược lại, đối với NHTM
Khoa: Ng©n Hµng - 12 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thì đây lại là một khoản vốn huy động với mức chi phí thấp nhất trong tất cả các
khoản vốn huy động được khác. Ngân hàng chỉ phải bỏ ra những khoản chi phí
nhỏ về quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì nó cũng rất nhỏ) bù lại là được
sử một phần lớn làm vốn kinh doanh.
Tuy nhiên, vốn tiền gửi không kỳ hạn lại là khoản vốn có sự biến động
nhiều nhất, số dư của khoản vốn này tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất
kinh doanh của người gửi tiền. Do vậy, NHTM chỉ có thể sử dụng hiệu quả
nguồn vốn này khi và chỉ khi đưa ra được các dự đoán về sự biến động số dư
trên tài khoản tiền gửi này một cách chính xác.
• Huy động tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi trong đó đã có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và
Ngân hàng về lãi suất và thời hạn rút tiền. Về cơ bản, các khoản tiền gửi này
thường có kỳ hạn tương đối dài và không được sử dụng để tiến hành thanh toán
như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Chính vì vậy, mức lãi
suất đối với loại tiền gửi này có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ thuộc vào sự thoả
thuận của khách hàng với ngân hàng. Đối với các khoản tiền gửi có lãi suất linh
hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định.
Hiện nay, để thu hút người gửi tiền, các NHTM đã liên tục đưa ra các
hình thức nhận tiền gửi hấp dẫn, theo đó ngoài việc nhận được một khoản lợi tức
tiền gửi, khách hàng còn có thể chuyển nhượng được chứng chỉ tiền gửi của
mình. Bằng hình thức này, ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn
mà lẽ ra các nhà đầu tư này đã có thể dùng vốn đó đầu tư vào trái phiếu kho bạc
hay thị trường tiền tệ.
• Huy động tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm từ lâu đã được coi là công cụ huy động vốn truyền
thống của các NHTM. Vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm thường chiếm một tỷ
trọng tương đối trong cơ cấu tiền gửi vào Ngân hàng, ví dụ: Tiền gửi tiết kiệm
Khoa: Ng©n Hµng - 13 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tại các NHTM Việt nam chiếm khoảng 60% - 70% tổng tiền gửi, còn ở Mỹ là
khoảng 25%. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại chủ yếu sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là hình thức gửi tiền mà người gửi có
thể đến ngân hàng rút tiền bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước. Số dư trên
tài khoản tiền gửi này thường không lớn, nhưng nó lại có ưu điểm hơn hẳn so
với các tài khoản tiền gửi giao dịch đó là: số dư trên tài khoản này thường ít biến
động. Do đó, chi phí để huy động được nguồn vốn này là tương đối cao.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Đây là loại tiền được gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về
thời hạn, lãi suất giữa khách hàng với ngân hàng. Như vậy, về nguyên tắc thì
một khi khách hàng đã gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ không được rút tiền ra trừ
khi đến hạn rút tiền. Tuy nhiên, để khuyến khích người dân gửi tiền, ngân hàng
vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn. Khi đó, khách hàng thường chỉ
được hưởng một mức lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất đã thoả thuận ban
đầu.
Mục đích chính của người gửi khi gửi tiền theo hình thức này là tìm kiếm lợi tức
nên vấn đề lãi suất tiền gửi là rất quan trọng. Đối với ngân hàng, đây là nguồn
vốn khá ổn định. Nhằm mục đích phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của khách
hàng cũng như các nhu cầu về vốn của ngân hàng, các ngân hàng thường áp
dụng các loại tiết kiệm với kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng hay kỳ hạn 1, 2 năm và ứng
với nó là các mức lãi suất thích hợp theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi
suất càng cao.
- Tiền gửi tiết kiệm có bảo đảm:
Đây là một trong những hình thức hấp dẫn để huy động vốn trung và dài hạn
vì nó loại bỏ tâm lý lo sợ đồng tiền bị mất giá của người dân. Vì vậy, nó có tác
dụng với việc thu hút tiền gửi trung và dài hạn.
Theo hình thức này, số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng sẽ được quy ra
giá trị vàng hoặc ngoại tệ mạnh với trị giá tương đương. Khi hết hạn, khách
Khoa: Ng©n Hµng - 14 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng sẽ nhận lại số tiền tương đương với giá trị vàng hoặc ngoại tệ đó cộng
thêm phần tính lãi trên số tiền gửi. Hình thức này có ưu điểm ở chỗ người gửi
được đảm bảo về giá trị vốn gốc của mình, đồng thời vẫn có lãi. Có thể nói, loại
hình tiết kiệm này không chỉ tốt đối với người gửi tiền mà còn tốt đối với cả
NHTM. Do vậy, NHTM cần phải đặc biệt quan tâm đến hình thức huy động vốn
này nhằm tạo ra những nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho nhu cầu sử
dụng vốn trung và dài hạn của mình.
1.2.3.2 Huy động vốn qua đi vay.
Các khoản vốn vay ngày càng chiếm tỷ trọng cũng như vị trí đặc biệt quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại không chỉ về
mặt quy mô đơn thuần mà còn mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các
danh mục trong tài sản nợ. Vốn vay của Ngân hàng có thể hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau nhưng chủ yếu vẫn bao gồm những nguồn cơ bản sau:
• Vay từ Ngân hàng trung ương.
Để tồn tại và phát triển thì NHTM phải cho vay, nó cho vay tới mức mà
Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) cho phép để tối đa hoá lợi nhuận. Thế nhưng
không phải lúc nào hoạt động của nó cũng thuận buồm xuôi gió. Dẫu có thận
trọng đến mức nào đi nhăng nữa trong hoạt cho vay thì ngân hàng cũng khó
tránh khỏi những lúc thiếu khả năng chi trả hay thanh toán cho khách hàng.
Trong những trường hợp đó, giải pháp cuối cùng sau khi đã thực hiện các biện
pháp tài chính cần thiết mà vẫn không tìm kiếm đủ vốn là đi vay NHTƯ. NHTƯ
với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng sẽ trở thành vị cứu tinh cho các
NHTM trong trường hợp thiếu vốn thanh toán.
• Vay từ các tổ chức tín dụng khác.
Cũng giống như trên, trong quá trình hoạt động của mình có những lúc
NHTM phải đối đầu với những tình huống khó khăn về tài chính như: thiếu hụt
dự trữ bắt buộc, mất khả năng thanh toán những khoản tiền lớn... và để tránh
nguy cơ mất khách hàng, bảo đảm uy tín cho Ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là
Khoa: Ng©n Hµng - 15 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đi vay. NHTM có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau và một trong số đó là đi
vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng hay thị trường
tiền tệ trong và ngoài nước.
1.2.3.3. Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ.
Để đa dạng hoá các kênh khai thác nhằm tập trung vốn đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế, ngân hàng không những chỉ đi vay của Ngân hàng Nhà nước
hay của các tổ chức tín dụng, các NHTM khác mà còn chú trọng nguồn vốn hình
thành từ nghiệp vụ phát hành công cụ nợ ra thị trường.
Các NHTM có thể phát hành các loại công cụ nợ ra thị trường để huy
động vốn như: chứng chỉ tiền gửi ngân hàng có mệnh giá lớn, trái phiếu, kỳ
phiếu.... Trong đó, việc huy động vốn bằng các công cụ nợ ngắn hạn (gồm có
chứng chỉ tiền gửi, giấy thoả thuận mua lại...) lại có ý nghĩa quan trọng trong
việc quản lý tài sản nợ bên cạnh việc huy động vốn, bởi vì nó có thể được sử
dụng mọi lúc khi cần thiết.
1.2.3.4 Huy động vốn bằng hình thức huy động vốn khác.
Ngoài các hình thức huy động vốn trên, NHTM cũng có thể sử dụng
những hình thức huy động vốn khác để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư, từ
nền kinh tế thông qua các hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội như: dịch vụ
câu lạc bộ… hoặc đứng ra làm dịch vụ đại lý phát hành chứng khoán cho các
công ty, làm trung gian thanh toán…qua đó ngân hàng có thể sử dụng một lượng
vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng.
1.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn của NHTM
Hành lang pháp lý
Hành lang pháp lý có ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của các NHTM. Có
những bộ luật tác động trực tiếp đn hoạt động kinh doanh cua ngân hàng
như:Luật các tổ chức tín dụng, Luật NHNN... những luật này quy định tỷ lệ huy
động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, quy định viêc phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, quy định mức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng... có những bộ
luật tác động gián tiếp tới hoạt động của ngân hàng như: Luật thương mại ,Luật
Khoa: Ng©n Hµng - 16 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầu tư nươc ngoài, Luật doanh nghiệp... Nếu các luật này hoàn thiên đồng bộ
,không chồng chéo mâu thuẫn se tạo diều kiên cho ngan hàng hoat động kinh
doanh an toàn,thuận lợi,tăng niềm tin của công chúng vào ngân hàng.
Chính sách tiền tệ quốc gia.
+ Mục tiêu chính sách tiền tệ: với mục tiêu của chính scáh tiền tệ kiểm soát làm
phát, bình ổn giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm.Tuỳ thuộc vào
mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ ma sự ảnh hưởng của nó đến
việc tạo vốn của NHTM là khác nhau. Chẳng hạn, khi nền kinh tế phat triển
,khối lượng hàng hoá luân chuyển trong xã hội tăng, Nhà nước khuyến khích
nhân dân thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách mở tài khoản cá nhân tại
ngân hàng. Càng có nhiều người mở tài khoản thanh toán thì ngân hàng càng có
khả năng tạo dựng nguồn vốn hơn thông qua lượng tiền mà dân chúng đã gửi
vào ngân hàng. Hay khi nền kinh tế lạm phát, Nhà nước thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất tiền gửidẻ thu hút tiền từ ngoài xã hội
,khi đó NHTM huy động vốn dế dàng hơn. Nhưng khi Nhà nước co chính sách
khuyến khích đầu tư,mở rộng sản xuất kinh doanh thì ngân hàng lại gặp khó
khăn trong việc huy động vốn vi người có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền đầu tư sản
xuất hay góp vốn vào công ty ma co khả năng sinh lời cao hơn lãi suất tiền gửi
ngân hàng.
+ Việc sử dụng chính sách tiền tệ:
Lãi suất chiết khấu: NHTƯ ấn định mức lãi suất chiết khấu và các điều
kiện tái chiết khấu trong từng thời kỳ, khi công cụ này có sự biến đổi sẽ tác động
đến giá đầu vào của các NHTM .
Dự trữ bắt buộc: Việc NHTƯ tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm
(tăng) mức cung ứng vốn của ngân hàng trên thi trường liên ngân hàng. Trong
điều kiện nhu cầu vốn của khả dụng không thay đổi thi sự giảm (tăng) này làm
tăng (giảm) lãi suất trên thị trường liên ngân hàng từ đó ảnh hưởng đến vốn của
NHTM.
Sự ổn định của nền kinh tế:
Khoa: Ng©n Hµng - 17 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biến động của nền kinh tế là nhân tố đầu tiên để người gửi tiền ra quyết
định là có nên gửi tiền vào ngân hàng hay không.
Nếu các tác động này tạo ra sự ổn định của đồng tiền, tăng thu nhập trong
dân cư sẽ là tiền đề để tăng quy mô tiền gửi và giảm chi phí cho ngân hàng. Bởi
vì lúc đó doanh nghiệp và cá nhân sẽ đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nên
họ vay nhiều hơn và cũng gửi tiền nhiều hơn.
Nếu lạm phát xảy ra, gây nên sự mất giá của đồng tiền, làm lợi ích của
người gửi tiền giảm, lãi suất thực giảm. Xu hường mọi người sẽ chuyển sang
sang giữ vàng ngoại tệ mạnh hay hàng hoá với kỳ vọng sẽ đảm bảo giá trị đồng
tiền, do đó ảnh hưởng tới nguồn vốn huy động của NHTM. Trong trường hợp
này các ngân hàng phải có những biện pháp huy động vốn thích hợp và hấp dẫn.
Uy tín của ngân hàng.
Uy tín là một nhân tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Khi gửi
tiền vào ngân hàng, người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên
của nền kinh tế. Do đó họ thường có sự cân nhắc lựa chọn NHTM mà họ cho là
an toàn thuận lợi nhất hay nói cách khách là có uy tín nhất với người gửi tiền.
Thông thường người gửi đánh giá uy tín của ngân hàng qua các tiêu thức
như: sự hoạt động lâu năm, quy mô hoạt động, trình độ quản lý, công nghệ, tài
sản của ngân hàng... do đó các NHTM cần nâng cao uy tín thông qua các nghiệp
vụ của mình, từng bước thoả mãn nhu cầu của người gửi tiền, hoạt động kinh
doanh có lãi của ngân hàng và giữ “chữ tín” là tiền đề của hoạt động huy động
vốn.
Bên cạnh đó các NHTM cần áp dụng hiệu quả công tác Marketing như: chính
sách sản phẩm, chính sách giá, phân phối, khuếch trương giao tiếp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM.
Chất lượng hoạt động tín dụng.
Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền gửi
vào ngân hàng. Nếu như hoạt động huy động vốn làm khơi tăng nguồn vốn
trong nền kinh tế thì nghiệp vụ sử dụng vốn chính la viêc đưa nguồn vốn đó vào
Khoa: Ng©n Hµng - 18 -
Số chi cho từng khoản mục
Tổng chi phí
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầu tư sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do vậy nghiệp vụ
huy động vốn hiệu quả thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng huy động
được nhiều vốn hơn vì khi sản xuất kinh doanh được mở rộng sẽ tạo công ăn
việc làm cho dân cư, đời sống người dân được nâng cao sẽ có nhiều tiền gửi tiết
kiệm vào ngân hàng .
1.4. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NHTM
1.4.1 Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng với độ ổn định cao
Vốn huy động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng
để thoả mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh
khác ngày càng tăng của ngân hàng. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn
định về mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn lớn
nhưng lại không ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì
lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn, hiệu quả huy động vốn không
cao, thường xuyên phải đối đầu với vấn đề thanh khoản. Kết quả, trong nhiều
trường hợp ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu
nguồn vốn huy động được ổn định, dù nhỏ nó cũng có thể yên tâm sử dụng số
tiền đó vào các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua: mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động
và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, có độ
gia tăng đều đặn, đạt mục tiêu nguồn vốn đặt ra là nguồn vốn tăng trưởng ổn
định.
1.4.2. Chi phí huy động vốn hợp lý
Quản lý chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của mỗi
ngân hàng vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hay lãi suất đều có thể làm
thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập ròng của ngân hàng.
Chi phí huy động vốn được đánh giá qua chỉ tiêu truyền thống như:
1- Tỷ trọng các khoản mục chi phí (1).
Chỉ số(1) = ----------------------------------- x 100 (%)
Khoa: Ng©n Hµng - 19 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua chỉ số này, chúng ta có thể biết được kết cấu các khoản chi phí để có thể
hạn chế các khoản chi phí bất hợp lý, tăng cường các chi phí có lợi cho hoạt
động kinh doanh.
Khoa: Ng©n Hµng - 20 -
Tổng chi phí trả lãi thực
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2- Lãi suất bình quân đầu vào(2).
Chỉ số(2) = -------------------------------------- x 100 (%).
Trả lãi tiền gửi là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất, nó là yếu tố quyết
định đến việc hoạch định lãi suất cho vay, do vậy ngân hàng cần phải phân tích
cụ thể chỉ tiêu lãi suất bình quân đầu vào.
Theo quy luật kinh tế, lãi suất huy động vốn đầu vào càng cao thì càng kích
thích dân chúng gửi tiền vào ngân hàng. Lãi suất huy động càng cao thì lãi suất
cho vay cũng phải cao để có thể bù đắp các chi phí và tạo lợi nhuận cho ngân
hàng. Nhưng khi lãi suất này lên quá cao thì vượt quá khả năng của người đi
vay, từ đó dẫn tới ứ đọng vốn. Lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay là
một trong những công cụ cạnh tranh có hiệu quả cuả các NHTM. Vậy nhiệm vụ
của ngân hàng là tìm ra một lãi suất hợp lý để vẫn có thể huy động được vốn vào
và vẫn cho vay được để thu về lợi nhuận lớn nhất. Ngân hàng có thể giảm chi
phí huy động không nhất thiết phải giảm lãi suất huy động của từng nguồn mà
có thể chỉ cần thay đổi cơ cấu huy động một cách hợp lý.
1.4.3. Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh của nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được
với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy
động có thể đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để
thoả mãn nhu cầu ấy.
Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải có cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu
vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn theo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cơ
cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, theo tiền gửi dân cư và tiền gửi các tổ chức kinh
tế khác. Cơ cấu vốn hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sửdụng vốn,
không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động với nhu cầu
sử dụng vốn. Các chỉ tiêu sử dụng khi phân tích cơ cấu vốn và khả năng đáp ứng
của vốn huy động gồm:
Khoa: Ng©n Hµng - 21 -
Tổng số vốn huy động bình quân
Vốn huy động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1- Chỉ số(3) = -------------------------- x 100 (%)
Chỉ tiêu này cho biết khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của
NHTM.
2- Chỉ số(4) = --------------------------------------- x 100 (%)
Chỉ tiêu này cho biết hệ số sử dụng vốn huy động cho từng khoản mục tài
sản có của Ngân hàng, qua đó cho biết khả năng cung ứng vốn của
NHTM cho nền kinh tế.
1.4.4. Đảm bảo an toàn vốn huy động
Ngày nay, các NHTM không còn chịu hoạt động bó hẹp trong phạm vi
một vùng nào đó, mà luôn cố gắng mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh
của mình thông qua việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước.
Kết quả là mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các NHTM ngày càng được
tăng cường chặt chẽ hơn. Điều này giúp các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn,
nhưng mặt khác cũng sẽ nguy hiểm hơn nếu như một trong những đối tác kinh
doanh hoạt động yếu kém hay thậm chí bị phá sản. Vì vậy, rủi ro trong hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của ngân hàng nói riêng
cũng tăng lên theo mức độ phát triển về mặt tổ chức và quy mô hoạt động kinh
doanh.
Như vậy, để đảm bảo an toàn nguồn vốn, trước hết là nằm ở bản thân việc
quản lý điều hành của chính ngân hàng đó, bằng việc chấp hành đầy đủ những
chỉ tiêu về an toàn vốn như: Hệ số an toàn vốn tự có so với tổng tiền gửi, Hệ số
giữa vốn tự có và các nguồn dài hạn, Hệ số thanh toán…. Việc có áp dụng triệt
để những chỉ tiêu trên hay không là còn tuỳ thuộc vào quy định của Ngân hàng
nhà nước, vào chiến lược kinh doanh, vào đặc điểm riêng của từng NHTM trong
những điều kiện cụ thể nhất định. Tuy nhiên, nếu mỗi NHTM áp dụng được thì
nó không chỉ đảm bảo an toàn cho bản thân ngân hàng mà còn củng cố sự vững
chắc chung cho toàn hệ thống.
Khoa: Ng©n Hµng - 22 -
Vốn tự có
Số dư từng khoản mục t i sà ản có
Vốn huy động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
KINH DOANH TẠI SGD I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
2.1. GIỚI THIỆU VỀ SGD I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Ngân hàng Công thương Việt Nam với tên giao dịch là Industrial and
Commercial bank of Vietnam (gọi tắt là Incombank) là một trong bốn ngân
hàng thương mại quốc doanh lớn ở Việt Nam, với tổng tài sản chiếm 20% thị
phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng có mạng lưới tổ
chức rộng lớn bao gồm trụ sở chính đặt tại Hà Nội, có hai Sở giao dịch, một ở
Hà Nội và một ở TP. HCM, cùng với hơn120 chi nhánh ngân hàng và gần 500
điểm giao dịch lớn nhỏ phân bổ rộng khắp trong phạm vi cả nước. Trong đó,
SGD I Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong hai SGD hoạt động có
hiệu quả cao,giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngàh Ngân hàng Việt Nam.
Ngân hàng có 3 công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công
ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý và Khai thác Tài sản và 2 đơn vị sự
nghiệp là trung tâm Công nghệ Thông tin và Trung tâm Đào tạo.
Là sáng lập viên và đối tác liên doanh của Ngân hàng INDOVINA, Công ty cho
thuê tài chính quốc tế ( VILC ) và Công ty Liên doanh Bảo Hiểm Châu Á-
NHCT. Ngân hàng có quan hệ với hơn 600 ngân hàng lớn trên thế giới và là
thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiệp hội Ngân hàng Châu Á,
Hiệp hội Phát hành và thanh toán thẻ VISA,MASTER và Hiệp hội Tài chính
Viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT ).
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD
Chi nhánh NHCT Thành phố HN được thành lập theo quyết định số
198/NH-TCCB ngày 24/06/1988 của TGĐ NHNNVN...ngày 24/03/1993 TGĐ
NHTW ra quyết định số 93/NH –TCCB chuyển các hoạt động tại hội sở NHCT
VN chi nhánh NHCT TP Hà Nội sở chính NHCT VN .Ngày 30/12/1998, chủ
tịch HĐQT NHCT VN ký quyết định số 134/qđ-HĐQT NHCT sắp xếp tổ chức
hoạt động SGD I NHCT .Theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCT VN,
Khoa: Ng©n Hµng - 23 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngày 20/10/2003, chủ tịch HĐQT NHCT VN đã ban hành quyết định số 153/qđ
HĐQT về mô hình tổ chức hoạt động mới của SGD I. Theo dự án hiện đại hóa
ngân hàng và công nghệ thanh toán do ngân hàng thế giới tài trợ.
Với mục tiêu “Phục vụ tốt nhất các yêu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng
của khách hàng, vì sự thành đạt của khách hàng và sự thành đạt của khách hàng
cũng chính là sự thành đạt Ngân hàng”, kết hợp với đường lối quản lý đúng đắn
cho nên chi nhánh luôn đạt được kết quả kinh doanh đáng kích lệ, hàng năm
luôn có lãi và lãi năm sau luôn cao hơn năm trước, đóng góp phần lợi ích đáng
kể cho Nhà nước đồng thời đời sống cán bộ công nhân viên từng bước được cải
thiện. Để đạt được kết quả như trên phần lớn là do SGD đã xây dựng cho mình
một cơ cấu tổ chức tương đối hợp lý, gọn nhẹ nhưng vẫn đảm trách đầy đủ các
chức năng nghiệp vụ phù hợp với khả năng và trình độ quản lý hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của SGD I Ngân hàng Công thương VN
Thực hiện nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1998 của HĐBT về “việc
chuyển đổi hoạt động NH sang hạch toán kinh doanh va hình thành hệ thống
ngân hàng hai cấp”, ngày 1/7/1988 NHCT VN ra đời và đi vào hoạt động trên cơ
sở vụ tín dụng công ngiệp (TDCN) và vụ tín dụng thương nghiệp (TDTN) của
NHNN cùng với các phòng TDCN, TDTN của 17 chi nhánh NHNN địa
phương .
Trong thời gian qua với sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Công thương Việt
Nam, Ban lãnh đạo SGD I Ngân hàng Công thương đã kết hợp chặt chẽ những
đổi mới trong chích sách đầu tư tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành với
hoạt động cải tiến, cơ cấu lại tổ chức cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường. Từ chỗ chỉ có hai nơi giao dịch, đến nay ngoài trụ sở chính tại 10 Lê
Lai, SGD đã mở thêm nhiều phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm mới được phân bổ
rộng khắp trên địa bàn Quận.
Cơ cấu tổ chức của SGD I Ngân hàng Công thương được thực hiện theo
Quy chế Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt nam ban hành
Khoa: Ng©n Hµng - 24 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo quyết định số 16/NHCT- TCCB ngày 10/1/1991; Quy chế Tổ chức hoạt
động của các phòng thuộc bộ máy Ngân hàng Công thương Việt nam ban hành
theo quyết định số 110/NHCT- TCCB ngày 01/4/1992 và Công văn số
318/TCCB ngày 25/5/1992 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt
Nam, theo đó SGD I Ngân hàng Công thương bao gồm: một Giám đốc, giúp
việc cho Giám đốc là bốn Phó Giám đốc. Mỗi Phó Giám đốc được giao trách
nhiệm quản lý và điều hành một số phòng ban nhất định và chịu trách nhiệm
trước Giám đốc.
Căn cứ quyết định số 090/QĐ -NHCT 1 ngày 04/6/2003 của Hội đồng Quản trị
về việc “phê duyệt mô hình tổ chức kinh doanh và mô hình hiện đại hóa chi
nhánh”.
Tại Chi nhánh bao gồm các phòng ban sau:
1- Phòng kế toán giao dịch
2- Phòng tài trợ thương mại
3- Phòng khách hàng số 1 (Doanh nghiệp lớn)
4- Phòng khách hàng số 2 (Doanh nghiệp vừa và nhỏ)
5- Phòng khách hàng cá nhân
6- Phòng thông tin điện toán
7- Phòng tổ chức – Hành chính
8- Phòng tiện tệ kho quỹ
9- Phòng kiểm tra nội bộ
10- Phòng tổng hợp tiếp thị
11- Phòng kế toán tài chính
Hiện nay, các phòng ban trong SGD đã được chuyên môn hoá hoạt động
theo chức năng nhiệm vụ công tác riêng của từng phòng, nhưng đều có trách
nhiệm chung là tham mưu cho Giám đốc trong việc tổ chức thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như các chế độ thể lệ của
ngành ngân hàng. Đội ngũ cán bộ này được bố trí vào các phòng ban phù hợp
với trình độ chuyên môn của từng người. Cho nên SGD I Ngân hàng Công
Khoa: Ng©n Hµng - 25 -