Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.63 KB, 101 trang )


Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
LỜI NÓI ĐẦU
  
Việt Nam đang trên con đường đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Trong nền
kinh tế thị trường, nhu cầu giao dịch trao đổi, đầu tư kinh doanh của xã hội ngày
càng cao. Thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời và ngày càng phát triển, mở ra
những lĩnh vực kinh doanh và cơ hội làm ăn mới, đồng thời tạo vốn cho nền kinh tế
quốc dân, giúp cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn, có hiệu quả hơn.
Sau hơn 2 năm hoạt động, tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến
nền kinh tế chưa lớn, nhưng có thể nói đây là bước thí điểm, tập dượt ban đầu, tạo
điều kiện cho công chúng làm quen với một lĩnh vực mới.
Thị trường chứng khoán có tổ chức hoạt động không phải trực tiếp do những
người muốn mua hay muốn bán thực hiện, mà do những công ty chứng khoán thực
hiện - đó là nguyên tắc trung gian cơ bản nhất của TTCK có tổ chức. Một trong
những nghiệp vụ đặc trưng hàng đầu của các công ty chứng khoán là môi giới
chứng khoán. Khác với nghề môi giới trong các lĩnh vực khác, môi giới chứng
khoán là một loại hoạt động chuyên nghiệp mang tính nhà nghề, đòi hỏi một chất
lượng đặc biệt về kỹ năng, nghiệp vụ và đạo đức vì nó đóng vai trò là cầu nối giữa
những người mua và bán CK.
Với chủ trương của Nhà nước ta "chủ động xây dựng và phát triển thị trường
chứng khoán để tạo kênh huy động vốn dài hạn và trung hạn cho tăng trưởng kinh tế ",
hoạt động môi giới chứng khoán cũng đã ra đời dưới dạng phôi thai và đang góp
phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường non trẻ. Điều này có nghĩa rằng các công
ty chứng khoán cần phải chú trọng đầu tư hơn nữa, không ngừng nâng cao hiệu quả
hoạt động môi giới chứng khoán để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa
dạng trong một TTCK hiện đại.
Do những đòi hỏi về mặt lý thuyết và thực tiễn nêu trên mà việc nghiên cứu về
“Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của
các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam" trở nên cấp


thiết. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Thông qua việc tìm hiểu hoạt động
1

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán để thấy được bản chất, vai trò
của hoạt động môi giới chứng khoán; đánh giá thực trạng hoạt động môi giới chứng
khoán tại Việt Nam, những khó khăn mà các công ty chứng khoán đang gặp phải ...
từ đó có cơ sở để đề xuất một số giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động
môi giới CK.
Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như thống kê, phân
tích, tổng hợp ... khóa luận mong muốn cung cấp một bức tranh khá chi tiết về hoạt
động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán ở Việt Nam trên khía
cạnh lý thuyết cũng như thực tế, đồng thời đưa ra hệ thống các biện pháp ở tầm vĩ
mô cũng như vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán trên
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu được trình bày theo bố cục sau:
Chương 1 : Tổng quan về hoạt động MGCK của công ty chứng khoán: Cung cấp
những kiến thức cơ sở về TTCK, công ty chứng khoán; bản chất, vai
trò của môi giới chứng khoán; quy trình nghiệp vụ môi giới của công ty
chứng khoán và những kỹ năng cơ bản của một người làm MGCK.
Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng
khoán trên thị trường chứng khoán chứng khoán Việt Nam: Đi sâu
vào tìm hiểu về các cơ sở tiền đề phục vụ cho hoạt động môi giới, đánh
giá thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong suốt thời gian qua,
từ đó nêu lên những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những tồn tại,
vướng mắc trong hoạt động MGCK và những nguyên nhân của nó.
Chương 3 : Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động MGCK của các
công ty chứng khoán trên TTCK Việt Nam: Đưa ra một cách hệ thống

các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động MGCK của các công
ty chứng khoán trên TTCK Việt Nam ở tầm vi mô, đồng thời có các
giải pháp từ phía UBCKNN nhằm hoàn thiện môi trường hoạt động,
2

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
tạo điều kiện phát triển nghiệp vụ MGCK như một bộ phận quan trọng
của chiến lược phát triển tổng thể ngành chứng khoán.
Nếu như cách đây khoảng trên 10 năm, việc kinh doanh bất động sản đã khiến
nhiều người nhanh chóng trở nên giàu có thì với việc ra đời và hoạt động của
TTCK, số lượng nhà đầu tư phất lên nhờ thị trường này có thể sẽ lớn hơn thế nhiều.
Song để trở thành một nhà đầu tư thành công, bên cạnh nhiều yếu tố khác, bạn
không thể quên được một điều đó là lựa chọn các tổ chức trung gian - những người
MGCK thích hợp. Kinh nghiệm cho thấy ở hầu hết các TTCK có tổ chức, kể cả các
TTCK lâu đời đều duy trì tính trật tự, khoa học bằng cách tập trung các lệnh giao
dịch CK vào những công ty MGCK nhằm đảm bảo các loại CK được giao dịch
thực; TTCK hoạt động lành mạnh, hợp pháp; bảo vệ được lợi ích của nhà đầu tư.
Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
MGCK trên TTCK là cấp thiết. Tuy nhiên, để các biện pháp đề ra có tính khả thi,
trước hết phải tìm hiểu những vấn đề cơ bản về TTCK, các công ty chứng khoán và
đặc biệt là về hoạt động MGCK của các CTCK. Chương này sẽ tập trung vào
nghiên cứu các vấn đề có tính cơ bản, nguyên tắc nhằm cung cấp những kiến thức
cơ sở về TTCK; đồng thời đề cập đến trình tự nghiệp vụ MGCK và các kỹ năng cơ
bản của một người MGCK.
I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái quát về thị trường chứng khoán (Securities Market)
1.1 Khái niệm và chức năng của thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm thị trường chứng khoán
Trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay, TTCK là một trong những

yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại. Cho đến nay, các quốc gia
có nền kinh tế phát triển đều có TTCK. TTCK đã và đang trở thành một định chế
tài chính không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị
trường. Từ trước đến nay, đã có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về TTCK:
Theo tiếng La - tinh, thị trường chứng khoán là BURSA hay còn gọi là Sở giao
dịch chứng khoán, nghĩa đen là cái ví đựng tiền, là một tổ chức hoạt động có điều
khiển. Theo chữ Hán, thị trường chứng khoán có nghĩa là giao dịch sở; sở là nơi
chốn; giao dịch là mua bán, đổi chác.
Theo Longman Dictionary of Business English, 1985, thị trường chứng khoán
được định nghĩa như sau: “An organized market where securities are bought and sold
3

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
under fixed rules "
[1]
. Dịch ra tiếng Việt là: " TTCK là một thị trường có tổ chức, nơi
các CK được mua bán theo những nguyên tắc nhất định". Định nghĩa này đã đưa ra
một thuật ngữ là chứng khoán. CK được kết hợp từ hai từ đồng nghĩa là chứng và
khoán, đều có nghĩa là bằng chứng (evidence).
Theo The American Heritage Dictionary of the English Language, Dell, 1971,
p.633, trong tiếng Anh, securities có nghĩa là written evidence of ownership, nghĩa
là “chứng từ sở hữu bằng văn bản"
[ 2]
.
Nghị định 48/ CP - NĐ ngày 11/ 7/ 1998 quy định: “ Thị trường giao dịch tập
trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các CK được mua, bán hoặc là nơi
tham khảo để thực hiện các giao dịch CK "
[3]
.

Tuy nhiên, trong đời sống kinh tế, thuật ngữ TTCK đã thoát ly định nghĩa ban
đầu và đã có thêm nhiều nội dung mới. Nói tóm lại, " TTCK là thị trường mà ở đó
người ta phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn và tiến hành các hoạt
động mua bán, chuyển nhượng chứng khoán để kiếm lời "
[4]
. Việc kiếm lời thông
qua TTCK chủ yếu dựa vào kinh nghiệm mua bán chứng khoán để ăn chênh lệch
giá hoặc từ các hoạt động đầu tư vào TTCK để nhận cổ tức, trái tức.
1.1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có các chức năng chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, TTCK tạo ra một kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư tham gia vào TTCK, họ mua chứng khoán của các tổ chức phát
hành có nghĩa là số tiền nhàn rỗi của họ đã được sử dụng để đầu tư cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất cũng như phục vụ
cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và vật chất kinh tế xã hội.
- Thứ hai, TTCK cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. Thông qua
TTCK, các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình một loại chứng khoán phù hợp để
đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro.
- Thứ ba, TTCK tạo tính thanh khoản cho các loại CK. Nhờ có TTCK nhà đầu
tư có thể chuyển đổi cổ phiếu họ đang sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại CK khác
1
1

Longman Dictionary of Business English, 1985
2
2
The American Heritage Dictionary of the English Language, Dell, 1971, T.633
3
3


Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP ngày 11/ 7/ 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán
4
4
GS. NGƯT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trường chứng khoán” của Trường
ĐH Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, T.8
4

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
một cách dễ dàng. Tính thanh khoản là một yếu tố làm tăng sự hấp dẫn của TTCK
với công chúng đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động, càng hiệu quả thì càng có
khả năng nâng cao tính thanh khoản của các CK và càng thu hút được nhiều nhà
đầu tư tham gia thị trường.
- Thứ tư, TTCK là thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trên TTCK, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và
chính xác. Qua đó nó tạo ra môi trường cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
giúp các doanh nghiệp tự mình phải đổi mới trang thiết bị, công nghệ và nâng cao
chất lượng hoạt động mới có thể giành thắng lợi trong nền kinh tế thị trường, nơi
mà yếu tố cạnh tranh đang ngày càng trở nên khốc liệt.
- Thứ năm, TTCK giúp cho Chính phủ thực hiện việc quản lý vĩ mô nền kinh
tế. Do TTCK rất nhạy cảm nên có thể thấy rằng những động thái trên TTCK phản
ánh một cách chính xác các biến động của nền kinh tế, qua đó Chính phủ có thể
đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng và hợp lý. Mặt khác, Chính phủ cũng
có thể thông qua thị trường chứng khoán mua bán các loại trái phiếu để bù đắp
thiếu hụt ngân sách, điều tiết lượng tiền cung ứng trên thị trường và quản lý lạm
phát.
1.2 Các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán
1.2.1 Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là những tổ chức thực hiện việc huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán bằng cách phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái

phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư ... để niêm yết trên thị trường, tạo ra những hàng hóa
chủ đạo trên thị trường chứng khoán.
Nhờ có thị trường chứng khoán, các hàng hóa này mới có được tính thanh
khoản, các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi có thể chuyển thành vốn dài hạn để đầu tư
cho phát triển kinh tế.
1.2.2 Nhà đầu tư
Là những cá nhân hoặc tổ chức có vốn tạm thời nhàn rỗi tham gia mua bán
trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Các nhà đầu tư tổ chức thường là các
quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ lương hưu ... Đây
5

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính dồi dào, có kinh nghiệm và có những ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
1.2.3 Các công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán (CTCK) là những công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán bằng cách cung cấp các dịch vụ cho công chúng đầu tư hoặc trực tiếp
đứng ra kinh doanh CK để tạo ra lợi nhuận. Các CTCK có vai trò vô cùng quan
trọng trên TTCK. Nó là cầu nối giữa nhà đầu tư và TTCK. Để có thể tham gia mua
bán trên TTCK, nhà đầu tư phải tìm đến các CTCK như là trung gian môi giới để
nhờ họ mua bán hộ và nhà đầu tư phải trả cho các công ty này một khoản lệ phí hoa
hồng nhất định. Họ có vai trò quan trọng trong quá trình khơi nguồn vốn từ người
tiết kiệm tới những người có cơ hội sử dụng vốn tiết kiệm đó để sinh lời. CTCK
còn là nơi phát triển các nghiệp vụ kinh doanh CK làm cho TTCK trở nên đa dạng
và phong phú, từ đó hấp dẫn và thu hút được nhiều khách hành quan tâm và tham
gia vào TTCK.
Bên cạnh các tổ chức kể trên, để TTCK có thể hoạt động được an toàn và hiệu
quả còn phải kể đến các cơ quan quản lý thị trường đó là Uỷ ban chứng khoán và
Sở giao dịch chứng khoán.

Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, chịu trách nhiệm trước Nhà nước hoặc Chính phủ đề ra các
quy định pháp quy mang tính chất bắt buộc cho mọi đối tượng tham gia vào hoạt
động trên thị trường chứng khoán cũng như giám sát việc thực hiện những quy
định đó.
Sở giao dịch chứng khoán, (Trung tâm giao dịch chứng khoán) là cơ quan trực
thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trực tiếp triển khai những điều kiện và cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc niêm yết và giao dịch các chứng khoán.
Sơ đồ 1.1 - Cơ cấu thị trường chứng khoán
6
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Sở giao dịch
chứng khoán
Các công ty CK,
công ty lưu ký

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
2. Công ty chứng khoán
2.1 Khái niệm công ty chứng khoán (Securities Company)
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành CK, họ cần
phải nhờ đến những nhà chuyên nghiệp mua bán CK cho họ. Đó là công ty CK - với
nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ
thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn
đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng
khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị trường
chứng khoán, qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những
nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng hợp lại. Như vậy, “Công ty chứng khoán là một

tổ chức kinh doanh chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo
chế độ
hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép của UBCKNN cấp"
[5]
.
5 5
GS. NGƯT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trường chứng khoán” của Trường ĐH
Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, T.120
7
Trung tâm thanh
toán bù trừ và
lưu ký CK
Ngân hàng thanh toán
được chỉ định
Trung tâm
đào tạo
ngành CK
Các tổ chức
đầu tư
Các cá nhân
đầu tư
Các Ngân hàng
thương mại có tài
khoản tiền gửi của
các tổ chức và
cá nhân đầu tư

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Công ty chứng khoán có thể được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau

như công ty nhà nước, công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, có thể
độc lập hoặc trực thuộc ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính khác.
Các công ty chứng khoán muốn tham gia hoạt động trên TTCK phải xin phép
UBCKNN, phải đáp ứng được những qui định do UBCK đề ra như mức vốn tối
thiểu, hay yêu cầu về kinh nghiệm trong hoạt động tài chính ... Tùy theo quy định
của mỗi nước mà điều kiện thành lập công ty CK khác nhau. Chẳng hạn ở Hàn
Quốc, sắc lệnh của tổng thống quy định mức vốn tối thiểu cho một công ty chứng
khoán là 50 tỷ Won, ở Việt Nam thì tùy vào các loại hình kinh doanh cụ thể mà
mức vốn tối thiểu quy định khác nhau, nếu thực hiện đầy đủ năm loại hình kinh
doanh theo quy định thì mức vốn tối thiểu là 43 tỷ đồng
[ 6]
.
2.2 Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
Các công ty CK được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán phải
tuân theo các nguyên tắc cụ thể sau:
[ 7 ]
- Giao dịch trung thực và công bằng, vì lợi ích của khách hàng.
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy, có tinh thần trách nhiệm.
- Phải có hợp đồng với khách hàng khi thực hiện các dịch vụ cho họ.
- Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng
đầu tư hiểu sai về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động
gây thiệt hại cho khách hàng.
- Phải đảm bảo có đủ đội ngũ nhân viên kinh doanh CK có kỹ năng, có trình
độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của TTCK.
- Tách biệt tài sản của khách hàng với tài khoản của mình nhằm bảo vệ tài sản
của khách hàng.
- Không được bán chứng khoán mình không sở hữu, hoặc khi không có lệnh
của khách hàng, trừ trường hợp được UBCKNN cho phép.
- Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh CK với khách hàng.
6

6
TS. Nguyễn Sơn và TS. Nguyễn Quốc Việt, “Thị trường chứng khoán Việt Nam - Mô hình và bước đi”, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000
7
PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán”, NXB Thống kê, Hà Nội
1999, T. 328
8

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
- Không nhận lệnh mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng ngoài phạm vi
công ty hoặc ngoài SGDCK.
- Không tham gia các hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi giấy phép được cấp.
2.3 Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, kinh doanh chứng
khoán chuyên nghiệp. Ở hầu hết các quốc gia, công ty chứng khoán thường kinh
doanh 3 loại nghiệp vụ cơ bản:
[8]

* Môi giới chứng khoán, tức là mua bán CK cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
* Tự doanh, tức là mua bán CK bằng vốn của mình để hưởng chênh lệch giá.
* Bảo lãnh phát hành, tức là làm trung gian phát hành CK cho tổ chức phát
hành với các hình thức bảo lãnh: bảo lãnh chắc chắn, bảo lãnh cố gắng tối đa và các
hình thức bảo lãnh khác.
Theo thời gian, do đòi hỏi của thị trường và nhu cầu phát triển của bản thân
công ty CK, ngày càng nhiều các nghiệp vụ phụ trợ phát sinh như: tư vấn đầu tư;
quản lý danh mục đầu tư; quản lý tài khoản; lưu ký CK và thanh toán ...
2.3.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế

giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán (Trung tâm giao dịch chứng khoán) hay thị
trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế
của việc kinh doanh đó. Hoạt động với tư cách là nhà đại lý, công ty chứng khoán
sẽ được hưởng hoa hồng môi giới. Rủi ro mà nhà môi giới chứng khoán hay gặp
phải là các khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác có thể không
thực hiện việc thanh toán đúng thời hạn. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán là nghiệp
vụ quan trọng nhất của các công ty chứng khoán.
2.3.2 Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Nghiệp vụ tự doanh là một nghiệp vụ kinh doanh trong đó CTCK mua bán CK
với kinh phí của mình, rủi ro do chính công ty chịu và họ có thể làm thêm nhiệm vụ
tạo thị trường cho một loại CK nào đó. Nhà giao dịch có lãi hay chịu lỗ tùy thuộc
8
8
Bùi Nguyên Hoàn, “Thị trường chứng khoán và các công ty cổ phần”, năm 2001, T. 103
9

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
vào sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán CK và biến động chung của giá CK do
họ nắm giữ.
Do tự doanh CK là nghiệp vụ phức tạp và khả năng rủi ro có thể xảy ra lớn, để
đảm bảo kinh doanh CK có lợi và chấp hành luật pháp của nhà nước về quản lý tự
doanh CK, CTCK muốn thực hiện nghiệp vụ này cần có điều kiện như:
- Mức vốn phải đáp ứng được quy định của UBCKNN, chẳng hạn như ở Nhật
Bản là 3 tỷ yên; ở Đài Loan là 20 triệu đô la Đài Loan; còn ở Việt Nam là 12 tỷ đồng.
- Ban giám đốc và nhân viên kinh doanh chứng khoán của công ty phải có kiến
thức và kinh nghiệm về nghiệp vụ tự doanh chứng khoán.
2.3.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng
cách bán CK trên thị trường. Sự hỗ trợ đó giúp đơn vị phát hành nắm chắc khả

năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động. Có 3 hình thức bảo lãnh
phát hành mà thế giới thường áp dụng: bảo lãnh chắc chắn, bảo lãnh cố gắng tối đa,
bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không.
Để thực hiện việc bảo lãnh phát hành, công ty CK và công ty phát hành phải
tiến hành ký kết một bản hợp đồng, trong đó phải có những điều khoản cơ bản như:
phương thức bảo lãnh; giá CK khi bán trên thị trường; quyền và nghĩa vụ mỗi bên ...
2.3.4 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
Thông qua việc phân tích CK trên thị trường, phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp, phân tích các dự án đầu tư ... các công ty CK sẽ cung cấp các thông
tin và tư vấn cho các nhà đầu tư một cách có hiệu quả.
Nghiệp vụ này không yêu cầu phải có vốn lớn mà đòi hỏi các công ty CK phải
có đội ngũ cán bộ tư vấn có kiến thức và kỹ năng chuyên môn cao, đưa ra những
nhận xét và phán đoán đúng, phù hợp với diễn biến cũng như những thay đổi của
thị trường. Tuy nhiên đối với nghiệp vụ này, nhà tư vấn luôn luôn phải tỏ ra thận
trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại CK vì điều này có thể
ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý và quyết định của các nhà đầu tư.
2.3.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
10

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Đây là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm
giữ các CK vì quyền lợi của khách hàng. Trong hoạt động này khách hàng ủy thác
cho công ty CK thay mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những
nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận.
Để thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư khách hàng và công ty phải
tìm hiểu nhau, thấy được khả năng và có độ tin cậy lẫn nhau. Khi khách hàng ký
hợp đồng với công ty CK, công ty phải sử dụng kinh nghiệm của mình trong kinh
doanh CK để đầu tư vốn cho khách hàng; đồng thời phải tuân thủ những quy định
cam kết trong hợp đồng, tách biệt với các nghiệp vụ khác như tự doanh hay môi

giới CK nhằm đảm bảo lợi ích của khách hàng, tránh những mâu thuẫn có thể xảy ra.
II - TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Môi giới chứng khoán là gì?
1.1 Lịch sử hình thành
Trong nền kinh tế thị trường, môi giới chứng khoán chính là một trong những
khâu then chốt nhất của môi giới tài chính. Khái niệm môi giới tài chính thực chất
đã xuất hiện và phổ biến từ những năm 50 của thế kỷ này. Vào lúc đó, ở những
quốc gia phát triển, sự phân công chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực tài chính đã
vô hình tạo ra các “vách ngăn” giữa một bên là các ngân hàng, các công ty tài chính
... với một bên là các nhà tư bản công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ,
buôn bán bất động sản ... Kết quả là nhiều khối tài sản, nhiều nguồn tài chính khổng
lồ bị “đóng băng”, từ đó gây ra những thiệt hại to lớn cho xã hội, và có thể trở thành
“ngòi nổ” cho các cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ như đã từng diễn ra trong
lịch sử. Và chính các hoạt động môi giới tài chính đã “hâm nóng” và “đánh thức”
các khối tài sản này, làm chúng chuyển hóa có hiệu quả tới các “địa chỉ” đầu tư, tạo
điều kiện thuận lợi cho chu trình luân chuyển sinh lợi và thu hồi vốn ở những mức
độ
khác nhau, hướng tới một thị trường phát triển sôi động và công bằng.
[ 9]
Trong lịch sử nền kinh tế của loài người, hoạt động môi giới tài chính đã xuất
hiện khá sớm trong lịch sử tiền tệ. Có thể nói, tiền thân của hoạt động môi giới tài
chính là người thợ vàng, người làm nghề đổi tiền, sau đó tới các hoạt động đầu tư
9
Steven R. Drozdect và Karl F. Gretz, “Broker's edge”, American
11

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
bất động sản, đầu tư và kinh doanh CK ... Ngày nay, các ngân hàng thương mại,
quỹ đầu tư ... cũng tham gia vào hoạt động này, bên cạnh đó là các công ty môi

giới, các nhà môi giới chuyên nghiệp được hình thành trong lĩnh vực kinh doanh
CK. Sự xuất hiện này cũng là do tính tất yếu của việc phát triển TTCK và nhu cầu
của công chúng đầu tư. Thoạt tiên, rất nhiều người cho rằng ai cũng có thể bước
vào TTCK để mua bán các CK mà họ cần. Song trong thực tế, việc này không đơn
giản đến như vậy bởi bản thân TTCK luôn luôn chứa đựng sự biến động mà không
phải ai cũng có thể dự tính được. Hơn nữa, có nhiều thông tin mà chỉ một số
chuyên gia nhất định có đủ trình độ chuyên môn, có khả năng tài chính mới dự báo
được. Chính vì thế, nếu muốn đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường
chứng khoán, chắc chắn nhà đầu tư sẽ phải thông qua - trực tiếp hoặc gián tiếp -
một tổ chức trung gian của thị trường. Các công ty CK có hệ thống đường dây và
các cơ quan chi nhánh ở các thành phố lớn, điều đó làm cho các dịch vụ của họ có
khả năng phục vụ công chúng đầu tư CK một cách có hiệu quả và nhanh chóng. Vì
thế, các nhà đầu tư hoàn toàn có thể tin tưởng vào các nhà MGCK này.
Tóm lại, các nhà môi giới chứng khoán là chiếc cầu nối giữa nhà đầu tư với
nhà phát hành trên TTCK. Các nhà đầu tư buộc phải thông qua các trung gian môi
giới chứng khoán để mua bán chứng khoán không chỉ do nguyên tắc hoạt động
trung gian của SGDCK mà còn vì chính lợi ích của họ nhờ vào sự giúp đỡ của các
nhà MGCK. Nếu không có những người môi giới có sự phân tích cần thiết về
chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng để có những nhận xét kỹ lưỡng, thì
người đầu tư có thể bị lầm lẫn hoặc bị lường gạt. Vì lẽ đó, sự hình thành và phát
triển hoạt động MGCK là một điều tất yếu.
[ 10]
1.2 Khái niệm môi giới chứng khoán
Hoạt động MGCK là điều kiện cơ bản kiến tạo nên hoạt động của TTCK. Đối
với nhiều nước, hoạt động MGCK được xem là hạt nhân của TTCK. Điều này bắt
nguồn từ nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động của TTCK là chỉ dựa vào các hoạt
động giao dịch được cấp phép giữa những người trung gian làm nghề MGCK.
MGCK là một hoạt động kinh doanh CK trong đó một công ty CK đại diện cho
khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay thị
10

Bùi Nguyên Hoàn, “Thị trường chứng khoán và các công ty cổ phần”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2001, T. 103
12

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế
của việc giao dịch đó.
[ 11]
Với cách tiếp cận như vậy, người môi giới chứng khoán, hiểu theo nghĩa rộng,
là những người trung gian mua bán CK cho khách hàng để hưởng hoa hồng; trung
gian mua bán CK bằng vốn của mình; và là người bảo lãnh phát hành cho những tổ
chức phát hành CK. Đó có thể là các tổ chức tài chính quốc doanh, hoặc tổ chức tài
chính thuộc khu vực kinh tế tư nhân với hai hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc công ty cổ phần.
MGCK là một hoạt động chuyên môn chứ không phải là loại “cò” như cò nhà,
cò đất, cò xe ... cũng không phải là loại trung gian chỉ trỏ như nhiều người vẫn
quan niệm. Các tổ chức hay cá nhân hành nghề MGCK phải cân nhắc rất nhiều khi
tiến hành công đoạn môi giới cho khách hàng vì quyền lợi của họ gắn liền với sự
thành công trong các thương vụ của khách hàng. Để trở thành một nhà MGCK giỏi,
có tiếng tăm và có nhiều khách hàng chỉ có thể làm được nếu như khách hàng
của nhà môi giới đó thu được nhiều lợi nhuận. Ở các TTCK có tổ chức, các nhà
MGCK không hoạt động với tư cách cá nhân độc lập. Mỗi cá nhân người MGCK
dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng thường đại diện cho công ty chứng khoán. Vì
vậy, các công ty chứng khoán phải chọn người môi giới có phẩm chất đạo đức, có
kiến thức chuyên môn về TTCK nói chung và về MGCK nói riêng.
[ 12]
1.3 Phân loại môi giới chứng khoán
Theo sự phát triển của TTCK, những người môi giới trong lĩnh vực chứng
khoán cũng dần dần phát triển theo hướng chuyên môn hóa, theo lĩnh vực hoạt
động, hay loại hình cung cấp dịch vụ ...

1.3.1 Phân loại theo loại dịch vụ cung cấp
Nếu như đánh giá theo tiêu chí loại dịch vụ cung cấp thì người ta thường chia
môi giới trung gian làm hai loại là: môi giới toàn phần và môi giới bán phần.
[13]
a. Môi giới toàn phần ( Full - service)
11
PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán”, NXB Thống kê, Hà Nội
1999, T. 328
12
Bùi Nguyên Hoàn, “Thị trường chứng khoán và các công ty cổ phần”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2001, T. 101
13
TS. Trần Thị Thái Hà, “Một số vấn đề về hình thành và phát triển nghề MGCK”, (UBCKNN 2000), T. 35
13

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Là những người MGCK có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên quan đến
chứng khoán cho khách hàng như: đại diện cho khách hàng để thương lượng mua
hoặc bán chứng khoán; thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến
chứng khoán của khách hàng... Họ cung cấp một dải dịch vụ hoàn hảo, từ việc đưa
ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên, đến việc theo dõi tài khoản
và kịp thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho khách hàng. Tóm lại, với tư
cách là một cố vấn tài chính, người MG dịch vụ đầy đủ có thể phục vụ người đầu tư
với nhiều ý tưởng tốt và sản phẩm tốt, giúp nhà đầu tư giải quyết các vấn đề của
mình.
b. Môi giới giảm giá (Discount - service)
Là những người môi giới chỉ cung cấp một số ít dịch vụ, tùy theo sự ủy nhiệm
của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của họ là giúp khách hàng thực hiện các lệnh
mua, bán chứng khoán. Những người môi giới chứng khoán này thích hợp với các
nhà đầu tư tự mình đưa ra các quyết định mua bán mà không muốn lời khuyên hay

kết quả nghiên cứu đầu tư của nhà môi giới chứng khoán. Tuy nhiên, với loại hình
MGCK này, nhà đầu tư dễ gặp rủi ro hơn so với loại hình MGCK toàn phần, nhưng
chắc chắn mức phí hoa hồng môi giới sẽ thấp hơn môi giới chứng khoán toàn phần.
1.3.2 Phân loại theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán
Có một số loại nhà môi giới chứng khoán, tùy theo hoạt động của họ, được
phân loại như sau:
[14]
a. Các nhà môi giới của hãng dịch vụ hoa hồng (Commission House Brokers)
Thành viên chính của SGDCK là các công ty môi giới chứng khoán (hay còn
là hãng dịch vụ hoa hồng - commission firm). Theo hình thức này, công ty tính cho
khách hàng của mình tỷ lệ hoa hồng trên các dịch vụ của mình. Các nhà môi giới
của công ty thực hiện lệnh cho khách hàng của mình trong phòng giao dịch của
SGDCK gọi là “nhà môi giới của hãng dịch vụ hoa hồng” hay “nhà môi giới trong
phòng giao dịch”.
b. Nhà môi giới 2 đôla (Two - dollar broker)
14
1
4
Học viện tài chính NewYork, Hoa Kỳ, “Những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán và môi giới chứng
khoán”, NXB Thế giới Hà Nội 1993, T. 72
14

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Nhà môi giới 2 đôla là một thành viên của SGDCK, nhưng là một nhà môi
giới chứng khoán độc lập, không thuộc về một công ty nào. Nhà môi giới 2 đôla có
thể sở hữu hoặc thuê chỗ cho mình, thực hiện các lệnh giao dịch cho bất kỳ một
công ty môi giới nào thuê mình. Trong trường hợp một nhà MGCK của một công
ty CK không có khả năng thực hiện các lệnh giao dịch của mình, hoặc vắng mặt
trong phòng giao dịch, người này có thể chuyển một số lệnh cho nhà môi giới độc

lập. Công ty CK sẽ trả cho nhà môi giới độc lập một khoản phí trên các dịch vụ của anh
ta. Trước đây, khoản phí trả cho nhà môi giới độc lập là 2 đôla cho 100 cổ phiếu mua
bán hộ công ty CK (điều này giải thích tại sao lại có tên gọi là nhà môi giới 2 đôla).
Tuy nhiên, hiện nay, khoản phí của các nhà môi giới độc lập thường lớn hơn 2 đôla.
c. Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký (Registered Floor Trader)
Một số người mua chỗ trên SGDCK chỉ nhằm mục đích mua bán chứng khoán
cho chính bản thân họ. Những người đó được gọi là “nhà giao dịch chứng khoán có
đăng ký”, không thuộc về một công ty môi giới nào. Tuy nhiên, do sự gia tăng các
nguyên tắc và các quy định nên hoạt động của họ bị hạn chế rất nhiều. Ngày nay,
các nhà giao dịch chứng khoán này hoặc hỗ trợ cho các nhà môi giới chuyên môn với
tư cách là những người tạo lập thị trường hoặc hoạt động như là “nhà môi giới 2 đôla”.
d. Nhà môi giới chứng khoán chuyên môn ( Specialist )
Mỗi chứng khoán niêm yết tại SGDCK chỉ được buôn bán trên một vị trí nhất
định trong phòng giao dịch, vị trí này được gọi là “quầy”. Trong mỗi “quầy” có
một số nhà môi giới được gọi là những nhà môi giới chuyên môn. Họ chịu trách
nhiệm mua bán một loại chứng khoán nhất định, đã được Hội đồng quản trị của
Sở giao
dịch chứng khoán phân công.
Nhà môi giới chuyên môn thực hiện hai chức năng chủ yếu:
- Thực hiện các lệnh giao dịch
- Tạo thị trường
Thông thường, các nhà môi giới chuyên môn thực hiện các lệnh giao dịch theo
giá hạn mức. Khi đó, họ đóng vai trò là một nhà MGCK và nhận được các khoản
phí môi giới thông thường, hoặc tiền hoa hồng trên các dịch vụ mà họ cung cấp.
15

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Một chức năng khác mà nhà MGCK chuyên môn thực hiện là hỗ trợ việc duy trì
một thị trường ổn định đối với loại cổ phiếu mà anh ta được phân công bằng cách mua

bán cổ phiếu với tư cách một nhà giao dịch để thu hẹp chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
2. Chức năng, vai trò của nghiệp vụ môi giới chứng khoán
2.1 Chức năng của môi giới chứng khoán
Hoạt động môi giới chứng khoán là cầu nối giữa người mua và người bán
chứng khoán. Các nhà môi giới chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn và kinh
nghiệm nghề nghiệp sẽ là trung gian giúp cho việc trao đổi, mua bán chứng khoán
của nhà đầu tư trở nên đơn giản và thuận tiện. Vì vậy, nghiệp vụ môi giới chứng
khoán có chức năng rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Như
vậy, với tư cách là một hoạt động dựa trên quan hệ trực tiếp giữa công ty chứng
khoán với khách hàng, ở đây chính là các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
(thông qua nhân viên môi giới chứng khoán), thì hoạt động môi giới chứng khoán sẽ có
hai chức năng chính:
[15]

2.1.1 Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
Nhân viên môi giới của công ty CK có thể cung cấp cho khách hàng các báo cáo
nghiên cứu với những khuyến nghị đầu tư. Thông thường để có thể đảm trách
được chức năng này, các CTCK phải có bộ phận phân tích tổng hợp có thể xử lý
khối lượng thông tin lớn, sau đó cung cấp kết quả của những thông tin này cho
nhân viên môi giới, tiếp đó nhân viên môi giới mới có thể cung cấp cho khách
hàng theo những yêu cầu cụ thể. Những thông tin này thường bao gồm: diễn
biến tổng thể của TTCK, động thái của từng khu vực kinh tế hay hoạt động của
từng công ty trong từng khu vực khác nhau.
Hàng ngày, người MGCK tiếp cận với một mạng lưới thông tin điện tử, cung
cấp các tin tức tài chính liên tục được cập nhật về lãi suất thị trường, tin kinh tế
và các thông tin thị trường khác. Ở những thị trường phát triển, người MGCK
luôn luôn là những người trước tiên nhận được những tin tức mới nhất từ khắp
nơi liên quan đến cổ phiếu của khách hàng. Nếu không có người MGCK, nhà
đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thông tin báo cáo hàng tháng, quý về cổ
15

TS. Trần Thị Thái Hà, “Một số vấn đề về hình thành và phát triển nghề MGCK”, ( Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ - UBCKNN 2000 ), T. 9
16

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
phiếu đang nắm giữ, những thông tin này rất có thể chậm hoặc không đầy đủ dẫn
đến không hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Khi thị trường phát triển với nhiều loại hàng hóa phong phú, nhiều công cụ phái
sinh thay cho những hàng hoá thông thường thì vai trò của người MGCK càng
quan trọng. Người MGCK có thể giới thiệu cho khách hàng những hàng hóa
mới, có chất lượng hoặc đề xuất một danh mục đầu tư hợp lý và hiệu quả.
Mặc dù MGCK và tư vấn đầu tư là hai nghiệp vụ khác nhau nhưng trong hoạt
động môi giới, việc sử dụng chức năng tư vấn khá nhiều. Nhà đầu tư thường
trông chờ vào người MGCK để biết khi nào nên mua, khi nào nên bán và diễn
biến thị trường hiện tại như thế nào. Để giúp khách hàng đưa ra quyết định,
người MGCK sẽ xem xét các yếu tố như hệ số giá/ thu nhập (P/ E); hình mẫu dự
đoán về thu nhập và giá; tình trạng chung nhóm ngành của cổ phiếu; trạng thái
tổng thể của thị trường.
Trên cở sở kết hợp giữa thông tin chính xác, khả năng phân tích đúng đắn và
đưa ra lời khuyên xác thực, người MGCK sẽ chứng tỏ được mình và thu hút
được ngày càng nhiều nhà đầu tư đến với công ty mình hơn.
2.1.2 Cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao
dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ
Người MGCK nhận đơn đặt hàng từ khách hàng và thực hiện các giao dịch cho
họ. Quá trình này bao gồm một loạt các công việc cụ thể như: hướng dẫn mở tài
khoản, tiến hành và xác nhận giao dịch; thanh toán và chuyển kết quả giao dịch ...
Tuy nhiên không chỉ có vậy mà người MGCK còn phải luôn quan tâm đến tài
khoản của khách hàng, nắm bắt những thay đổi trong nhu cầu cũng như tâm lý
đầu tư của khách hàng từ đó đưa ra những khuyến cáo hay những giải pháp và

chiến lược mới thích hợp hơn.
Công ty CK với chức năng MGCK phải đảm bảo những điều kiện cơ sở vật
chất, kỹ thuật đầy đủ phục vụ cho hoạt động giao dịch, mua bán CK giúp khách
hàng. Đó là địa điểm rộng rãi, hệ thống máy móc thiết bị hiện đại nối mạng với
SGDCK, đội ngũ nhân viên tác nghiệp, nhất là những đại diện tại sàn giao dịch
phải thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác và
hiệu quả.
17

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
Tóm lại, tùy theo trình độ và xu hướng phát triển của thị trường, hai chức năng
trên được triển khai theo nhiều cấp độ khác nhau. Chẳng hạn, trên một thị trường
sơ khai, một phần do sản phẩm còn đơn giản nên đối với một số ít các nhà đầu tư,
chức năng tư vấn dường như không cần thiết. Nhưng ở đó, do mặt bằng dân trí thấp
nên công tác tuyên truyền, tiếp thị và giới thiệu sản phẩm trên một diện rộng lại cực
kỳ quan trọng. Ở những thị trường phát triển hơn, để đáp ứng yêu cầu đa dạng của
các nhà đầu tư, hoạt động MGCK không đơn thuần là giao dịch CK hộ khách hàng
mà là cung cấp một loạt các dịch vụ liên quan như cung cấp thông tin, tư vấn, lập
kế hoạch tài chính cho khách hàng ...
2.2 Vai trò của môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán không chỉ là kết quả của quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường mà đồng thời nó còn có vai trò ngược lại là góp phần thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế cũng như cải thiện môi trường kinh doanh. Vai trò này của
môi giới chứng khoán được nhìn nhận trên những khía cạnh sau:
2.2.1 Giảm chi phí giao dịch
Trên thị trường của những hàng hóa thông thường, để tiến hành giao dịch, người
mua và người bán phải gặp gỡ nhau, thỏa thuận giá cả, kiểm tra chất lượng hàng
hóa ... Tuy nhiên, trên TTCK, do hàng hóa là những sản phẩm tài chính bậc cao,
vì vậy không dễ gì mà khách hàng có thể tiếp cận mua bán cũng như kiểm tra

chất lượng; nếu có thì chi phí để thu thập, xử lý các thông tin liên quan đến các
loại CK và tiến hành giao dịch là rất lớn. Để tạo thuận lợi cho khách hàng,
CTCK sẽ đứng ra làm các công việc đó, bởi vì chỉ có CTCK hoạt động chuyên
nghiệp mới có thể trang trải được khoản chi phí khổng lồ ấy. Như vậy, vai trò
của hoạt động MGCK là tiết kiệm chi phí cho từng giao dịch cụ thể cũng như
hoạt động tổng thể của toàn thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản
cho các loại chứng khoán nói riêng và cho TTCK nói chung.
2.2.2 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường
Công ty chứng khoán và các nhân viên môi giới chứng khoán khi thực hiện vai
trò làm trung gian giữa người mua và người bán, mà cụ thể ở đây là người bán
(các tổ chức phát hành) và người mua (nhà đầu tư), có thể nắm bắt được nhu cầu
18

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Có thể nói
hoạt động môi giới chứng khoán chính là một trong những nguồn cung cấp
những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Nhờ
quá trình đó, sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng, khách hàng ngày càng nhiều,
dẫn đến khả năng thu hút được khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục
vụ tăng trưởng kinh tế.
2.2.3 Cải thiện môi trường kinh doanh
Vai trò cải thiện môi trường kinh doanh của hoạt động môi giới chứng khoán
được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau đây:
a. MGCK góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư
Hoạt động MGCK khi xâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và
nhà đầu tư thì sẽ là một yếu tố quan trọng tạo ra thói quen và ý thức đầu tư cho
họ. Trong nền kinh tế quốc dân, lượng vốn nhàn rỗi tồn tại trong đại bộ phận
dân chúng là rất lớn, trong khi đó nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh cũng
như phát triển kinh tế ngày một tăng. Hoạt động MGCK đem những sản phẩm

tài chính giới thiệu cho những khách hàng tiềm năng, giải thích cho họ cách sử
dụng cũng như những lợi ích mà chúng có thể đem lại. Như vậy, lâu dần hoạt
động này sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính thay vì sử
dụng tiền dư thừa một cách lãng phí. Tham gia vào hoạt động đầu tư tài chính,
dần dần họ sẽ tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết, biết chấp nhận rủi ro
để mong tìm kiếm những khoản lợi nhuận lớn cho mình. Mặt khác, niềm tin của
nhà đầu tư vào các công ty CK cũng được nâng lên, họ có thể sẵn sàng ủy thác
cho công ty chứng khoán thực hiện chức
năng môi giới chứng khoán để mua bán chứng khoán giúp họ.
b. Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh
Một công ty chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả thì cần thiết phải thu hút
được nhiều khách hàng đến với mình. Trong đó hoạt động MGCK đóng vai trò vô
cùng quan trọng. Các nhân viên môi giới bằng các mối quan hệ của mình phải làm
sao lôi kéo được càng nhiều khách hàng đến với công ty mình càng tốt. Muốn vậy,
các nhân viên môi giới phải luôn luôn trau dồi và nâng cao kiến thức nghiệp vụ, tạo
19

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
điều kiện giúp đỡ các nhà đầu tư, bên cạnh đó công ty cũng phải không ngừng cải
tiến các dịch vụ để giữ chân khách hàng. Nếu không làm được như vậy thì khách
hàng sẽ tìm đến các công ty khác có chất lượng phục vụ tốt hơn, dẫn đến doanh thu
từ hoa hồng giảm, hiệu quả hoạt động của toàn công ty cũng bị giảm sút.
III. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI CHỨC NĂNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Hoạt động của một công ty môi giới chứng khoán
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK thế giới cho thấy, thời tiền sử của
TTCK, các nhà MGCK hoạt động cá nhân độc lập. Sau này, chức năng và quy mô
hoạt động giao dịch của nhà MGCK tăng lên, đòi hỏi sự ra đời của các CTCK - sự
tập hợp có tổ chức của những nhà MGCK riêng lẻ.
Hoạt động của một công ty chứng khoán trong chức năng môi giới về cơ bản

giống như hoạt động của một doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm của các công ty
này là dịch vụ về chứng khoán mà họ cung cấp cho khách hàng. Có thể chia thành
3 mảng hoạt động lớn sau đây:
[16]
- Hoạt động Marketing và bán hàng
- Hoạt động sản xuất
- Hành chính và hoạt động hỗ trợ
Tương tự như một doanh nghiệp sản xuất, công ty MGCK phải làm tốt chức
năng Marketing và bán hàng; điều này có nghĩa là nhân viên bán hàng, tiếp thị phải
xác định xem công chúng quan tâm đến những loại CK nào trên thị trường. Đây là
bước khởi đầu rất quan trọng cho một quá trình kinh doanh của công ty MGCK. Vì
thế, nếu như nhân viên bán hàng, tiếp thị của công ty không có khả năng suy xét,
phán đoán được những thay đổi về nhu cầu của khách hàng thì coi như họ đã bỏ
qua một cơ hội làm ăn cho công ty. Để xác định được khách hàng quan tâm đến
những loại CK nào, có thể xem xét đến các điều kiện sau: điều kiện về kinh tế, điều
kiện về TTCK hiện tại, dự tính tăng trưởng kinh tế ...
Sau khi xác định được công chúng quan tâm đến những loại CK nào trên thị
trường, tùy theo khả năng của công ty trong việc cung ứng các sản phẩm, CTCK sẽ
điều chỉnh các sản phẩm (như cổ phiếu thường, trái phiếu công ty, trái phiếu địa
phương ...) sao cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong CTCK, nhà MGCK
16
1
6
Tài liệu của UBKNN, Giáo trình “Đào tạo nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán”, năm 2000
20

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
là những nhân viên bán hàng, họ sẽ tiếp xúc trực tiếp với các khách hàng của công
ty để giới thiệu về các sản phẩm đã được lựa chọn. Khi tiếp xúc với các khách

hàng, nhà MGCK có thể bán các CK đó hoặc tư vấn giúp cho khách hàng nên mua
loại CK nào là tốt nhất. Khi một nhà MGCK bán hàng, quá trình sản xuất (xử lý)
bắt đầu diễn ra. Một giao dịch diễn ra như thế nào là điều rất quan trọng. Nó làm
cho khách hàng thấy rằng các nhà MGCK của công ty quan tâm đến họ, đến tài
khoản của họ. Điều này sẽ tạo ấn tượng tốt cho khách hàng, và họ sẵn sàng nhờ
CTCK thực hiện các thương vụ mới.
Sơ đồ 1.2 - Thực hiện giao dịch chứng khoán
lÖnh giao dÞch giao dÞch lÖnh
mua bán
thông báo thông báo
thực hiện thực hiện
Giao dịch môi giới
Giao dịch khách hàng Giao dịch khách hàng
Một giao dịch được bắt đầu khi hai bên cam kết đổi một khối lượng nhất định
một loại CK lấy một số tiền vào một ngày thanh toán cụ thể. Thực hiện giao dịch
nói chung bao gồm các công việc chuẩn bị và hệ thống đưa vào và truyền lệnh giữa
các bên, phát hiện giá cân bằng, thực hiện lệnh, báo cáo giao dịch, giám sát và
thông tin thị trường. Những công việc và hệ thống này có thể từ những thủ tục giấy
tờ đơn giản đến các hệ thống thông tin và xử lý bằng máy điện tử, phụ thuộc vào
yêu cầu của từng thị trường. Các giao dịch giữa một khách hàng và một người
MGCK nói chung được thực hiện trực tiếp giữa hai bên. Trái lại, giao dịch giữa hai
người MGCK thường được thực hiện thông qua một cơ chế thị trường, chẳng hạn
như một sở buôn bán trung tâm nơi người mua và người bán gặp nhau, thị trường
qua quầy truyền thống, hoặc hệ thống thực hiện giao dịch tự động. Trong toàn bộ
quy trình giao dịch, bộ phận hành chính luôn làm việc. Họ tính toán, nhập sổ sách
các khoản tiền hoa hồng, thanh toán các chi phí, vào tài khoản doanh thu, tuyển người ...
21
Khách
hàng
Môi

giới
Môi
giới
Khách
hàng
Sở
giao
dịch

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
2. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán của công ty môi giới chứng khoán
2.1 Xử lý và thực hiện các lệnh của khách hàng
Công ty chứng khoán hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán thực hiện vai
trò trung gian mua bán cho những người cần mua và những người cần bán. Đây là
nghiệp vụ quan trọng của CTCK nên khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty phải
tiến hành những công việc cụ thể sau để hoàn thành một lệnh của khách hàng:
[ 17]
2.1.1 Nhận đơn đặt hàng
Khi nhận được lệnh (đơn đặt hàng) của khách hàng, nhân viên phòng MGCK
tiếp xúc với khách hàng phải có trách nhiệm ghi đầy đủ thông tin khách hàng yêu
cầu lên lệnh đặt hàng, để đảm bảo thực hiện chính xác các lệnh khách hàng. Có thể
xảy ra những sai sót khi nhận lệnh, đặc biệt là nhận qua đường điện thoại, cho nên
lệnh đặt hàng phải đảm bảo rõ ràng và chính xác.
Nếu là lệnh đặt mua, công ty phải đề nghị khách hàng ký quỹ một mức tiền nhất
định trên tài khoản của khách hàng ở công ty.
Nếu là lệnh bán, công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số CK muốn bán để
kiểm tra trước khi thực hiện lệnh đặt hàng, hoặc đề nghị khách hàng phải ký quỹ
một phần số CK cần bán, theo một tỷ lệ do UBCKNN quy định.
Phòng MGCK của công ty sau khi phân loại các lệnh mua bán và hoàn tất thủ

tục ban đầu thỏa thuận với khách hàng như mức ký quỹ, hoa hồng, lệ phí ... sẽ
thông báo bằng điện thoại, telex hoặc fax cho thư ký văn phòng đại diện của công
ty có mặt tại quầy giao dịch trong SGDCK hoặc là thị trường OTC.
2.1.2 Thực hiện lệnh đặt hàng
Khi công ty CK thông báo thư ký văn phòng đại diện của công ty là bước đầu
tiên nhận lệnh đã xong và bắt đầu chuyển sang bước thứ hai thực hiện lệnh theo
yêu cầu của khách hàng. Nếu CK mua hoặc bán không thuộc loại giao dịch, theo
phương pháp đấu giá sẽ được chuyển lên phòng môi giới của SGDCK. Tại đây các
lệnh mua bán sẽ được thực hiện theo phương pháp bán giá dò tìm qua hệ thống máy tính.
Sau khi đã xác định được giá của chứng khoán cần bán hay cần mua, theo đơn
đặt hàng do người MGCK của công ty chứng khoán chuyển đến, nhân viên của
17
PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán”, NXB Thống kê, Hà Nội
1999, T. 353
22

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
SGDCK sẽ công bố kết quả trên bảng điện. Nội dung thỏa thuận mua bán sẽ được
lưu giữ tại hệ thống thông tin của SGDCK và được chuyển đến bộ phận quyết toán.
Nếu là lệnh đặt hàng được thực hiện trên thị trường OTC hầu hết là các loại
CK chưa được đăng ký, nội dung tiến hành bước này cũng tương tự như ở SGDCK,
song việc quản lý nhà nước có phần lỏng lẻo hơn và không đảm bảo chắc chắn
bằng ở SGDCK cho các khoản giao dịch.
2.1.3 Cấp giấy xác nhận đủ hàng và vào sổ theo dõi của công ty
Công ty CK sẽ gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh. Phiếu
này giống như một hóa đơn giao hàng và hẹn ngày thanh toán đối với khách hàng.
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền, người bán sẽ giao CK, công ty CK sẽ
vào sổ và trao biên nhận cho khách hàng. Sau đó chuyển đến bộ phận quyết toán
của SGDCK hoặc trung tâm giao dịch của thị trường OTC để hoàn tất thủ tục thanh

toán.
2.1.4 Gửi hóa đơn thanh toán cho khách hàng
Với hệ thống thanh toán hiện đại, khách hàng đặt lệnh mua bán CK với công
ty CK đều mở tài khoản để giao dịch, do đó thanh toán các khoản tiền mua bán CK
đều thực hiện bằng chuyển khoản.
Đối với khách hàng mua CK, sẽ nhận được một giấy chứng nhận quyền sở hữu
về số CK do công ty bảo quản CK xác nhận, số CK này nằm trong tài khoản
lưu trữ CK mà công ty chứng khoán đã mở tại công ty bảo quản.
Đối với người bán CK, sẽ nhận được một giấy báo có trên tài khoản của mình
mở ở công ty chứng khoán hoặc thông qua ngân hàng đại diện của khách hàng.
2.2 Những quy định cần thực hiện trong nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Trong quá trình thực hiện các bước của lệnh theo yêu cầu của khách hàng,
công ty chứng khoán và khách hàng phải tuân thủ những quy định đã được ban
hành trong quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán hay pháp luật
của Nhà nước về chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Cụ thể, bao gồm những
quy định cơ bản sau:
[18]
18
Quyết định số 04/ 1998/ QĐ - UBCK3 ngày 13/ 10/ 1998 của Chủ tịch UBCKNN về việc ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động của CTCK.
23

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
- Công ty chứng khoán phải thực hiện chính xác các lệnh của khách hàng. Mọi
sai sót gây ra từ phía công ty chứng khoán, dẫn đến việc thực hiện sai lệnh gây thiệt
hại cho khách hàng, công ty chứng khoán và các nhân viên công ty chứng khoán
phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt tài chính và pháp luật.
- Theo yêu cầu của khách hàng, hàng tháng, hàng quý, công ty CK sẽ gửi bản
báo cáo CK đến khách hàng để đối chiếu số tiền và CK trên tài khoản của khách

hàng.
- Công ty CK có trách nhiệm tổ chức việc sắp xếp, theo dõi và thực hiện các
lệnh của khách hàng một cách có hiệu quả nhất. Trong trường hợp CK của khách
hàng mang tên công ty CK, công ty CK phải tổ chức theo dõi và cung cấp các
thông tin khi khách hàng yêu cầu, cũng như việc chuyển cổ tức đến khách hàng.
- Công ty CK phải thông báo kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng chậm nhất
là vào ngày làm việc kế tiếp ngày thực hiện giao dịch. Nếu thông báo chậm trễ,
công ty CK phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán và chuyển giao chậm trễ của
khách hàng.
- Khách hàng có trách nhiệm thanh toán hay chuyển giao số CK khi công ty
CK thực hiện đúng những yêu cầu của khách hàng.
- Khi muốn sửa đổi hay hủy bỏ lệnh đã đặt, khách hàng phải thông báo cho
công ty CK biết để kịp thời điều chỉnh. Trong trường hợp lệnh đã được thực hiện
thì việc sửa đổi hay từ bỏ sẽ không có giá trị, khách hàng có trách nhiệm thanh toán
hay chuyển giao số CK đã được thực hiện.
- Khi khách hàng ủy quyền cho công ty CK hay nhân viên MGCK toàn quyền
sử dụng tài khoản của mình để mua bán CK, khách hàng phải làm giấy ủy quyền
cho công ty CK hay người MGCK đó. Trình tự và thủ tục theo đúng luật pháp hiện
hành và phải có sự đồng ý của công ty CK hoặc ngân hàng, nơi khách hàng mở tài khoản.
- Trường hợp sau khi đã thực hiện xong lệnh đặt hàng, nếu đến thời gian thanh
toán mà khách hàng không thanh toán hết số tiền hoặc giao số chứng khoán còn
thiếu, công ty chứng khoán vẫn có quyền kiện khách hàng để đòi hỏi thanh toán
hoa hồng và những chi phí khác.
- Mức hoa hồng cho hoạt động môi giới chứng khoán thường được tính bằng
tỷ lệ phần trăm trên tổng số giao dịch và theo nguyên tắc doanh số giao dịch càng
24

Khóa luận tốt nghiệp Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng
khoán
lớn thì tỷ lệ hoa hồng càng thấp. Mức tối thiểu và tối đa về hoa hồng cho hoạt động

MGCK sẽ do UBCKNN quy định.
- Trong hoạt động MGCK, công ty CK phải đảm bảo giữ bí mật nghề nghiệp,
không được tiết lộ các loại CK giao dịch, những chi tiết liên quan đến các nghiệp
vụ và tài khoản tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp khách hàng cho phép hoặc
khi UBCKNN yêu cầu xuất trình, chứng từ sổ sách để kiểm tra.
2.3 Lựa chọn loại hình giao dịch - môi giới
Tùy thuộc vào khả năng tài chính (mạnh hay yếu), mục đích kinh doanh chứng
khoán và yêu cầu trong đơn đặt hàng của mỗi một khách hàng mà công ty chứng
khoán sẽ lựa chọn một hình thức giao dịch thích hợp cho khách hàng. Hình thức đó
phải đảm bảo lợi ích và thuận lợi cho cả khách àhng và công ty môi giới chứng
khoán. Trong nghiệp vụ môi giới chứng khoán, có một số giao dịch chủ yếu sau:
[ 19]
2.3.1 Giao dịch thông thường
Đây là hình thức giao dịch được áp dụng phổ biến đối với những nhà đầu tư
chỉ nhằm mục đích mua CK để hưởng lợi tức đơn thuần. Theo hình thức này, sau
khi thỏa thuận xong, người bán phải giao CK và người mua phải trả tiền sau một
thời gian nhất định kể từ ngày giao dịch. Tùy theo thông lệ của thị trường để định
ra khoảng thời gian này, chẳng hạn ở Mỹ, ngày thanh toán được thực hiện sau 5 ngày;
ở Nhật ngày thanh toán là 4 ngày; ở Pháp từ 5 đến 7 ngày ...
2.3.2 Giao dịch bảo chứng
Đây là một hình thức giao dịch phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, nó thường được các công ty MGCK áp dụng. Giao dịch bảo chứng là
hình thức cấp tín dụng của công ty MGCK cho khách hàng của mình để mua CK và
sử dụng các CK đó làm vật cầm cố cho khoản vay. Vì vậy, hình thức giao dịch này
còn gọi là giao dịch tín dụng. Nó phát sinh trong trường hợp khách hàng mua CK
chưa sẵn tiền. Để đáp ứng nhu cầu mua, công ty MGCK có thể cho vay và khách
hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại công ty MGCK sẽ ứng trước tiền để thanh
toán. Đến kỳ hạn đã thỏa thuận, khách hàng sẽ hoàn trả đủ số chênh lệch cùng với
19 1
9

PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán”, NXB Thống kê, Hà Nội
1999, T. 353
25

×