Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tỉnh Hải Dương.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 115 trang )



NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DN
Doanh nghiệp
CPH
Cổ phần hoá
CTCP
Công ty cổ phần
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
XH
Xã hội
XHH
Xã hội hoá
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
KT-XH
Kinh tế- xã hội
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
SX-KD


Sản xuất- kinh doanh
SX
Sản xuất
TTCK
Thị trường chứng khoán
KTTT
Kinh tế thị trường
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
GDP
Tổng sản phẩm trong tỉnh
NSTP
Nông sản thực phẩm
TPKT
Thành phần kinh tế
ĐHCĐ
Đại hội cổ đông
HĐQT
Hội đồng quản trị
BKS
Ban kiểm soát
UBND
Uỷ ban nhân dân
BCH
Ban chấp hành
TW
Trung ương
BCĐ
Ban chỉ đạo
NXB

Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng số 2.1. Một số chỉ tiêu cơ bản của tỉnh Hải Dương
Bảng số 2.2. Cơ cấu sản xuất theo thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh
Hải Dương
Bảng số 2.3. Biến động tổng sản phẩm của Hải Dương
Bảng số 2.4. Cơ cấu GDP theo giá hiện hành
Bảng số 2.5. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Bảng số 2.6. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp phân theo thành phần
kinh tế
Bảng số 2.7. Giá trị sản xuất công nghiệp theo ngành
Bảng sô 2.8. Cơ cấu kinh tế ngành thương mại
Bảng số 2.9. Tình hình cơ bản của các doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh trước khi cổ phần hoá
Bảng số 2.10. Các doanh nghiệp nhà nước công ích
Bảng số 2.11. Một số chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh ở Hải Dương
Bảng số 2.12. Một số chỉ tiêu chính trước khi cổ phần hoá của các doanh
nghiệp nhà nước
Bảng số 2.13. Kết quả xác định giá trị các doanh nghiệp nhà nước
Bảng sô 2.14. Sở hữu cổ phần tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá
Bảng số 2.15. Tổ chức thực hiện quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước
Bảng số 2.16. Một số chỉ tiêu chủ yếu của các công ty cổ phần thuộc tỉnh
Hải Dương quản lý
Bảng số 2.17. Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá



1
LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong kinh tế Nhà nước nói
riêng, trong nền kinh tế quốc dân nói chung rất quan trọng. Trong quá trình hoạt
động, nó đã cố vươn lên thực hiện vai trò của mình.
Song so với tiềm năng và yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũng như sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước thì những kết quả đạt được chưa tương
xứng.
Vì vậy, Ðảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Cổ
phần hóa (CPH) DNNN là một trong những biện pháp thực hiện chủ trương trên.
Những năm qua, đặc biệt là sau Ðại hội Ðảng lần thứ VIII (năm 1996), tỉnh
Hải Dương đã tiến hành CPH DNNN. Bên cạnh những thành tích đạt được thì vấn
đề này còn không ít những tồn tại, vướng mắc, làm hạn chế việc tiến hành CPH
DNNN. Nguyên nhân của những thành công và chưa thành công thì có nhiều, cả về
khách quan và chủ quan.
Hiện nay cả nước ta nói chung, tỉnh Hải Dương nói riêng, đang nỗ lực phấn
đấu thực hiện tốt các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010,
trong đó có kế hoạch CPH DNNN. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng tháng 4/2006 nêu rõ: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao
hiệu quả DNNN, trọng tâm là CPH Đẩy mạnh và mở rộng diện CPH, kể cả các
tổng công ty nhà nước.”
Ðể tiếp tục thực hiện CPH DNNN ở Hải Dương thì cần thiết phải có sự nghiên
cứu công phu, nghiêm túc. Với tinh thần đó, là một cán bộ đã có nhiều năm tham
gia công tác chỉ đạo đổi mới và sắp xếp DNNN của tỉnh, sau khi được trang bị

những kiến thức nhất định, tôi chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nƣớc ở tỉnh Hải Dƣơng" để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc
sĩ luật học.


2
2. Tình hình nghiên cứu
Hơn 10 năm qua, từ khi Ðảng và Nhà nước ta có chủ trương tiến hành CPH
DNNN, đã có nhiều đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học đề cập, luận giải và nghiên cứu về CPH DNNN. Các công trình
đó đã nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH DNNN, chỉ
ra sự cần thiết phải thực hiện CPH cũng như yêu cầu hoàn thiện cơ chế chính sách
về CPH DNNN. Bên cạnh đó, cũng còn một số khác biệt trong quan niệm về CPH,
mối quan hệ giữa CPH và tư nhân hoá, mức độ và phạm vi CPH, Các công trình
đó mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, chưa nghiên cứu một cách toàn diện và
có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật về CPH DNNN ở tỉnh Hải
Dương, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và khó khăn trong quá trình thực hiện, từ
đó kiến nghị những giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện tốt chính sách, pháp luật
về CPH DNNN.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: Thông qua việc nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành
pháp luật về CPH DNNN để đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện CPH
DNNN trên địa bàn tỉnh Hải Dương một cách có hiệu quả.
- Nhiệm vụ: Từ mục đích nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận, quan điểm, chính sách của Ðảng và pháp luật của Nhà
nước về CPH DNNN ở nước ta hiện nay.
+ Phân tích đúng thực trạng thi hành pháp luật về CPH DNNN ở Hải Dương
thời gian qua, từ đó xác định những khó khăn, vướng mắc cản trở quá trình CPH,
nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc đó.
+ Ðề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu để tiếp tục thực hiện CPH

DNNN ở Hải Dương một cách có hiệu quả.
4. Ðối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Ðối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề pháp luật liên quan đến tiến
trình CPH DNNN ở tỉnh Hải Dương (cơ sở lý luận, chủ trương, chính sách, quá
trình thực hiện ở Hải Dương).


3
- Phạm vi của đề tài: CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn, nhưng thực
hiện tốt chủ trương đó là vấn đề không đơn giản. Muốn thực hiện tốt vấn đề này đòi
hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề ở tầm từ vĩ mô đến vi mô, dưới nhiều góc độ
như kinh tế, pháp lý, hành chính, Trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ không đủ
điều kiện nghiên cứu và giải quyết một cách toàn diện, sâu sắc tất cả các vấn đề về
CPH DNNN, mà chỉ giới hạn ở những vấn đề pháp lý cơ bản và trong phạm vi tỉnh
Hải Dương từ khi có chủ trương CPH DNNN đến năm 2005.
Luận văn có đề cập đến CPH DNNN ở một số nước có điều kiện tương đối
giống nước ta với tính chất giới thiệu, tham khảo, cung cấp thêm luận cứ cho tiến
trình CPH của nước ta nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng, chứ không phân
tích sâu quá trình CPH ở các nước đó.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và thể hiện của đề tài
Ðây là đề tài thuộc chuyên ngành Luật kinh tế. Do đó trong quá trình nghiên
cứu và thể hiện trong Luận văn, cần quán triệt phương pháp luận phổ biến là
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin,
thông qua các phương pháp cụ thể như: Ðọc tư liệu, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn
chuyên gia; thống kê, phân tích, so sánh (kinh nghiệm quốc tế, kinh nghiệm trong
nước, ); tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa; phương pháp lô gích và lịch sử;
phương pháp dự báo,
Luận văn đặc biệt quán triệt và tuân thủ những quan điểm đường lối của Ðảng
và chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Luận văn hết sức tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan, gắn chặt chẽ giữa

lý luận và thực tiễn, lấy thực tiễn để kiểm nghiệm, làm sáng tỏ và bổ sung cho lý
luận, đường lối, pháp luật.
Luận văn cũng coi trọng và kế thừa một cách có phê phán, chọn lọc, sáng tạo
những thành quả của các công trình, các bài viết, các tư liệu đã được công bố có
liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp của Luận văn
Luận văn sẽ đóng góp cho quá trình CPH DNNN ở Hải Dương nói riêng và


4
Việt nam nói chung trên các khía cạnh sau:
- Về cách tiếp cận và nghiên cứu: trên cơ sở gắn nghiên cứu những vấn đề
chung về công ty cổ phần (CTCP) và CPH DNNN để chỉ rõ sự cần thiết phải tiến
hành CPH DNNN, kết hợp việc xem xét nội dung của các quy định pháp lý về
DNNN và CPH DNNN dưới góc độ kinh tế học và thực tiễn phát triển kinh tế ở
tỉnh Hải Dương để làm rõ vai trò của DNNN trong giai đoạn kế hoạch hóa tập
trung và sự cần thiết phải CPH DNNN hiện nay.
- Ðưa ra các quan điểm lý luận và tổng kết thực tiễn về CPH DNNN ở tỉnh Hải
Dương để phân tích thực trạng thi hành pháp luật về CPH DNNN.
- Kiến nghị một số giải pháp mang tính vĩ mô và vi mô, nhất là các vấn đề
pháp lý để tiếp tục CPH DNNN nói riêng, doanh nghiệp (DN) nói chung một cách
có hiệu quả.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, nội dung Luận văn được kết cấu thành ba
chương chính có quan hệ chặt chẽ với nhau như sau:
Chương 1: Những vẫn đề chung về CPH DNNN
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về CPH DNNN ở tỉnh Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt CPH DNNN ở tỉnh
Hải Dương



5
Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC
1.1.1. Sự hình thành, phát triển và một số nét cơ bản của công ty cổ phần
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần (Cái đích của CPH) là DN mà trong đó vốn điều lệ được
chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần; chủ sở hữu các cổ phần gọi là
cổ đông
(1)
(1
)
. CTCP được hình thành do trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển.
Vận động và phát triển là quy luật tất yếu khách quan của mọi sự vật. Tuy
nhiên với mỗi hình thái tổ chức quản lý nhất định, sự phát triển bị giới hạn bởi cơ
cấu nội tại của mô hình tổ chức quản lý đó, khi mô hình tổ chức quản lý tỏ ra quá
chật hẹp, cản trở các nhân tố nội tại thì tất yếu nó sẽ bị phá vỡ, bị thay thế bằng một
mô hình tổ chức quản lý mới tiên tiến hơn, tạo điều kiện cho sự vật phát triển.
Trong nền KTTT và nhu cầu của xã hội (XH) phải thực hiện nhiều dự án sản
xuất- kinh doanh (như đường sắt, hàng không, hàng hải, viễn thông, khai khoáng, )
và chế ngự thiên nhiên, chế ngự đối thủ cạnh tranh, mở rộng quy mô sản xuất,
chiếm lĩnh thị trường và tăng thị phần, đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ mà
từng cá nhân không thể đáp ứng nổi. Nó đòi hỏi phải huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau trong XH, thậm chí từ nhiều quốc gia. Nói cách khác CTCP ra đời do
trình độ xã hội hoá (XHH) nền sản xuất ở mức cao, đòi hỏi phải XHH về vốn.
Khi trình độ XHH sản xuất ở quy mô nhỏ thì các tư bản cá biệt hoạt động riêng

rẽ, ít có mối liên hệ với nhau, theo nguyên tắc người sở hữu vốn cũng đồng thời là
người sử dụng vốn. Vốn của ai người đó sử dụng. Hiện tượng người này sử dụng
vốn của người khác tuy có nhưng ít ỏi và rời rạc, chưa trở thành hiện tượng phổ
biến. Bởi vì, với quy mô sản xuất nhỏ, các chủ thể kinh doanh phân tán, riêng rẽ và


(1)
Luật Doanh nghiệp 1999, NXB Thống kê Hà Nội,2000.



6
rời rạc, nhu cầu vốn không lớn, do vậy chưa có mối liên hệ nội tại tất yếu.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, trình độ phân công lao động XH ngày một
cao, mối liên hệ giữa các đồng vốn cá biệt tăng lên theo hai xu hướng của sự vận
động: Nó tác động làm các đồng vốn tư nhân xô đẩy lẫn nhau, loại trừ nhau, đấu
tranh giành vị trí có lợi; Mặt khác các đồng vốn tư nhân liên kết với nhau, thu hút
nhau, xâm nhập lẫn nhau để thích ứng với những quy mô sản xuất lớn, thiết bị hiện
đại. Liên kết sản xuất tư nhân lại thành một khối, làm loại hình kinh tế mới là
CTCP xuất hiện. Theo Mác thì CTCP là điểm xuất phát để tổ chức một cách rộng
rãi hơn nữa những động lực vật chất của lao động, nghĩa là để biến dần những quá
trình sản xuất rời rạc, thủ cựu thành những quá trình sản xuất phối hợp theo quy mô
XH và được xếp đặt một cách khoa học. Ðó cũng chính là ưu việt của CTCP mà các
loại hình kinh tế khác không có được
(2)
.
CTCP có trình độ XHH cao hơn các hình thức tổ chức của các loại hình công
ty khác; Thích ứng hơn với nền sản xuất lớn văn minh tiến bộ không chỉ ở chỗ biến
đổi sở hữu tư nhân về vốn thành sở hữu tập thể hỗn hợp thích ứng với quy mô sản
xuất lớn mà còn là một kiểu tổ chức sản xuất- kinh doanh (SX-KD) khiến người có

vốn là nhà tư bản sở hữu thành nhà tư bản đầu tư trực tiếp thông qua mua cổ phiếu.
Vào đầu thế kỷ thứ 17, nhân loại đã biết đến kiểu hợp vốn CTCP này nhưng lúc đó
nó rất thưa thớt, nhỏ nhoi, chưa phải là kiểu hợp vốn phổ biến. Mác đã dự đoán loại
hình CTCP tuỳ theo trình độ XHH sản xuất mà nó sẽ trở thành phổ biến với những
CTCP mẹ, CTCP lũy thừa hai, lũy thừa ba, những CTCP khổng lồ thống trị toàn
XH
(3)
.
Ðặc biệt, đối với chủ nghĩa tư bản (CNTB) thì kiểu CTCP lại càng thích hợp,
bởi vì nhờ nó mà người ta huy động được nguồn tư bản rộng rãi nhất, nhanh và tiện
lợi nhất, tạo ra lợi thế trong cạnh tranh trên thương trường; phân tán rủi ro cho
nhiều người, nhiều chủ để tránh bị phá sản khi gặp rủi ro; CTCP có sức mạnh nhân
lên gấp bội nhờ chế độ cổ phần tham dự.
Khi trình độ XHH đòi hỏi có sự tách rời cao độ giữa quyền sở hữu và quyền sử


(2)
,
(3)
Các Mác, Tư bản quyển 3 tập I, NXB Sự thật, Hà Nội,1976


7
dụng vốn thì cũng đồng thời làm xuất hiện một lớp người quản lý giỏi, biết bắt đồng
vốn sinh lời, biết mang lại cổ tức cho cổ đông, Ðó là tầng lớp Giám đốc kinh
doanh làm thuê, biến nhà tư bản thật sự hoạt động thành một người chỉ giản đơn
điều khiển và quản lý tư bản của người khác và biến những người sở hữu tư bản
thành người sở hữu thuần túy
(4)
.

Trình độ XHH sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) làm nảy sinh CTCP, nhưng
CTCP là sản phẩm của XHH mang tính hai mặt: Một mặt, nó mang tính tiên tiến,
văn minh tiến bộ; mặt khác nó khắc phục được các giới hạn của kinh tế tư nhân
hoặc kinh tế Nhà nước, mở đường cho kinh tế tập thể phát triển. Tư bản tự nó vốn
dựa trên phương thức sản xuất XH và đòi hỏi phải có sự tập trung XH về tư liệu sản
xuất và sức lao động. Ở đâu tư bản trực tiếp mang hình thái tư bản XH (tư bản của
những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân thì những
xí nghiệp của nó cũng biểu hiện ra là những xí nghiệp XH đối lập với các xí nghiệp
tư nhân. Ðó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những giới
hạn của bản thân phương thức sản xuất TBCN. Do vậy chính CTCP là sự phủ định
chế độ TBCN
(5)
.
Mác đã khẳng định trong bộ Tư bản: 1) Khi quy mô sản xuất được mở rộng
một cách to lớn và xuất hiện những xí nghiệp mà với những tư bản riêng rẽ người ta
không thể nào thiết lập được, đồng thời có những xí nghiệp trước kia là của Chính
phủ nay được tổ chức thành CTCP; 2) CTCP là điểm quá độ để biến tất cả những
chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản giản
đơn thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp tức là chức năng
XH; 3) CTCP sẽ phát triển ở bậc lũy thừa hai, lũy thừa ba, với tốc độ mỗi ngày một
lớn mà ngày nay người ta có thể đẩy nhanh sản xuất ở trong tất cả các lĩnh vực đại
công nghiệp.
Tóm lại, ba vấn đề nổi bật cần nhận thức rõ CTCP là:
Thứ nhất: CTCP là sản phẩm của trình độ XHH sản xuất, đặc biệt là sự XHH
về vốn theo nghĩa rộng nhất của từ đó.


(4),(5)
C.Mác, Tư bản quyển 3 tập II, NXB Sự thật, Hà Nội,1978.




8
Thứ hai: CTCP là loại hình kinh tế khá phức tạp và rất rộng: có thể theo kiểu
hùn vốn, sở hữu hỗn hợp giữa nhà tư bản tư nhân với Nhà nước làm thành "Tư bản
nhà nước"; có thể đó là sự góp vốn cổ phần của những người lao động làm thành "xí
nghiệp hợp tác công nhân".
Thứ ba: Nhận thức rõ tính ưu việt, tính phổ biến của CTCP để phát huy sức
mạnh của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Mặt
khác, phải thấy tính đặc thù về phương thức sản xuất, về tính chính trị của Nhà
nước để vận dụng loại hình này trong CPH DNNN ở Việt Nam, tránh được, bớt đi
tính tư bản và tăng thêm tính định hướng XHCN trong CTCP.
CTCP không chỉ được hình thành từ sự XHH lực lượng sản xuất mà còn được
hình thành từ sự phát triển của các tổ chức và các loại hình công ty.
Trong kinh doanh có hai quy luật tác động trực tiếp làm xuất hiện CTCP, đó là
quy luật thiếu vốn trong kinh doanh và muốn kinh doanh phải có tổ chức kinh
doanh.
Về quy luật thứ nhất, sản xuất càng phát triển, quy mô càng được mở rộng thì
tình trạng thiếu vốn càng lớn. Nó có tính phổ biến. Nhân loại đã giải quyết sự thiếu
vốn đó bằng nhiều kiểu tổ chức khác nhau, trong đó kiểu huy động vốn, sở hữu vốn
và sử dụng vốn chiếm ưu thế là CTCP. Do đó, CTCP ra đời từ chính yêu cầu đáp
ứng về vốn.
Có nhiều kiểu huy động vốn như thông qua quan hệ tín dụng của ngân hàng. Ở
đây, vốn tư nhân có thể được XHH rất cao, bởi vì xuất hiện một hệ thống tổ chức đồ
sộ ngân hàng từ quốc gia đến quốc tế để thu hút vốn, cung ứng vốn nhanh nhất, so
với kiểu huy động vốn bằng cách hùn vốn của CTCP thì trình độ XHH về vốn ở
CTCP cao hơn nhiều. Cho dù ngân hàng hiện đại đến đâu thì cũng là "tài chính
trung gian", người có vốn chỉ đầu tư gián tiếp qua ngân hàng không chịu rủi ro,
không chấp nhận mạo hiểm, Do đó, đồng vốn chỉ đưa lại một tỷ lệ lãi suất luôn
phải nhỏ hơn tỷ lệ cổ tức mà thôi. Riêng Việt Nam có trường hợp ngược lại, đó là

một biến dạng đặc biệt.
Như vậy, theo quy luật thiếu vốn trong kinh doanh, các nền kinh tế đã có kiểu


9
huy động vốn mới mang tính trực tiếp, tính kinh doanh, tính chấp nhận và phân bổ
rủi ro, mạo hiểm chứ không phải tính thực lợi hoàn toàn như tư bản ngân hàng trong
CTCP.
Quy luật thứ hai là muốn kinh doanh tất yếu phải có tổ chức kinh doanh, muốn
kinh doanh có lợi nhuận cao thì phải tìm kiếm kiểu tổ chức kinh doanh có hiệu quả.
Lúc đầu người ta kinh doanh đơn lẻ, nhỏ nhoi và phân tán theo nguyên tắc vốn
của ai người đó sử dụng, tức là quyền sở hữu và quyền sử dụng đồng vốn là thống
nhất ở một người, một chủ sở hữu duy nhất. Tổ chức kinh doanh này rất đơn giản,
cấu trúc một chủ quyết định tất cả, không cần luật kế toán, luật ăn chia và các luật lệ
khác. Nguyên tắc dựa trên ngạn ngữ "kẻ có công, người có của" chưa xuất hiện ở
đây.
Sau đó, sự nghiệp kinh doanh phát triển và mở rộng, đòi hỏi phải có tổ chức
kinh doanh mới, xuất hiện các hãng, công ty, công ty chung vốn, công ty hợp vốn,
công ty hùn vốn, tức là cấu trúc bên trong của tổ chức kinh doanh đã phát triển
cao, nhiều người cùng sở hữu vốn, cùng kinh doanh, cùng chịu trách nhiệm về hiệu
quả kinh doanh, đó chính là CTCP.
1.1.1.2. Ưu nhược điểm của công ty cổ phần
* Ưu điểm của loại hình công ty ty cổ phần
Do quan hệ sở hữu trong CTCP là thuộc về các cổ đông, nên quy mô sản xuất
có khả năng được mở rộng to lớn và nhanh chóng, mà không cá nhân riêng lẻ nào
có thể thực hiện được. Kiểu tích tụ vốn dựa vào cá nhân riêng lẻ diễn ra vô cùng
chậm chạp; còn tập trung tích tụ theo kiểu CTCP bằng cách thu hút các nguồn vốn
của đông đảo các nhà đầu tư và tiết kiệm quảng đại của quần chúng, lại cho phép
tăng rất nhanh.
Vốn huy động dưới hình thức CTCP khác với vốn cho vay trên cơ sở tín dụng,

bởi vì nó không cho vay hưởng lãi mà là kiểu đầu tư chịu mạo hiểm và rủi ro. Cho
nên các CTCP có thể tồn tại được ngay cả trong trường hợp chúng chưa đem lại lợi
tức (Lợi nhuận của CTCP mang hình thái lợi tức).
CTCP có thời gian tồn tại là vô hạn (nếu không có quy định thời hạn hoạt động


10
và loại trừ trường hợp bị phá sản hoặc giải thể) vì vốn góp cổ phần có sự độc lập
nhất định với cổ đông. Người bỏ tiền ra mua cổ phần của CTCP không có quyền
rút vốn mà chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu. Các cổ phiếu có thể được tự do mua bán
trên thị trường và được quyền thừa kế. Vì vậy, khác với loại công ty khác, vốn cổ
phần đã được góp tồn tại với quá trình sống của công ty, còn chủ sở hữu có thể thay
đổi.
Trong CTCP, chức năng của vốn tách rời quyền sở hữu của nó cho phép sử
dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp. Giám đốc kinh doanh trở thành một nghề
không cần phải mang chức vụ hành chính.
CTCP tạo một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù: Chế độ trách nhiệm hữu hạn đối
với các khoản nợ trong mức vốn của công ty là san sẻ rủi ro cho các chủ nợ khi
công ty bị phá sản. Vốn tự có của công ty huy động thông qua phát hành cổ phiếu là
vốn của nhiều cổ đông khác nhau, do đó rủi ro được san sẻ. Chính vì cách thức huy
động vốn của công ty đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ
phiếu, trái phiếu của các công ty nhiều ngành khác nhau để giảm bớt tổn thất khi bị
phá sản so với đầu tư tài chính vào một hay một số công ty của cùng một ngành.
Việc ra đời của các CTCP với việc phát hành chứng khoán và cùng với việc
chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện
cho thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời. TTCK là nơi các nhà kinh doanh có thể
tìm kiếm được các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư SX-KD; là nơi khai thông
các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư; là cơ chế phân bổ
nguồn đầu tư theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường; và là cơ sở quan trọng để
Nhà nước thông qua đó có thể sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt

động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu lựa chọn. Thiếu TTCK nền
KTTT không phát triển. Song, sự ra đời của TTCK không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người mà là kết quả của sự phát triển chung về KT-XH, trong đó
có sự ra đời, hoạt động và phát triển một cách hoàn hảo của các CTCP giữ vai trò
quyết định.
CTCP tạo điều kiện tập hợp nhiều lực lượng khác nhau vào hoạt động chung


11
nhưng vẫn tôn trọng sở hữu riêng cả về quyền, trách nhiệm và lợi ích của các cổ
đông theo mức góp vốn. Mở rộng sự tham gia của các cổ đông vào CTCP, đặc biệt
là người lao động, là cách để tham gia vào các hoạt động của công ty với tư cách là
chủ sở hữu đích thực, chứ không phải với tư cách là người làm thuê. Ðiều này có ý
nghĩa quan trọng trong công tác quản lý.
* Nhược điểm của công ty cổ phần
CTCP với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những lợi nhuận cho công
ty, nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ. Rất nhiều cổ đông chỉ lo nghĩ đến
lãi cổ phần hàng năm, ít quan tâm tới công việc của DN. Sự quan tâm đến lãi cổ
phần này làm cho một số lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt, chứ không phải
sự thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, Ban lãnh đạo chỉ có thể muốn bảo toàn
hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân.
CTCP gồm đông đảo các cổ đông tham gia, nhưng trong đó đa số các chủ nhân
không biết nhau và nhiều người trong họ không hiểu kinh doanh, mức độ tham gia
góp vốn vào các công ty có sự khác nhau, do đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông
đối với công ty không giống nhau, điều đó có thể dẫn đến việc lợi dụng và lạm dụng
hoặc xảy ra tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông khác nhau.
CTCP tuy có tổ chức chặt chẽ nhưng việc phân công về quyền lực và chức năng của
từng bộ phận cho hoạt động của công ty có hiệu quả lại rất phức tạp. Nó có tính dân
chủ cao trong kinh tế, phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn, do đó quyền kiểm soát công ty
trong thực tế vẫn trong tay các cổ đông.

CTCP bị đánh thuế 2 lần: đánh vào thu nhập của công ty và đánh vào thu nhập
của từng cổ đông. Ðiều này dẫn đến một số CTCP chi trả lãi cổ phiếu cho đến
những năm có mức thuế thu nhập thấp.
CTCP gắn liền với TTCK, mà TTCK lại thường gắn với nạn đầu cơ chứng
khoán, một tệ nạn lớn trong nền kinh tế.
Việc khắc phục những hạn chế trên phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền
kinh tế, trình độ dân trí, trình độ điều hành quản lý của Nhà nước và sự hoàn hảo
của hệ thống pháp luật.


12
1.1.1.3. Vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế thị trường
CTCP là hình thức tổ chức DN phổ biến trong nền KTTT có vai trò to lớn
trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường, thể hiện
qua các tác dụng sau:
- Nó thông qua TTCK có khả năng huy động một khối lượng vốn lớn để mở
rộng quy mô SX-KD hoặc đầu tư vào những dự án lớn có khả năng thu lợi nhuận
cao trong một thời gian ngắn.
- Nó và TTCK cho phép di chuyển các nguồn vốn đầu tư trong XH một cách
mau lẹ vào những ngành, lĩnh vực có hiệu quả nhất.
- Nó tạo điều kiện cho mọi người có vốn đều có khả năng trở thành cổ đông,
thành chủ sở hữu thực sự của các DN và có khả năng đạt lợi ích cao trong quá trình
đầu tư vào công ty.
- Phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư thông qua việc đầu tư cổ phiếu vào nhiều
DN, nhiều lĩnh vực, ngành SX-KD khác nhau.
- Ổn định SX-KD lâu dài.
Do luật pháp quy định, các cổ đông không được rút vốn ra khỏi CTCP mà họ
chỉ có thể trao đổi, chuyển nhượng, thừa kế cổ phiếu. Do vậy, cổ phiếu của công ty
(vốn của công ty) tồn tại suốt thời gian đăng ký hoạt động, nhờ đó công ty không bị
ảnh hưởng về vốn khi cổ đông chết hoặc bị tù tội,

- Cơ chế, mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quản lý điều hành
được phân định minh bạch, do vậy tạo điều kiện đào tạo ra một đội ngũ cán bộ quản
lý kinh doanh giỏi, sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực của XH.
- Thúc đẩy quá trình phân công lao động XH theo hướng chuyên môn hoá cao,
điều tiết có hiệu quả các nguồn vốn, lao động và các nguồn lực vào các lĩnh vực
một cách có hiệu quả, cân đối trong nền kinh tế.
- Tạo điều kiện cho công nhân được làm chủ thực sự DN của mình và được
hưởng lợi ích của sự làm chủ đó thông qua quyền biểu quyết và cổ tức.
- Tạo điều kiện để phát triển và hoàn thiện TTCK.
- CTCP là một loại hình tổ chức quản lý DN, nó là một hợp phần tạo nên nền


13
kinh tế XHCN đa thành phần vận động theo cơ chế thị trường, góp phần cùng các
thành phần kinh tế khác phát triển KT-XH của đất nước.
1.1.2. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
Cổ phần hoá (với nghĩa chuyển thành CTCP) được hiểu là chuyển đổi những
DN hoạt động phi CTCP (Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH), công ty hợp danh, hợp tác xã) thành CTCP, nhằm mục tiêu huy động vốn
để mở rộng SX-KD, phân tán rủi ro và đạt được lợi nhuận tối đa.
Xét về mặt hình thức, CPH DNNN là chuyển DNNN thành CTCP thông qua
việc: Nhà nước giữ nguyên vốn hiện có trong DN nhưng phát hành cổ phiếu thu hút
thêm vốn, hoặc bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong DN cho
các đối tượng là tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý
và công nhân của DN bằng đấu giá công khai hay thông qua TTCK để hình thành
CTCP.
Xét về mặt thực chất, CPH là quá trình XHH sở hữu DNNN, chuyển đổi hình
thức pháp lý từ mô hình DN một chủ thuộc quyền sở hữu Nhà nước thành CTCP có
nhiều sở hữu (sở hữu cổ phần) để tạo ra mô hình DN phù hợp với KTTT, đáp ứng
nhu cầu của một nền sản xuất lớn, với mục tiêu bảo đảm sự tồn tại và phát triển

không ngừng của DN theo sự phát triển của nền KT-XH. Sự chuyển hoá này, do
vậy không phải là sự thay đổi về tên gọi, mà là sự thay đổi căn bản trên các mặt:
Thứ nhất, chuyển hoá quyền sở hữu (từ đơn sở hữu sang đa sở hữu), thay đổi
cả quyền quản lý và sử dụng, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa 3 quyền liên quan
đến vốn và tài sản của DN. Đây cũng là điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền làm
chủ thực sự của những người góp vốn và để nâng cao hiệu quả SX-KD của DN.
Thứ hai, thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ. Với cơ cấu tổ
chức chặt chẽ (ĐHCĐ; HĐQT; BKS; bộ máy điều hành) có sự phân công, phân cấp
và giám sát lẫn nhau, CTCP có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong hoạt động SX-
KD.
Thứ ba, thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và DN. Từ chỗ
Nhà nước (chủ sở hữu) chi phối toàn diện DN sang đề cao quyền tự chủ kinh doanh


14
được mở rộng và tính tự chịu trách nhiệm của DN.
Ở Việt Nam, CPH là cách nói tắt của chủ trương chuyển một số DNNN thành
CTCP, được đưa ra từ năm 1987 tại Ðiều 22 của Quyết định số 217/HÐBT ngày
14/11/1987 về đổi mới thành phần kinh tế quốc doanh, nhưng phải 2 năm sau đó,
khái niệm về CPH mới được đề cập tại khoản 2, Quyết định số 143/HÐBT ngày
10/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng: "Chuyển DN quốc doanh thành CTCP với
mục đích đảm bảo sở hữu về tài sản và sở hữu của Nhà nước, người lao động có
điều kiện thực sự làm chủ DN, huy động vốn”, nhưng chưa có sự nhận thức rõ ràng
về CPH. Ðến năm 1996, khái niệm CPH được đề cập đầy đủ và chặt chẽ hơn
"DNNN chuyển thành CTCP (hay còn gọi là CPH DNNN) là một biện pháp chuyển
DN từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần trong đó tồn tại
một phần sở hữu Nhà nước ”
(6)
.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu CPH dưới góc độ pháp lý như sau: CPH

là quá trình thực hiện XHH sở hữu, chuyển các DNNN thuộc sở hữu Nhà nước
thành CTCP thuộc sở hữu của các cổ đông thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
mua cổ phiếu.
Mục tiêu của CPH DNNN theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCH
TW Ðảng (khóa IX) là:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DN; tạo ra loại
hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực
mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho DN để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản
của Nhà nước và của DN.
- Huy động vốn của toàn XH, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức
XH trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển DN. CPH
DNNN sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước tập trung các nguồn lực đầu tư vào các
DNNN sản xuất các sản phẩm và cung cấp các dịch vụ trọng yếu của nền kinh tế.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng
cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với DN; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà


(6)
Điều 2, Thông tư số 50/TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ Tài chính v/v xác định giá trị DNNN khi chuyển sang CTCP.


15
nước, DN, nhà đầu tư và người lao động.
Mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển DNNN thành CTCP đã được thể chế hoá tại
Điều 1 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ: “1) chuyển
đổi công ty nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình
DN có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức
XH trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi
mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế; 2) Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, DN, nhà đầu tư và người lao động

trong DN”.
1.1.3. Ðặc điểm của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
Qua khái niệm trên, có thể thấy CPH DNNN có những đặc điểm sau:
- CPH là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ DNNN sang CTCP. Ðiều
đó có nghĩa là sau khi hoàn tất quy trình CPH, DN đó sẽ không tồn tại dưới loại
hình DNNN theo Luật DNNN mà chuyển sang loại hình CTCP theo Luật DN. Toàn
bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động của DN từ bản chất pháp lý, quyền và nghĩa
vụ, cơ chế quản lý đến quy chế pháp lý về thành lập, tổ chức lại, giải thể đều phải
chịu sự điều chỉnh của Luật DN, đặc biệt là những quy định về CTCP.
- CPH là biện pháp chuyển DN từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu
nhiều thành phần: Trước khi CPH, toàn bộ vốn của DN thuộc sở hữu Nhà nước.
DN không phải là chủ sở hữu mà chỉ được Nhà nước giao quyền quản lý và sử
dụng tài sản mà Nhà nước đã đầu tư để thực hiện các mục tiêu KT-XH do Nhà nước
giao. Khi CPH, sau khi xác định giá trị DN (xác định phần sẽ chuyển đổi sở hữu),
xác định số lượng cổ phiếu phát hành, Nhà nước bán cổ phiếu cho các cá nhân, tổ
chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Những người mua cổ phiếu trở thành cổ đông
của CTCP, có quyền sở hữu chung đối với công ty theo tỷ lệ phần vốn góp, đồng
thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tương ứng với phần
vốn góp. Mọi tổ chức kinh tế, tổ chức XH, công dân Việt Nam đều có quyền mua
cổ phần ở các DN CPH với số lượng không hạn chế; còn các DN có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam, người Việt Nam


16
định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của các DN CPH theo quy định của pháp
luật Việt Nam
(7)
.
- CPH là biện pháp duy trì sở hữu Nhà nước đối với tư liệu sản xuất dưới hình
thức CTCP. Khi thực hiện CPH, Nhà nước không tiến hành chuyển tất cả các

DNNN đang tồn tại thành CTCP thuộc sở hữu nhiều thành phần mà chỉ chuyển một
bộ phận DNNN không giữ vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân và
có khả năng kinh doanh có lãi. Trong nhiều DNNN CPH, Nhà nước luôn là một cổ
đông, chỉ trừ các CTCP mà Nhà nước không tham gia cổ phần. Trường hợp DNNN
CPH mà Nhà nước có cổ phần chi phối trong DN (cổ phần của Nhà nước chiếm trên
50% tổng số cổ phần của DN hoặc cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp hai lần số cổ
phần của cổ đông lớn nhất khác trong DN) thì những DN đó thực chất vẫn ở trong
sự kiểm soát của Nhà nước và thông qua cơ chế bỏ phiếu trong công ty đối vốn,
Nhà nước vẫn quyết định khá nhiều công việc quan trọng liên quan đến hoạt động
của DN.
- CPH DNNN chỉ diễn ra đối với loại hình DNNN, đó là quá trình chuyển các
DN một chủ thuộc sở hữu Nhà nước thành các CTCP thuộc sở hữu của các cổ đông
từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Quá trình CPH được tiến hành thông qua các
phương pháp sau:
+ Bán cổ phần cho công chúng: Nhà nước bán toàn bộ hay một phần sở hữu
nhà nước trong DN cho công chúng, thường được thực hiện thông qua sở giao dịch
chứng khoán hay một tổ chức tài chính trung gian. Cũng có khi việc bán cổ phần
cho công chúng được thực hiện cùng với các biện pháp khác như bán một phần nhất
định cổ phần cho một số nhà đầu tư được định trước. Thông qua việc bán cổ phần
cho công chúng cho phép các tầng lớp dân cư rộng rãi có thể mua được cổ phần, vì
vậy việc bán cổ phần cho công chúng đòi hỏi DN phải có tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn và
đồng thời có các biện pháp bảo đảm độ an toàn tối thiểu cho công chúng mua cổ
phần.
+ Bán cổ phần cho tư nhân: Nhà nước bán một phần hay toàn bộ số cổ phần


(7)
Ðiều 4, Nghị định 187/2004/NÐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển công ty Nhà nước thành CTCP.



17
của DN thuộc sở hữu một phần hay hoàn toàn của Nhà nước cho một số cá nhân
hay một nhóm nhà đầu tư tư nhân thông qua đấu thầu có tính cạnh tranh hay những
người mua đã được xác định trước. Phương pháp này thường được ưu tiên sử dụng
đối với các DNNN đang hoạt động yếu kém, những DNNN cần những người lãnh
đạo có trình độ và kinh nghiệm về kỹ thuật, tài chính, quản lý và thương mại hay
những DN có quy mô nhỏ để có thể bán rộng rãi cho công chúng.
+ Những người quản lý và lao động mua DN: phương pháp này thường được
lựa chọn để thực hiện đối với các DN vừa và nhỏ, tạo sự khuyến khích đối với việc
tăng năng suất lao động, đồng thời cũng là cách giải quyết vấn đề lao động tránh
giải thể DN. Nói chung phương pháp này được thực hiện với kết quả rất hạn chế ở
các nước, nhưng lại được áp dụng rất phổ biến trong thời gian qua ở Việt Nam nói
chung, ở tỉnh Hải Dương nói riêng.
+ Gọi vốn góp cổ phần: Hình thức này làm giảm tỷ trọng vốn thuộc sở hữu
nhà nước, chuyển DN thuộc sở hữu nhà nước sang DN thuộc sở hữu nhiều thành
phần hoạt động theo Luật DN. Giá trị tài sản thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại DN
được giữ nguyên, DN sẽ phát hành cổ phiếu để gọi thêm vốn, thu hút các thành
phần kinh tế góp cổ phần để phát triển DN. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào
quy mô và nhu cầu của CTCP, cơ cấu vốn điều lệ của CTCP được phản ánh trong
phương án CPH.
Ðiều 3 Nghị định 187/2004/NÐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định
3 hình thức CPH DNNN như sau: Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát
hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những DN CPH có nhu cầu tăng
thêm vốn điều lệ; Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán
bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn; Bán toàn
bộ vốn Nhà nước hiện có tại DN hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn Nhà nước vừa
phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
1.1.4. Tính tất yếu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
Hiện nay, kinh tế Nhà nước có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và là
một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Có thể nói, khu vực



18
kinh tế nhà nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của Nhà nước, vừa thực hiện
chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng XH, góp phần đảm bảo sự tăng
trưởng và ổn định nền kinh tế mỗi nước. Trên thực tế, không một nước nào lại
không sử dụng các DNNN ở những lĩnh vực quan trọng nhằm thực hiện chức năng
điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích toàn XH. Tuy nhiên, khi kinh tế nhà nước
phát triển quá giới hạn hợp lý thì sẽ kìm hãm sự tăng trưởng, làm cho nền kinh tế
nhiều nước rơi vào sự trì trệ kéo dài.
Cuối những năm 1970 và thập kỷ 80, xu hướng phổ biến ở hầu hết các nước là
đánh giá lại vai trò và hiệu quả KT - XH của khu vực kinh tế nhà nước. Do cơ cấu
DNNN, mô hình tổ chức quản lý cũng như hiệu quả hoạt động SX-KD của DNNN
còn nhiều tồn tại yếu kém, bất cập; sự thâm hụt ngân sách của các quốc gia và Nhà
nước cũng không cần thiết phải đầu tư vào tất cả các lĩnh vực SX-KD mà chỉ cần
tập trung đầu tư vào những sản phẩm, ngành, lĩnh vực giữ địa vị trọng yếu của nền
kinh tế, tạo điều kiện giúp Nhà nước tác động, can thiệp vào nền kinh tế khi cần
thiết nhằm đảm bảo ổn định và phát triển sản xuất, điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ
mô, giữ vững an ninh- quốc phòng, an toàn XH, hoặc đầu tư vào các lĩnh vực công
ích mà các thành phần kinh tế khác chưa hoặc không muốn đầu tư, nhưng nhu cầu
của XH là không thể thiếu được; sức ép các tổ chức quốc tế như IMF, WB đã dẫn
đến xu hướng phổ biến là phải cải cách hệ thống DNNN thông qua việc CPH và tư
nhân hoá nhằm thu hẹp, thậm chí loại bỏ DNNN trong nhiều ngành, lĩnh vực, hình
thành mô hình kinh tế hỗn hợp, tạo điều kiện để người lao động thực sự được làm
chủ DN, tạo sự cân bằng hợp lý giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân.
Trong những năm 1980, quá trình chuyển đổi sở hữu nhà nước đã trở thành
một hiện tượng kinh tế chủ yếu trên toàn thế giới. Chỉ tính từ năm 1984 đến năm
1991, trên thế giới đã có 250 tỷ USD tài sản nhà nước đem bán và chỉ riêng năm
1991 đã chiếm khoảng 50 tỷ USD. Làn sóng CPH được khởi đầu từ Vương quốc
Anh vào cuối những năm 1970. Sau đó quá trình này lần lượt diễn ra ở tất cả các

nước công nghiệp phát triển với nhiều hình thức phong phú, trong đó CPH là hình
thức được lựa chọn phổ biến nhất. Ðến nay đã có hơn 80 nước đang phát triển đều


19
xây dựng và thực hiện các kế hoạch CPH một cách tích cực.
Ðối với các nước đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu bao cấp sang nền KTTT thì với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư
nhân là động lực phát triển mà trước đó nó không được phép tồn tại và hoạt động.
Quá trình CPH nhanh chóng và rộng lớn ở các nước này đã được coi là giải pháp
trọng tâm để khắc phục sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của các DNNN, là
một đòi hỏi khách quan nhằm để đáp ứng những yêu cầu về cải cách, đổi mới khu
vực kinh tế nhà nước cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới.
Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
là một chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta nhằm đẩy nhanh
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do những nguyên nhân lịch sử, sự phát triển tràn
lan các DNNN trong các ngành và các lĩnh vực của đời sống KT-XH, cùng với sự
hoạt động kém hiệu quả của phần lớn các DNNN đã cản trở trực tiếp việc phát huy
vai trò của chúng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và tạo nên gánh nặng trong
quản lý vĩ mô nền kinh tế. Bởi vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN theo
hướng Nhà nước tập trung nắm giữ các DN then chốt, trọng điểm và cần thiết (như
một số DN công ích, ) của nền kinh tế quốc dân; thực hiện các biện pháp chuyển
đổi hình thức sở hữu đối với các DNNN khác, trong đó có CPH là một nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Tính tất
yếu của CPH DNNN được thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:
1.1.4.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những giải pháp
quan trọng nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển
kinh tế
CPH DNNN nhằm chuyển đổi một phần sở hữu Nhà nước trong DN cho các
cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, thu hút được

nguồn vốn dồi dào để đầu tư phát triển đất nước, đồng thời khuyến khích kinh tế tư
nhân phát triển, tạo sự cân bằng giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, nâng cao
tính cạnh tranh và tạo động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế.
Vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mỗi DN và là chìa khoá cho sự


20
phát triển toàn bộ nền kinh tế. Hiện nay, có thực trạng là nền kinh tế và DN cần vốn
để phát triển, nhưng phần lớn nguồn lực tài chính trong dân cư và nhiều tổ chức
chưa được huy động để phục vụ yêu cầu phát triển.
Thị trường vốn của Việt Nam đã được hình thành, nhưng hiện nay nguồn vốn
chủ yếu mà các DN có thể huy động vẫn là vốn tín dụng, mà chủ yếu lại là tín dụng
ngắn hạn đáp ứng các chi tiêu thường xuyên của DN, nguồn tín dụng trung hạn và
dài hạn cho đầu tư phát triển rất hạn hẹp. Bên cạnh đó, việc tiếp cận với các nguồn
vốn từ các thương mại không phải dễ dàng.
Việc CPH, bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của các DNNN cho người lao
động trong DN, cho các pháp nhân và thể nhân, thực hiện đa dạng hoá hình thức sở
hữu, tạo điều kiện để huy động và thu hút vốn đầu tư sẵn có vào phát triển kinh tế.
CTCP có thể thu hút nguồn vốn lớn của các tổ chức, kể cả thương mại và công ty
tài chính, đến các nguồn vốn nhỏ bé và phân tán của các thể nhân. Vai trò của
CTCP trong việc huy động vốn sẽ được nâng cao hơn khi TTCK phát triển và hoạt
động ổn định. Ở đó cổ phiếu của các CTCP là hàng hoá được người mua quan tâm.
CPH sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình thành lập TTCK. Trong quá trình CPH,
DNNN sẽ phát hành thêm nhiều cổ phiếu để gọi vốn. Do đó, để cho các cổ phiếu
được mua bán, lưu chuyển thuận tiện trên thị trường cần phải có một thị trường
chứng khoán phát triển. Việc TTCK đi vào hoạt động sẽ là điều kiện tốt để thúc đẩy
quá trình CPH, thu hút vốn trong và ngoài nước.
Do quyền tự chủ kinh doanh của các CTCP được mở rộng và vì lợi ích thiết
thân của mình, các thành viên của CTCP phải tích cực quan tâm đến công tác quản
lý và hiệu quả SX-KD, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh

trên thị trường nên hiệu quả kinh doanh của CTCP được bảo đảm và nâng cao. Đây
là điều kiện tiên quyết để thu hút vốn đầu tư. Đến lượt mình, những điều đó lại là cơ
sở để nâng cao hiệu quả SX-KD.
1.1.4.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tác động tích cực đến đổi mới
quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Chuyển từ DNNN sang CTCP không chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là


21
sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở mỗi DN và hoạt động quản lý toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Ở DN, sự thay đổi này thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động SX-KD thay đổi: Các cổ đông thực
hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc lựa chọn và bầu những người có đủ năng
lực và uy tín vào HĐQT và BKS; Giám đốc điều hành được HĐQT lựa chọn và bổ
nhiệm.
- Công ty chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến đầu
tư và hoạt động SX-KD. Những quyết định đó được đưa ra trên cơ sở tính tự chịu
trách nhiệm về kết quả SX-KD, tôn trọng pháp luật và sự biến động của môi trường
KD, trong đó quan trọng hàng đầu là sự biến động của thị trường.
- Năng lực, trình độ và bản lĩnh kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý buộc
ngày càng phải được nâng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, không thể dựa dẫm,
ỷ lại vào Nhà nước hoặc tập thể. Quá trình SX-KD, việc sử dụng lao động, tổ chức
bộ máy quản lý được thực hiện hợp lý hơn, tinh gọn và có hiệu quả hơn, các chi phí
SX-KD, trong đó có chi phí quản lý được giảm thiểu.
- Trong hoạt động của mình, CTCP vẫn phải thực hiện những mục tiêu XH
nhất định, nhưng gánh nặng đó được giảm bớt đến mức hợp lý. Do quyền lợi và
trách nhiệm thiết thân, hiệu quả kinh doanh trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các nhà quản lý, điều hành cũng như toàn thể cổ đông.
Đối với quản lý nhà nước, sự thay đổi này thể hiện trên những khía cạnh sau:

- Thay đổi phương thức quản lý: Nhà nước không thể tác động trực tiếp đến
DN với tư cách là người chủ sở hữu của DN, mà phải chú trọng hơn đến việc tạo
khuôn khổ pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng
của các loại hình tổ chức kinh doanh.
- Thúc đẩy sự phân định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với
chức năng quản lý SX-KD của DN.
- Thúc đẩy việc cải cách hành chính, nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội
ngũ công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.


22
1.1.4.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho người góp
vốn thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình với hoạt động của doanh nghiệp
Chuyển sang CTCP, vốn và tài sản thuộc sở hữu của tập thể các cổ đông. Một
bộ phận trong các cổ đông trước đây là những người lao động trong DNNN trở
thành người chủ sở hữu đích thực của công ty chứ không còn là người chủ hình
thức như khi còn là DNNN, họ cùng với những cổ đông khác tham gia vào quá trình
quản lý, điều hành hoạt động SX-KD của công ty nhằm đạt được những mục tiêu đã
định. Đây vừa là quyền lợi thiết thân , vừa là trách nhiệm thiết thân của họ.
Khi đầu tư mua cổ phiếu của công ty, tức là đầu tư vào CTCP, mỗi người đã có
sự suy nghĩ, cân nhắc trên nhiều mặt, mà mối quan tâm hàng đầu là đầu tư đó phải
sinh lợi. Khả năng sinh lợi của đầu tư ấy lại phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả kinh
doanh của CTCP. Là chủ đầu tư - chủ sở hữu, cổ đông quan tâm và có quyền tham
gia trực tiếp vào quá trình quản lý, điều hành của công ty theo đúng quy định của
pháp luật và Điều lệ CTCP. Điều này góp phần xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước,
kích thích mọi người phát huy hết khả năng của mình vì sự phát triển và hưng thịnh
của DN.
Quá trình CPH tạo cho người lao động được thực sự làm chủ DN thông qua
việc mua cổ phần của DN, đồng thời cũng xác định được người chủ của DN sau khi
CPH, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc góp phần vào việc tăng năng suất,

chất lượng, hiệu quả của DN.
1.2. KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HOÁ Ở MỘT SỐ NƢỚC VÀ BÀI HỌC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.2.1. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nƣớc
Tính phi hiệu quả của DNNN đã trở thành một vấn nạn chung ở các nước trên
thế giới, đòi hỏi họ phải tiến hành cải cách các DNNN, mà tư nhân hoá là một trong
những xu hướng được áp dụng rộng rãi. Các nước trên thế giới thường đồng nhất
hai thuật ngữ và hai quá trình CPH và tư nhân hoá là một. Nói chính xác hơn, thuật
ngữ quá trình tư nhân hoá là quá trình phi Nhà nước hoá DN. Các nước này ít đưa
ra chương trình, kế hoạch CPH mà hầu hết đều đưa ra chương trình tư nhân hoá,


23
trong đó tư nhân hoá các DNNN là một nội dung quan trọng. Do vậy, khi tham khảo
tài liệu các nước, có thể hiểu quá trình tư nhân hoá bao gồm quá trình CPH và tư
nhân hoá. Các quốc gia khi nhận thấy CTCP là một hình thức tổ chức quản lý ưu việt,
đều xúc tiến quá trình CPH DNNN, tuỳ theo điều kiện đặc thù và mục tiêu của mình
mà quy mô, phạm vi, tốc độ CPH diễn ra khác nhau.
CPH là vấn đề mới mẻ và phức tạp đối với Việt Nam nói chung, Hải Dương
nói riêng, chúng ta còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực
hiện hệ thống luật pháp, thủ tục pháp lý liên quan. Vì vậy, việc tham khảo những
kinh nghiệm CPH, tư nhân hoá của nước ngoài, nhất là kinh nghiệm của các nước
có điều kiện, hoàn cảnh tương tự như nước ta là vấn đề hết sức cần thiết.
* Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Malaysia.
Malayxia có điểm xuất phát trong cải cách nền kinh tế tương đồng với Việt
Nam. Tiến trình cải cách khu vực DNNN ở Malaysia mang tính triệt để và mạnh mẽ
nhất so với các nước trong khu vực. Xuất phát từ mục tiêu của tư nhân hoá là thu
hẹp một phần sở hữu Nhà nước với chủ trương không chỉ bán các xí nghiệp quốc
doanh làm ăn kém hiệu quả mà còn bán cả các xí nghiệp hoạt động có lãi. Phải gắn
với chính sách kinh tế mới nhằm nâng cao địa vị XH và bảo vệ tài sản cho nhóm

dân tộc Bumiputa. Theo tinh thần đó, Malaysia giữ lại phần nào quyền kiểm soát
của Chính phủ trong các DNNN đã tư nhân hoá và giữ lại một số cổ phần cho các
định chế thuộc khu vực công làm tăng thêm tài sản của người Bumiputa, hơn nữa
người Bumiputa còn được quyền ưu tiên mua cổ phần.
Malaysia thiết lập một chương trình tư nhân hoá tổng thể và coi đó là lộ trình
tư nhân hoá với 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu, cơ cấu lại và hợp lý hoá các DNNN, tạo
cho các DNNN có một sức hút các nhà đầu tư thông qua hiệu quả kinh tế của các
DN này được nâng lên. Giai đoạn hai, tư nhân hoá mở rộng.
Chính phủ không lựa chọn DNNN để tư nhân hoá mà thông qua giai đoạn một
tạo dựng cho DN chỗ đứng và kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân trong việc lựa chọn
DNNN đưa ra đề án tư nhân hoá. Ðiều kiện để một đề án được chuẩn y đó là đề án
phải đảm bảo sự hoạt động có lợi nhuận của các DN; phải đảm bảo các yêu cầu về

×