Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.97 KB, 84 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LƢU THỊ THU HƢƠNG




CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI - 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LƢU THỊ THU HƢƠNG



CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ rất nhiều từ người thầy mẫu mực và tận tâm – PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, các giảng viên của Khoa sau đại học, ĐHQG Hà Nội, cũng như
sự động viên khích lệ từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp. Tôi xin trân
trọng gửi lời cảm ơn đến gia đình, các thầy cô cùng các bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn thạc sỹ này.


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.



Tác giả luận văn





Lƣu Thị Thu Hƣơng

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Chú giải
BLHS
Bộ luật hình sự
PLHS
Pháp luật hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự




MỤC LỤC

Nội dung
Trang



1.1.



1.2.
Lời mở đầu
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tƣ pháp
trong pháp luật hình sự Việt Nam
Quan niệm chung về biện pháp tƣ pháp
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp hình
sự
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của biện pháp tư pháp hình sự
Phân biệt biện pháp tƣ pháp với hình phạt và các biện pháp
cƣỡng chế hành chính


1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp với hình phạt


1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp với các biện pháp cưỡng chế
hành chính


1.3.
Quy định các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự một số
nƣớc


Chƣơng 2: Các biện pháp tƣ pháp theo Luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng

2.1







Khái quát lịch sử pháp Luật hình sự Việt Nam quy định về
các biện pháp tƣ pháp
2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999


2.2.
Các quy định về biện pháp tƣ pháp trong Bộ luật hình sự






2.3.
năm 1999
2.2.1. Biện pháp tư pháp chung
2.2.2. Biện pháp tư pháp riêng
Thực tiễn áp dụng các biện pháp tƣ pháp; những tồn tại,
hạn chế trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của nó
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các biện
pháp tư pháp
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
áp dụng các biện pháp tư pháp

Chƣơng 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện
quy định về các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt
Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng

3.1.
Nhu cầu, quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp
tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả
áp dụng


3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp
trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng


3.1.2.Quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp
trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng


3.2.
Các giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp tƣ
pháp trong Luật hình sự Việt Nam

3.3.
Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt
Nam


Kết luận


Tài liệu tham khảo


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu
cấp thiết hơn việc ăn, ở, mặc… mà còn giải trí, giao lưu xã hội. Sự mở rộng
một cách đa dạng các mối quan hệ hiện nay không chỉ mang đến những thành
tựu về khoa học xã hội, kinh tế - chính trị, đồng thời lại mang đến những mặt
tiêu cực, lối sống cực đoan, và kết quả tất yếu là tình hình tội phạm ngày càng
phức tạp. Trước tình hình thực tế đó, Nhà nước đã áp dụng rất nhiều các chế
tài trong pháp luật hình sự để kiểm soát và hạn chế tội phạm, trong đó không
thể không kể đến các biện pháp tư pháp hình sự.
Tại Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự vào thực

tiễn đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và giải đáp để có thể
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Thực
tiễn cho thấy, việc áp dụng các chế tài hình sự còn chưa mang lại những
hiệu quả thiết thực đối với phòng chống tội phạm. Việc xem xét hành vi
phạm tội và quyết định hình phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm
tội, nhất là người chưa thành niên phạm tội cần được quan tâm đến một cách
sát sao hơn.
Vì những lý do trên cũng như quan tâm đến xu hướng pháp luật hình
sự thế giới mà Đảng và Nhà nước ta có những quyết sách kịp thời trong cải
cách hệ thống tư pháp và hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự
là rất cần thiết. Sự ra đời của Nghị quyết số 08-NQ/TW về cải cách tư pháp
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số
49/2005/NQ-QH 11 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2006

2
ngày 19/11/2005 của Quốc hội cũng như việc sửa đổi Bộ luật Hình sự năm
1999 (năm 2009) đã thể hiện rất rõ xu hướng này.
Toàn bộ những phân tích và dẫn chứng trong việc áp dụng biện pháp
tư pháp hình sự đều trên cơ sở thực tiễn, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật cũng như cải cách tư pháp làm cho việc nghiên cứu đề tài "Các biện
pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam" trong thời điểm hiện nay
đạt được hiệu quả cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ pháp lý, trong thời gian qua các biện pháp tư pháp hình
sự đã được quan tâm rất nhiều và đề cập đến trong pháp luật hình sự, pháp
luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật thi hành án hình sự.
Nhưng trước đây, chưa có bất cứ công trình khoa học nào nghiên cứu
sâu sắc về việc này, các nhà làm luật trước đó, chỉ đặt ra các quy định mang

tính chất ước lệ. Những đề tài nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung:
- Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn đề
hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
đó, của TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí luật học, số 5/2000.
- Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, của Hồ Sĩ
Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2004.
- Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự
do và các biện pháp tư pháp, của TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 02/2004.
- Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại
Việt Nam, Thông tin khoa học chuyên đề, Viện khoa học pháp lý, 2000.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự với người chưa
thành niên phạm tội, của Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức Lợi, Đề tài nghiên cứu cấp
trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005.

3
- Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội những khía
cạnh tội phạm học, của TSKH.PGS Lê Cảm - ThS. Đỗ Thị Phượng, Tạp chí
tòa án nhân dân, số 22/2004.
Đến Luật Thi hành án hình sự năm 2010, việc thi hành đã được quy
định một cách cụ thể, rõ ràng nhưng chưa được áp dụng một cách triệt để và
hiệu quả.
Vì thế, ở luận văn này, đề tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh của
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự
đối với các biện pháp tư pháp hình sự; cũng như thực tiễn áp dụng các biện
pháp tư pháp này. Thông qua đó, việc nghiên cứu các vấn đề này sẽ giúp
chúng ta có cách tiếp cận toàn diện hơn trong việc áp dụng các biện pháp tư
pháp, giúp chúng ta hiểu rõ và thực thi chúng một cách có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận, cùng với việc áp dụng biện pháp tư
pháp trong thực tiễn, luận văn đi sâu phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau về
biện pháp tư pháp hình sự: quy định pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình
sự, pháp luật thi hành án hình sự, xu hướng, cũng như nguyên nhân và điều
kiện áp dụng, việc áp dụng trên thực tiễn. Từ sự phân tích này, tác giả luận văn
đã đề xuất một số giải pháp cho việc áp dụng các biện pháp tư pháp phù hợp
pháp luật, thực tiễn, cũng như xu hướng quốc tế và thực trạng tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu là:
- Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp
trong pháp luật hình sự như: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, bản chất và điều
kiện áp dụng của các biện pháp tư pháp.

4
- Phân tích các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp trong
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật về thi hành án hình sự cũng như thực tiễn
áp dụng chúng.
- Rút ra các điểm hạn chế của việc áp dụng, thi hành chúng trong thực
tiễn cũng như các nguyên nhân của các hạn chế đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề về lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự. Những vấn đề này
được nghiên cứu trên cơ sở các quy định pháp luật hình sự, quy định pháp
luật về tố tụng hình sự, quy định pháp luật về thi hành án hình sự, cũng như
các quan điểm về chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như xu hướng áp
dụng tại Việt Nam trong thời gian tới và trên thế giới.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là lý luận về các biện pháp tư
pháp hình sự trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật
về thi hành án hình sự. Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu trên cơ sở của

việc áp dụng thực tiễn các quy định pháp luật hình sự và thi hành biện pháp tư
pháp hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề nên luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu các vấn đề lý luận, cũng như hoạt động áp dụng và thi hành các
biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn. Các hoạt động khác đều không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
Về thực tiễn, luận văn giới hạn nghiên cứu các nội dung nêu trên trong
pháp luật hình sự hiện hành để tìm ra những điểm cơ bản trong thực tiễn đó.
Tuy nhiên do nguồn tài liệu còn hạn chế, nên nhiều dữ liệu còn chưa được cập

5
nhật một cách hoàn chỉnh. Những số liệu được thống kê trong luận văn này là
từ các bản án từ trong 05 năm trở lại đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận của việc nghiên cứu và quán triệt chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách hình sự, so sánh đối chiếu với pháp luật thực định, luận văn đã sử
dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Đó là các phương pháp: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê về việc
áp dụng biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn trên cả tư tưởng, quy định
vật chất, cũng như quy định hình thức và việc áp dụng trên thực tiễn (thi hành
án hình sự về biện pháp tư pháp).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Về mặt lý luận
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị việc áp
dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn góp phần hoàn
thiện các biện pháp tư pháp này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm rõ thêm các quan điểm lý luận
khoa học về định hướng áp dụng biện pháp tư pháp này. Ngoài ra kết quả

nghiên cứu đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành
án hình sự.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là ý kiến hữu ích trong hoạt động
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng
hình sự, pháp luật thi hành án hình sự trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội nói chung và người chưa

6
thành phạm tội chưa thành niên nói riêng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài
liệu có thể làm căn cứ sửa đổi pháp luật hiện hành và tiến đến hoàn thiện hệ
thống tư pháp hình sự trong tương lai.
Tóm lại, đây là công trình nghiên cứu về cả lý luận và thực tiễn của
biện pháp tư pháp hình sự. Luận văn phân tích một cách cụ thể và toàn diện
các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp hình sự. Phân tích,
đánh giá chi tiết từng điều kiện, đặc điểm của các biện pháp tư pháp hình sự
đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế, nghiên cứu nhằm đưa ra
các giải pháp kiến nghị, hoàn thiện các quy định với việc xử lý người phạm
tội bằng biện pháp tư pháp, từ đó nâng cao và tăng cường hiệu quả áp dụng của
pháp luật góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tư pháp trong pháp
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện quy định về
các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tƣ pháp
Khi nghiên cứu lý luận về các biện pháp tư pháp hình sự, việc xem xét
khái niệm của nó là hết sức quan trọng, song nếu chỉ nghiên cứu trên khía
cạnh lý luận thì chưa đủ, mà cần phải xem xét trên cả khía cạnh pháp luật
hình sự thực định cũng như thực tiễn áp dụng. Chúng ta cùng điểm qua một
số khía cạnh để xem xét khái niệm cơ bản của các biện pháp tư pháp:
* Pháp luật hình sự thực định:
Pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 cho đến năm 1986 (pháp điển hóa lần 1) thì chưa xây dựng định
nghĩa pháp lý của khái niệm các biện pháp tư pháp hình sự, cũng như chưa
từng được ghi nhận về mặt lập pháp.
Pháp điển hóa lần thứ 2 (năm 1999), khái niệm pháp lý của "biện pháp
tư pháp" cũng chưa được chính thức ghi nhận trong pháp luật thực định.
Như vậy, có thể nói mặc dù các biện pháp tư pháp hình sự là một chế
định hết sức quan trọng, song hành cùng hình phạt để hoàn thiện hệ thống chế
tài hình sự, nhưng lại chưa được ghi nhận một cách chính thống. Việc chưa đề
cập đến nó trên cơ sở pháp luật thực định là một điểm thiếu sót cần được xem xét.
* Trong lý luận luật hình sự:
Từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự của thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng, khái niệm về các biện pháp tư pháp có rất nhiều tranh

8
cãi, ý kiến khác nhau; song vẫn chưa có một quan điểm thống nhất nào, cụ

thể là:
- Khoa học luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm coi các biện
pháp tư pháp là: Biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt, chỉ có tính
chất hành chính, dân sự nhưng được quyết định ngay trong vụ án hình sự. Ngoài
ra các biện pháp được áp dụng chung đối với bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
"Biện pháp tư pháp hình sự là các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình
sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt" [30, tr. 194].
Như vậy, tổng kết các quan điểm khác nhau về khái niệm các biện
pháp tư pháp, đồng thời căn cứ vào quá trình lập pháp, xây dựng hệ thống các
quy phạm pháp luật về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt
Nam, chúng ta có thể đưa ra khái niệm khoa học về các biện pháp tư pháp
hình sự: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước
ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định và được
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do
của người đó, hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt.
Từ những quan điểm về khái niệm "Biện pháp tư pháp" và khái niệm
khoa học nêu trên, có thể thấy biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp
cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, có những đặc điểm
cơ bản (dấu hiệu) sau:
Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình
sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt mà hậu quả pháp lý của việc áp dụng
nó là người phạm tội không bị coi là có án tích nếu như biện pháp tư pháp
được áp dụng độc lập đối với người đó mà không kèm hình phạt.

9
Thực chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc
nhất của Nhà nước so với tất cả các biện pháp cưỡng chế khác; mà khi áp

dụng hình phạt đối với người phạm tội, thì hậu quả pháp lý là người phạm tội
sẽ có án tích. Do đó, với tính chất là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, các
biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng đồng thời với hình phạt, thì người
phạm tội sẽ có hậu quả pháp lý là có án tích; còn nếu như áp dụng độc lập mà
không kèm hình phạt (ví dụ như khi người đó được miễn hình phạt, mà chỉ áp
dụng biện pháp tư pháp) thì người đó không bị coi là có án tích.
Đặc điểm thứ hai: Với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự
và là một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự trong văn bản của Cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể xuất
hiện khi có sự việc phạm tội.
Chỉ khi có tội phạm cùng đầy đủ các dấu hiệu của nó, thì mới có thể
xác định được trách nhiệm hình sự và mới có thể có biện pháp tư pháp hình
sự với tư cách là biện pháp ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
Khi xảy ra sự kiện phạm tội, theo quy định pháp luật hình sự, Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, tùy theo giai đoạn tố tụng nhất định (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) xác định trách nhiệm hình sự đối với người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, có
lỗi (vô ý hoặc cố ý), đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng buộc người phạm tội
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, đồng thời quyết định
hình phạt; kèm theo hoặc áp dụng độc lập các biện pháp tư pháp.
Nếu không có hành vi phạm tội xảy ra, thì người bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế khác không phải là biện pháp tư pháp hình sự mà có thể là các biện
pháp tư pháp hành chính, dân sự…
Đặc điểm thứ ba: Khác với hình phạt, căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể, biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt (từ điều 41-43

10
Bộ luật Hình sự năm 1999) có thể do cơ quan tư pháp hình sự khác có thẩm
quyền như là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án… áp dụng đối với

người phạm tội nói chung (kể cả người bị kết án); còn với các biện pháp tư
pháp thay thế hình phạt (Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999), thì chỉ có thể do
Tòa án áp dụng với người bị kết án nói riêng.
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đối với người phạm tội
được xác định ở phạm vi rất rộng lớn. Không như hình phạt, chỉ có thể áp
dụng sau khi bị kết án, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể
bị áp dụng biện pháp tư pháp hình sự ngay từ giai đoạn điều tra khi có dấu
hiệu phạm tội; nhưng thực tế, để quyết định việc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự hay không, để xử lý với tài sản bị xâm phạm, hoặc đối với việc
bồi thường, xin lỗi công khai, bắt buộc chữa bệnh, thì chỉ có Tòa án là có
thẩm quyền. Còn trước đó, những biện pháp này chỉ được áp dụng tạm thời,
có thể bị thay đổi sau khi Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết cuối cùng.
Đặc điểm thứ tư: Biện pháp tư pháp chỉ nhằm hạn chế, chứ không
tước đoạt quyền, tự do của người phạm tội; hoặc để hỗ trợ hay thay thế cho
hình phạt.
Với những trường hợp buộc áp dụng biện pháp tư pháp, thì dù mang
tính cưỡng chế, nhưng chỉ hạn chế phần nào quyền lợi của người bị kết án mà
không nhằm tước đi quyền, tự do của người phạm tội. Điều đó được thể hiện
rõ ràng nhất ở quy định của từng biện pháp tư pháp hình sự.
Ví như biện pháp tư pháp "Giáo dục tại xã, phường thị trấn" người bị
áp dụng mặc dù bị hạn chế về quyền lợi (không được ra khỏi nơi cư trú nếu
không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền) nhưng cũng không hoàn
toàn mất đi sự tự do của mình, họ vẫn có quyền đi lại, tham gia các phong
trào, hoạt động của tổ chức, xã hội tại nơi cư trú; thậm chí làm ăn, sinh hoạt
không khác nhiều so với những người bình thường.

11
Hoặc việc bắt buộc chữa bệnh đối với những người có bệnh lý bị hạn
chế về nhận thức hoặc điều khiển hành vi, khiến việc phạm tội của họ không
phải là cố ý; mà do bệnh lý khiến họ hành động trái quy định pháp luật. Do

đó, việc bắt buộc chữa bệnh, tuy là một trong số những biện pháp tư pháp
nhưng lại mang tính chất giúp đỡ người phạm tội có bệnh hơn là trừng phạt;
bản thân người bị áp dụng biện pháp này vẫn được sinh hoạt như những người
bệnh không phạm tội khác, vẫn có những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Việc có áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp hình sự khác sau khi
hoàn tất việc chữa bệnh, sẽ do Hội đồng xét xử xem xét tùy tình huống cụ thể.
Đặc điểm thứ năm: Cũng như các biện pháp cưỡng chế khác về hình
sự, các biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình sự và phải
do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự đặc biệt
do luật tố tụng hình sự quy định. Không phải bất cứ Cơ quan nhà nước nào
cũng được phép áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự; mặc dù một số biện
pháp tư pháp hình sự có vẻ giống như biện pháp cưỡng chế hành chính, dân
sự (tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và tịch thu sung công
quỹ; hoặc phạt tiền) nhưng xét về bản chất thì hoàn toàn khác nhau; do đó chỉ
có cơ quan tư pháp hình sự mới có quyền xem xét và áp dụng. Đặc biệt, việc
xử lý đối với người bị kết án cũng như áp dụng hình phạt và các biện pháp tư
pháp hình sự phải do Tòa án xác định trên cơ sở áp dụng pháp luật hình sự;
còn các cơ quan tố tụng khác cũng phải tuân thủ đúng trình tự và thủ tục do
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự quy định.
Đặc điểm thứ sáu: Biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì
theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ được áp dụng riêng với bản thân người
phạm tội hoặc người bị kết án.
Việc áp dụng chế tài đối với người phạm tội chỉ được thực hiện khi có
việc thực hiện phạm tội xảy ra, và chỉ đối với người đó; những người thân của
họ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về những hành động đó trước

12
pháp luật hình sự. Gia đình hoặc người giám hộ (với người chưa thành niên)
chỉ có nghĩa vụ tài chính với người phạm tội.
Các biện pháp tư pháp áp dụng với đối tượng phạm tội là tổ chức còn

chưa được xác định, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự này, chỉ có thể
áp dụng với từng người phạm tội, và liên đới chịu trách nhiệm về tài chính.
1.1.2. Vai trò và mục đích của của biện pháp tƣ pháp hình sự
Các biện pháp tư pháp hình sự xét về bản chất là những biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền
(Viện kiểm sát và Tòa án) áp dụng đối với người phạm tội và những người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự do bị bệnh tâm thần hoặc bị một bệnh lý khác đã mất đi
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình.
Với hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp hình sự đa dạng, có
tính chất nghiêm khắc khác nhau, công dụng khác nhau thì việc xử lý hình
sự càng chính xác các chi tiết, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội
và nạn nhân càng được xem xét một cách kỹ càng trước khi quyết định hình
phạt và do đó, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp sẽ phần nào
được nâng cao.
Có thể nói, việc tồn tại hệ thống các biện pháp tư pháp song hành với
hệ thống hình phạt (chính và bổ sung) làm cho hệ thống chế tài cân đối hơn,
hoàn thiện và hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh và phòng chống
tội phạm phù hợp xu hướng phát triển của đất nước cũng như hội nhập quốc tế.
Thêm vào đó, các biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng với người
bị kết án sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường hiệu quả việc áp dụng hình phạt;
khiến cho việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án trở nên dễ dàng
hơn, tránh được nguy cơ tái phạm, tái phạm nguy hiểm và góp phần giúp hoạt
động tư pháp trơn tru hiện quả hơn.

13
Mặt khác, với những trường hợp chưa đủ tính chất nghiêm trọng để có
thể áp dụng hệ thống hình phạt, thì các biện pháp tư pháp hình sự chính là cứu
cánh để giải quyết tình hình tội phạm, không bỏ sót người phạm tội, vẫn có
chế tài áp dụng với họ, nhưng tương xứng về cả nội dung và tính chất nghiêm

khắc đối với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra.
Như vậy, có thể thấy rằng các biện pháp tư pháp hình sự đã góp phần
làm phong phú hệ thống chế tài hình sự, thúc đẩy chức năng bảo vệ, phòng
ngừa và giáo dục của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh và
phòng chống tội phạm một cách hiệu quả. Chính vì vậy, vai trò của các biện
pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự nói riêng và trong pháp luật nói chung
là hết sức quan trọng và cần thiết.
Từ trước đến nay khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm
hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp; có rất nhiều quan điểm, tranh
luận về mục đích của hình phạt mà chưa có nghiên cứu nào cụ thể về các Biện
pháp tư pháp. Tuy nhiên, vì các biện pháp tư pháp cũng là một biện pháp
cưỡng chế hình sự nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự của người phạm tội
nên có những điểm tương đồng với hình phạt. Đi sâu vào phân tích mục đích
của biện pháp tư pháp có thể thấy trên các khía cạnh:
Về mặt hình thức, biện pháp tư pháp chỉ ra mục đích mà thông qua
việc áp dụng với người phạm tội Nhà nước mong muốn đạt được. Như vậy,
có thể hiểu mục đích của biện pháp tư pháp là kết quả cuối cùng mà Nhà nước
mong muốn đạt được bằng cách áp dụng các biện pháp tư pháp do nhà làm luật
quy định trong pháp luật hình sự theo đúng trình tự, thủ tục được quy định 5
hạn chế tội phạm mới, thúc đẩy việc tái hòa nhập cộng đồng; thể hiện được
tính nhân đạo trong pháp luật cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về mặt nội dung, cốt lõi của kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong
muốn đạt được bằng việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội.

14
Có thể thấy, việc áp dụng biện pháp tư pháp độc lập hoặc kèm theo với việc
quyết định hình phạt, nhằm: Ngăn ngừa tội phạm; giáo dục và cải tạo; ngăn
ngừa, trừng trị, giáo dục và cải tạo.
Tuy nhiên, nếu xét đến bản chất sâu xa của việc áp dụng biện pháp tư
pháp hình sự, có thể thấy, mục đích chính của việc áp dụng các biện pháp tư

pháp hình sự là: Góp phần phục hồi lại công lý; cải tạo và giáo dục những
người phạm tội; góp phần cảnh cáo, giáo dục các thành viên khác trong xã hội
có ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật - ngăn
ngừa chung; hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Việc Nhà nước quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự (mà không phải là hình
phạt) đối với những người nêu trên nhằm hỗ trợ để đạt được mục đích phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Với tư cách là các biện pháp cưỡng chế về hình sự, Biện pháp tư pháp
hình sự là cách thức tác động đến người phạm tội. Trong một số trường hợp
thì Biện pháp tư pháp hình sự là hậu quả của việc phạm tội; nên trong một số
trường hợp thì ngoài việc phải chịu hình phạt, người phạm tội còn phải bị áp
dụng các biện pháp tư pháp (kèm theo hình phạt hoặc áp dụng độc lập). Trong
những trường hợp này, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự có tác
dụng cải tạo người phạm tội, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Bên cạnh việc áp dụng hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp còn giúp
cho việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để và toàn diện hơn.
Trong Bộ luật Hình sự có quy định các biện pháp tư pháp chung và riêng góp
phần giúp các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền có thể vận dụng một
cách mềm dẻo, linh hoạt và đúng đắn theo chính sách hình sự, chính sách tố
tụng hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước ta. Ngoài ra,
việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự còn phản ánh việc áp dụng hình phạt -
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do luật hình sự quy

15
định không phải là phương tiện duy nhất trong công cuộc đấu tranh, phòng và
chống tội phạm. Để nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh, phòng và chống tội
phạm; đòi hỏi Nhà nước và xã hội áp dụng một cách đồng bộ, có hệ thống,
toàn diện các biện pháp khác nhau với mức độ cưỡng chế phù hợp và linh
hoạt nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm.

1.2. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP TƢ PHÁP HÌNH SỰ VỚI HÌNH PHẠT VÀ
CÁC BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ HÀNH CHÍNH
1.2.1. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với hình phạt
* Sự giống nhau
- Điểm thứ nhất, cả hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là hai
chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam và chỉ xuất hiện khi có cơ sở
nhất định do pháp luật hình sự quy định là: Việc phạm tội của thể nhân (là
con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị
luật hình sự cấm). Chỉ khi nào có tội phạm và xác định được trách nhiệm hình
sự thì mới có thể áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp hình sự tương
ứng cụ thể nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói
chung và người bị kết án nói riêng.
- Điểm thứ hai, hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là các biện
pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước, đồng thời là các dạng và là các
hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự, do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được quy định trong pháp
luật tố tụng hình sự. Những chế định này được quy định trong pháp luật hình
sự và cách thức thực hiện được quy định trong tố tụng hình sự; các quy định
pháp luật này được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả
và đạt được mục đích đã đề ra.

16
- Điểm thứ ba, việc áp dụng hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự
đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người phạm tội ở các
mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm,
nhân thân của người phạm tội, nhân thân người bị hại, và các tình tiết cụ thể
của vụ án hình sự tương ứng.
- Điểm thứ tư, theo pháp luật hình sự Việt Nam, cả hình phạt và biện

pháp tư pháp hình sự đều chỉ mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng với
thể nhân phạm tội. Người phạm tội hoặc người bị kết án phải thi hành Hình
phạt hoặc áp dụng Biện pháp tư pháp hình sự tương xứng với hành vi phạm
tội, còn những người thân đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về lỗi mà
người đó đã gây ra mà chỉ có thể bị liên đới hoặc hỗ trợ về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người có lỗi gây ra.
* Sự khác nhau:
Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa các biện pháp tư pháp hình sự và hình phạt
Tiêu chí
Các biện pháp tƣ pháp hình sự
Hình phạt
Khái niệm
khoa học
Là biện pháp cưỡng chế về hình sự của
Nhà nước do pháp luật hình sự quy định
và được cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối
với người phạm tội nhằm hạn chế
quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ
hay thay tế cho hình phạt.
Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quyết định
trong Bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Tòa
án để tước bỏ quyền, tự do
của người bị kết án theo
các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam.

Về mức
độ nghiêm
khắc
Các biện pháp tư pháp hình sự chỉ là
một trong hệ thống các biện pháp cưỡng
chế về hình sự áp dụng với người phạm
tội, mang tính răn đe, trừng phạt nhưng
Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước.

17
không nghiêm khắc bằng hình phạt.
Việc áp dụng các biện pháp hình sự đôi
khi chỉ mang tính chất phòng ngừa hoặc
răn đe, hơn là trừng phạt người phạm tội
(ví dụ: Bắt buộc chữa bệnh)
Về chủ thể
có thẩm
quyền áp
dụng và đối
tượng bị áp
dụng
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp
hình sự hình sự thì thẩm quyền thuộc về
Tòa án xét xử vụ án đó, và các cơ quan
tư pháp hình sự tương ứng giai đoạn tố
tụng hình sự áp dụng để hỗ trợ hình phạt
(áp dụng các Điều 41, Điều 42, Điều 43,
Bộ luật Hình sự năm 1999 với tất cả

những người phạm tội nói chung và
Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 với
người phạm tội chưa thành niên).
Chỉ có Tòa án xét xử vụ án
hình sự là cơ quan tiến
hành tố tụng duy nhất có
thẩm quyền áp dụng hình
phạt với người bị kết án
trên cơ sở bản án kết tội.
Về hậu quả
pháp lý
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp
hình sự, người bị áp dụng nếu như chỉ
áp dụng biện pháp tư pháp hình sự riêng
rẽ (áp dụng độc lập không kèm theo
hình phạt) thì người phạm tội không bị
coi là có án tích; ngoài ra, người đó chỉ
bị hạn chế, chứ không phải tước bỏ hoàn
toàn quyền lợi, cũng như tự do của
mình. Người phạm tội vẫn có quyền
được sinh hoạt, sống và làm việc trong
cộng đồng, cũng là một hình thức tái
hòa nhập với cộng đồng.
Việc áp dụng hình phạt với
người phạm tội sẽ đưa đến
án tích của người bị kết án
và phải áp dụng hình phạt;
ngoài việc bị hạn chế
quyền, tự do thì người bị
áp dụng hình phạt còn có

thể bị tước bỏ quyền và tự
do đó.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Giáo trình luật hình sự; Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và một số tài liệu tham khảo khác.

18
1.2.2. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với biện pháp cƣỡng
chế hành chính
* Sự giống nhau:
- Điểm thứ nhất, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế
hành chính đều là hai chế định quan trọng hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm
quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ, công bằng, văn
minh. Hai chế định này tuy có tính chất, vai trò khác nhau, nhưng đều có tác
dụng nhất định, hỗ trợ lẫn nhau trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói
riêng, và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
- Điểm thứ hai, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế
hành chính đều là các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, do Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được pháp
luật quy định, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả
và đạt được mục đích đã đề ra. Những trình tự này nhằm đảm bảo việc thực
hiện các chế định nêu trên không bị rườm rà, cũng có thể giám sát thường
trực và hạn chế tiêu cực không đáng có, góp phần tối giản hóa các trình tự,
thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, thúc đẩy việc giải quyết vụ án hình sự
hiệu quả.
- Điểm thứ ba, việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự và các biện
pháp cưỡng chế hành chính đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối
với người bị áp dụng ở các mức độ khác nhau. Bản thân người phạm tội phải
chịu sự trừng phạt của pháp luật bằng các chế tài pháp lý (hình phạt và các

biện pháp cưỡng chế khác - hình sự, hành chính, dân sự…) đồng thời nhằm
răn đe cộng đồng tránh việc phạm tội hoặc tái phạm tội của người đã từng bị
kết án.

×