Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Hình thức của hợp đồng - một số vấn đề và những kiến nghị, phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 82 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THANH HẰNG


HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG-MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ, PHƯƠNG HƯỚNG
HOÀN THIỆN



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:Tiến sĩ.BÙI ĐĂNG HIẾU



HÀ NỘI - 2006








3


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các tư liệu được trích dẫn trong
luận văn là trung thực. Những kiến nghị nêu trong luận văn này là quan điểm độc lập của
cá nhân tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.


Tác giả





Nguyễn Thị Thanh Hằng














MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục



4
Phần mở đầu
01
Chương 1: Lý luận chung về hình thức hợp đồng
10
1.1 Khái niệm hình thức hợp đồng
10
1.2 Phân loại hình thức hợp đồng
17
Chương 2: Hình thức hợp đồng bằng lời nói
22
2.1 Cách thức biểu hiện và nguyên tắc xác lập
22
2.2 Các trường hợp giao kết hợp đồng bằng lời nói
25
2.3 Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bằng lời nói
28
Chương 3: Hình thức hợp đồng bằng văn bản
31
3.1 Cách thức biểu hiện của hình thức hợp đồng bằng văn bản

31
3.2 Các trường hợp giao kết hợp đồng bằng văn bản
35
3.3 Phân loại hợp đồng bằng văn bản
37
3.4 Phân biệt yêu cầu hình thức với yêu cầu công chứng, chứng thực và yêu cầu
đăng ký
41
3.5 Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bằng văn bản
45
Chương 4: Hình thức hợp đồng bằng hành vi
48
4.1 Cách thức biểu hiện và nguyên tắc xác lập
48
4.2 Các trường hợp giao kết hợp đồng bằng hành vi
50
4.3 Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bằng hành vi
51
Chương 5: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng và những đề xuất,
kiến nghị
53
5.1 Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án liên quan đến hình thức hợp đồng
53
5.2 Một số kiến nghị, phương hướng giải quyết
67
Phần kết luận
72
Tài liệu tham khảo
73



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bộ luật dân sự đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua vào ngày 28 tháng 10 năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07
năm 1996 là bƣớc tiến bộ đáng kể trong sự nghiệp bảo vệ các quyền dân sự cơ
bản của công dân. Sự ra đời của bộ luật (sau đây xin đƣợc viết tắt là BLDS)
không chỉ tạo lập ra hành lang pháp lý để các nhà hành pháp thực thi mà ý
nghĩa sâu xa của nó chính là sự thể hiện một cuộc cách mạng trong đổi mới tƣ
duy lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự tiếp
thu, học hỏi những quy định pháp luật từ thực tiễn cũng nhƣ luật pháp của các
nƣớc trên thế giới, cân nhắc chúng cùng với hoàn cảnh thực tiễn của Việt
Nam để đƣa ra một văn bản có tính chuẩn mực pháp lý cao nhất trong hệ
thống pháp luật dân sự. Kể từ đây, mọi quan hệ dân sự đƣợc cụ thể hoá, pháp
điển hoá một cách rõ ràng và mang tính khuôn mẫu xử sự. Điều này chấm dứt
tình trạng lúng túng khi giải quyết những trƣờng hợp tranh chấp dân sự tại
Toà án các cấp do không có văn bản pháp luật làm cơ sở hay hƣớng dẫn thi
hành, hoặc do sự thiếu vắng những quy định liên quan mang tính logic. Việc
áp dụng pháp luật hoàn toàn mang tính thụ động, không bảo đảm cho việc bảo
vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong giao lƣu dân sự, cũng nhƣ làm
nghèo nàn đi tƣ duy pháp lý của chính các cán bộ trong ngành tƣ pháp. Chính
vì vậy, những quy định của BLDS đã nhanh chóng đi vào đời sống xã hội
Việt Nam, phát huy đƣợc hiệu quả của nó: góp phần điều chỉnh, ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, đời sống dân sự của cộng đồng dân cƣ, là cơ sở pháp lý
khá đầy đủ cho Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
đời sống dân sự.
Hợp đồng dân sự là mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là một



2
trong những chế định pháp lý cổ xƣa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung
luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát các hình thức giao lƣu phong
phú của con ngƣời. Quan hệ hợp đồng luôn thể hiện tính phức tạp và đa dạng
bởi nhiều nguyên nhân mà trong đó, luôn tồn tại mâu thuẫn về quyền và lợi
ích giữa các bên. Bởi vậy, nó luôn chiếm vị trí quan trọng, trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong pháp luật dân sự. Ở Việt Nam, sau khi giành đƣợc
độc lập, Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, việc điều chỉnh bằng
pháp luật đối với chế định này cũng đã có sự lƣu ý nhất định và mang đặc
điểm riêng nhƣng chƣa có sự pháp điển hoá ở mức cao và còn thiếu thống
nhất. Một loạt văn bản về hợp đồng đƣợc ban hành nhƣ Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế (năm 1989) và Pháp lệnh hợp đồng dân sự (năm 1991). Trƣớc đó, phải
kể đến hai Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và về sở hữu công nghiệp,
trong đó cũng có phần quy định về hợp đồng. Tuy nhiên, phải đến khi ra đời
BLDS, hợp đồng dân sự mới đƣợc xem xét, quy định một cách đầy đủ và toàn
diện. Hiện nay, trong BLDS sửa đổi năm 2005, chế định hợp đồng dân sự
chiếm tới hơn 200 điều, trên tổng số 777 điều của bộ luật. Bên cạnh những
quy định mang tính chung về hợp đồng, BLDS cũng quy định về 13 loại hợp
đồng thông dụng. Đây là cơ sở pháp lý không chỉ cho việc áp dụng, giải quyết
các tranh chấp dân sự mà còn là cơ sở khởi nguồn của nhiều loại hợp đồng
phát sinh trong đời sống xã hội hiện đại.
Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống luôn phong phú và phức tạp, những quy
định của BLDS, trong đó một số quy định về hợp đồng vẫn còn thể hiện
những điểm chƣa phù hợp, còn thiếu vắng những quy định cụ thể, có tính điều
chỉnh phong phú hơn. Hệ quả của những bất cập này có thể thấy ngay qua con
số thống kê về các vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng tại Toà án nhân dân
các cấp rất lớn, lên đến hàng trăm ngàn vụ kiện. Và trên thực tế, con số các vụ
án mà Toà án đã giải quyết còn khiêm tốn so với tổng số vụ án thụ lý. Đồng



3
thời, tỉ lệ các vụ án phải xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám
đốc thẩm cũng không phải nhỏ. Trƣớc thực tiễn xét xử nhƣ vậy, chúng ta
buộc phải đặt câu hỏi: liệu pháp luật đã thực sự trở thành công cụ bảo vệ
quyền và lợi ích cho các chủ thể trong giao kết hợp đồng dân sự hay chƣa?
Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà
nƣớc, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo sự công
bằng xã hội. Quá trình hội nhập quốc tế đang mở ra nhiều cơ hội và thách
thức. Chừng nào pháp luật chƣa trở thành công cụ cơ bản điều chỉnh các quan
hệ xã hội thì chừng đó, chúng ta còn đứng ngoài sự phát triển chung của thế
giới.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về hợp đồng dân sự tại Toà án,
nhiều bất cập cũng nhƣ khó khăn buộc chúng ta phải nhìn nhận, xem xét lại
cơ sở pháp lý và thực tiễn. Khó khăn trong việc giải quyết các vụ án không
chỉ do nội dung tranh chấp phức tạp, do các bên đƣơng sự không hợp tác thiện
chí, không đƣa ra hoặc đƣa ra các chứng cứ ngụy biện khiến việc xác minh rất
vất vả. Mặt khác, một nguyên nhân nữa là do pháp luật còn thiếu những quy
định cụ thể, hợp lý làm cơ sở cho Tòa án trong việc vận dụng, giải quyết các
tranh chấp dân sự. Không ít các tranh chấp hợp đồng, nếu xét ở một khía cạnh
nào đó, bị Tòa án tuyên bố vô hiệu đã gây thiệt hại đáng kể cho các bên. Tính
công bằng, tính hợp lý của luật pháp chƣa đƣợc suy tôn, quyền và lợi ích
chính đáng của các bên chƣa đƣợc bảo vệ. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là việc còn thiếu những quy định chặt chẽ, cụ thể và phù
hợp về hình thức hợp đồng.
Hợp đồng, theo điều 388 BLDS sửa đổi năm 2005 “là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quỳên, nghĩa vụ dân
sự”. Để giải quyết tranh chấp, vấn đề đầu tiên mà Tòa án cần xác định bao



4
giờ cũng đƣợc đặt ra là: có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa các bên hay không?
Từ đó mới xác định: các bên đã giao kết những nội dung cụ thể về quyền và
nghĩa vụ nhƣ thế nào? Trong mọi trƣờng hợp, trách nhiệm của đƣơng sự là
chứng minh có hợp đồng đƣợc giao kết thông qua phƣơng thức tồn tại của
hợp đồng, hay phải chỉ ra rằng, giao kết hợp đồng đã đƣợc xác lập dƣới một
hình thức nhất định. Trong thực tế, những tranh chấp liên quan trực tiếp về
hình thức hợp đồng có rất nhiều. Sự ghi nhận hợp đồng một cách không rõ
ràng, không phản ánh một cách chính xác ý chí thỏa thuận giữa các bên chính
là một trong những nguyên cớ để bên có gian ý chối bỏ trách nhiệm thực hiện
hợp đồng. Và căn cứ vào việc thoả thuận giữa các bên không đƣợc thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật về hình thức hợp đồng, bên vi phạm có thể
yêu cầu Toà tuyên huỷ hợp đồng. Phần nhiều những hợp đồng này không
đƣợc giao kết theo đúng hình thức luật định do sự chủ quan hoặc thiếu hiểu
biết của các bên, hậu quả là quyền và lợi ích chính đáng của chính họ đã
không đƣợc bảo vệ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
giảm tính tôn nghiêm và công bằng của pháp luật. Phải nhìn nhận rằng, ngƣời
dân chƣa có thói quen tìm hiểu các quy định của pháp luật trƣớc khi tham gia
vào một loại giao dịch dân sự nào đó. Họ chỉ hành xử theo nhận thức cảm tính
của cá nhân. Đúng là ngƣời dân còn thiếu hiểu biết về pháp luật nhƣng cũng
cần phải thừa nhận rằng: pháp luật chƣa thực sự đến đƣợc với ngƣời dân,
chƣa đi vào đƣợc đời sống xã hội để trở thành nguyên tắc ứng xử của con
ngƣời với nhau trong đời sống xã hội đang ngày càng trở nên hiện đại. Chừng
nào Tòa án chƣa phải là nơi đem lại sự công bằng, bảo vệ quyền lợi của ngƣời
dân thì khi ấy, tâm lý coi thƣờng pháp luật, coi thƣờng sự nghiêm minh của
những cơ quan tƣ pháp còn tồn tại. Muốn thay đổi, trƣớc hết cần xem xét lại
tính hiệu quả của những quy phạm pháp luật trong thực tiễn.
Đề tài “Hình thức của hợp đồng - một số vấn đề và những kiến nghị,



5
phương hướng hoàn thiện” nhằm giải quyết những vấn đề mang tính lý luận,
nhằm giải quyết những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là một
đề tài cho đến nay, còn những quan điểm chƣa thống nhất, thiếu tính hệ
thống. Những công trình nghiên cứu về hình thức hợp đồng chƣa có nhiều,
còn rất khiêm tốn so với những nội dung khác. Những vấn đề lý luận về hình
thức hợp đồng bao gồm nội dung gì, bản chất hình thức hợp đồng, ý nghĩa và
vai trò của nó trong việc xác định hiệu lực hợp đồng cần đƣợc xem xét và
nhìn nhận nhƣ thế nào trong hệ thống lý luận hợp đồng dân sự nói chung vẫn
là đề tài có tính mới mẻ và bức thiết. Những vấn đề trên lý giải vì sao chúng
tôi lại lựa chọn đề tài “Hình thức của hợp đồng – một số vấn đề và những
kiến nghị, phương hướng hoàn thiện” làm luận văn tốt nghiệp với mong
muốn giải quyết những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn, là cơ sở cho việc
hoàn thiện thêm chế định hợp đồng – một trong những chế định cơ bản, cốt
lõi nhất của BLDS.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Hợp đồng vốn là một chế định pháp lý mang tính cổ xƣa nhất của ngành
luật dân sự. Những vấn đề pháp lý về hợp đồng có rất nhiều, thu hút sự quan
tâm, nghiên cứu của rất nhiều nhà nghiên cứu luật pháp, các luật gia cũng nhƣ
các cán bộ trong ngành tƣ pháp. Những công trình nghiên cứu về hợp đồng,
những bài viết trên các tạp chí về những nội dung của hợp đồng có rất nhiều.
Rất nhiều nghiên cứu đƣợc đƣa ra và giải quyết những vấn đề về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng, thời điểm giao kết hợp đồng hay đi vào giải quyết
từng loại hợp đồng cụ thể nhƣ hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ… Hình
thức hợp đồng cũng không phải là một vấn đề pháp lý mới mẻ. Thông thƣờng,
khi nghiên cứu hay đề cập đến hợp đồng và hiệu lực hợp đồng, bao giờ ngƣời
ta cũng chú ý đến các yếu tố làm hợp đồng bị vô hiệu. Riêng về việc xác định
hiệu lực của hợp đồng, luật dân sự của các quốc gia có quy định rất khác



6
nhau, trong đó, phần nhiều là quan niệm: hình thức hợp đồng có phải là một
trong những điều kiện đủ để hợp đồng có hiệu lực hay không? Nếu có thì căn
cứ là gì? Nếu không thì tại sao? Những vấn đề trên không dễ lý giải một cách
tƣờng tận mà đôi khi, chúng phụ thuộc nhiều vào quan điểm của các nhà lập
pháp. Trong khoa học pháp lý Việt nam, rất nhiều các nhà nghiên cứu luật
học tỏ rõ sự quan tâm của mình khi đề cập tới vấn đề này trong các bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, những ý kiến trao đổi này
không phải chỉ nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể nhƣ là hình thức hợp đồng
mà thực tế, nó mới đƣợc nhắc đến nhƣ là một trong những vấn đề có liên quan
đến hợp đồng và hiệu lực hợp đồng. Ngay cả trong các hợp đồng cụ thể, sự
quan tâm cũng chƣa đƣợc thể hiện rõ ràng. Nhƣ vậy, những nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này còn khiêm tốn, chủ yếu thực hiện dƣới góc độ những bài
viết nghiên cứu, trao đổi hay chỉ đƣợc đề cập trong một phần nào đó của
những luận văn, luận án. Thế nhƣng, những bài viết mang tính nghiên cứu
trên chƣa phản ánh đúng tầm một hiện tƣợng đang nổi cộm: mỗi một năm,
Toà án nhân dân các cấp phải thụ lý hàng trăm nghìn trƣờng hợp tranh chấp
liên quan đến hình thức hợp đồng. Tỉ lệ án phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ
án này cũng không hề nhỏ. Điều này chứng tỏ, vấn đề hình thức hợp đồng
đang cần có sự sửa đổi, hoàn thiện hơn nữa, giảm thiểu tối đa những tranh
chấp không đáng có, những sai sót trong việc áp dụng pháp luật của các cơ
quan tƣ pháp. Do vậy, đề tài “Hình thức của hợp đồng – một số vấn đề và
những kiến nghị, phương hướng hoàn thiện” hết sức có ý nghĩa trong việc
giải quyết về một vấn đề cụ thể cả về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Đề tài “Hình thức của hợp đồng – một số vấn đề và những kiến nghị,
phương hướng hoàn thiện” cố gắng giải quyết một vấn đề pháp lý cụ thể
một cách tƣơng đối hoàn chỉnh, bao quát. Vấn đề đặt ra đối với bản luận văn



7
là phải nghiên cứu, làm rõ bản chất pháp lý của hình thức hợp đồng là gì trong
mối quan hệ với hợp đồng? Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề
pháp lý liên quan, phân tích đƣợc nội hàm và đƣa ra khái niệm pháp lý hoàn
chỉnh về hình thức hợp đồng. Tổng hợp với những vấn đề lý luận và thực tiễn
đang đặt ra, đƣa ra những kiến nghị nhằm mục đích hoàn thiện hơn nữa
những vấn đề pháp lý về hình thức hợp đồng.
Để đạt đƣợc mục tiêu đặt ra, cần thiết giải quyết những vấn đề cơ bản
sau:
 Trên cơ sở vận dụng lý luận về hợp đồng, tiếp cận và đƣa ra một cách
nhìn tổng quát về hình thức hợp đồng cũng nhƣ xây dựng khái niệm pháp
lý về hình thức hợp đồng;
 Trên cơ sở luật thực định, xem xét và đánh giá những quy định hiện hành
liên quan đến hình thức hợp đồng, đặc biệt mối tƣơng quan giữa hình
thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng cũng nhƣ tìm hiểu nguyên tắc giải
quyết tranh chấp liên quan đến hình thức hợp đồng;
 Tổng kết, đánh giá thực tiễn tranh chấp tại Toà án, đƣa ra những kiến
nghị, phƣơng hƣớng hoàn thiện nội dung pháp lý về hình thức hợp đồng.
So với những vấn đề pháp lý về hợp đồng dân sự nói chung, những vấn
đề lý luận về hình thức hợp đồng đƣợc nghiên cứu còn khiêm tốn. Do đó, việc
giải quyết những nội dung có tính chuyên sâu về hình thức hợp đồng chắc
chắn không dễ dàng, đòi hỏi sự nghiên cứu, tham khảo tài liệu tƣơng đối rộng
và phong phú.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Trong phạm vi thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu, giải
quyết về mặt lý luận những vấn đề trực tiếp liên quan của hình thức hợp đồng,
trên cơ sở có sự tham khảo, đối chiếu với quan điểm của các nhà lập pháp một
số quốc gia khác, nhận định những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn giải



8
quyết tranh chấp từ hình thức hợp đồng để đƣa ra quan điểm của luận văn,
kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định liên quan đến hình thức hợp đồng,
hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong giao lƣu dân sự.
5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN
Cho đến nay, hình thức hợp đồng vẫn là một vấn đề lý luận mới mẻ và
chƣa đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện. Mặc dù đã có nhiều bài viết đăng
trên tạp chí nghiên cứu khoa học pháp lý nhƣng nhìn chung, mới chỉ thực hiện
trong phạm vi nhỏ, đặc biệt không nhằm giải quyết những vấn đề lý luận cũng
nhƣ thực tiễn trực tiếp có liên quan đến bản chất pháp lý của hình thức hợp
đồng.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các ngành khoa học nói chung, trong đó có luật học đòi hỏi
không chỉ sự nghiên cứu, tìm tòi những vấn đề thuần lý luận mà phải kết hợp
với thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan. Bởi vậy, cơ sở phƣơng pháp
luận mà bản luận văn sử dụng chính là Chủ nghĩa Mác – Lê nin cùng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh – những quan điểm biện chứng và duy vật về xã hội. Đồng thời,
không thể tách rời các quan điểm của Đảng ta về Nhà nƣớc và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể bao gồm: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, thống kê và một số phƣơng pháp khác.
Kết hợp nghiên cứu về mặt lý luận với thực tiễn, việc tham khảo các tài liệu
khoa học pháp lý, ý kiến của các chuyên gia cũng nhƣ các cán bộ thực tiễn
cũng làm phong phú thêm nội dung luận văn, hoàn chỉnh hơn về các đánh giá,
đƣa ra các quan điểm của luận văn.
7. CƠ CẤU LUẬN VĂN
Đề tài “Hình thức của hợp đồng – một số vấn đề và những kiến nghị,



9
phương hướng hoàn thiện” bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung
và phần kết luận:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chƣơng 1: Lý luận chung về hình thức hợp đồng
Chƣơng 2: Hình thức hợp đồng bằng lời nói
Chƣơng 3: Hình thức hợp đồng bằng văn bản
Chƣơng 4: Hình thức hợp đồng bằng hành vi
Chƣơng 5: Những vấn đề thực tiễn tranh chấp về hình thức hợp đồng và một
số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức hợp đồng.
- Phần kết luận
Ngoài ra, bản luận văn còn bao gồm:
- Mục lục
- Danh mục tài liệu tham khảo.

























10
















CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG


1.1 Khái niệm hình thức hợp đồng
BLDS ra đời có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống dân sự nói
riêng và đời sống xã hội nói chung. Bởi trƣớc hết, đây chính là cơ sở pháp lý
bảo vệ quyền, lợi ích dân sự của công dân, các tổ chức, các tổ chức kinh tế, tổ
chức kinh tế – xã hội. Đồng thời, nó cũng là công cụ pháp lý đảm bảo nhiệm
vụ quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, qua một thời gian
áp dụng vào thực tiễn, BLDS đã bộc lộ một số điểm chƣa phù hợp và cần phải
đƣợc sửa đổi, bổ sung. Một trong những nội dung cần có sự nghiên cứu và
sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật là vấn đề hình thức hợp đồng – một vấn đề
mang tính lý luận phức tạp và có nhiều điểm chƣa đƣợc nhận thức đầy đủ.
Đây là một khái niệm pháp lý cơ bản trong chế định hợp đồng – chế định có
vai trò xƣơng sống của BLDS. Rất nhiều những quy định liên quan trực tiếp
đến vấn đề hình thức hợp đồng nhƣ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hợp
đồng vô hiệu … vì thế chƣa có đƣợc cách hiểu và áp dụng thống nhất.
Có thể nói rằng, khái niệm hợp đồng dân sự đƣợc xây dựng trong BLDS


11
năm 1995 cũng nhƣ BLDS sửa đổi năm 2005 khá rõ ràng và phản ánh đƣợc
bản chất quan hệ hợp đồng dân sự. Tại Điều 388 BLDS sửa đổi năm 2005,
hợp đồng dân sự “là sự thoả thuận về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Đồng thời, Bộ luật cũng ghi nhận nguyên tắc có
tính chất quyết định, xuyên suốt toàn bộ tinh thần của một thoả thuận hợp
đồng, đó chính là nguyên tắc “Tự do hợp đồng”. Sự thoả thuận của các bên
trong hợp đồng ở đây phải đạt đƣợc dựa trên sự tự do ý chí và đồng thuận của
các bên. Tự do hợp đồng là tự do ý chí và thể hiện ý chí của từng bên. Nội
dung cụ thể của nó là tự do lựa chọn đối tác, tự do lựa chọn đối tƣợng hợp
đồng cũng nhƣ tự do lựa chọn hình thức hợp đồng. Tất nhiên, pháp luật cũng
có những hạn chế để sự tự do này không gây ảnh hƣởng tiêu cực đến quyền
lợi của những chủ thể khác và trật tự xã hội. Không một hợp đồng nào đƣợc

chấp nhận có giá trị pháp lý nếu vi phạm nguyên tắc này. Tuy nhiên, chỉ khi
nào sự tự do ý chí của các bên và sự đồng thuận đƣợc thể hiện dƣới một hình
thức nào đó thì hợp đồng đó mới tồn tại. Hay nói cách khác, hợp đồng không
bao giờ tồn tại trong ý tƣởng hay suy nghĩ của con ngƣời mà nó phải đƣợc thể
hiện dƣới dạng thức nhất định. Khoa học pháp lý đã bƣớc đầu có sự tiếp cận
và có những lý giải về hình thức hợp đồng dựa trên cơ sở nhƣ vậy.
Hình thức hợp đồng không phải là vấn đề pháp lý mới mẻ mà thực sự, nó
tồn tại ngay từ khi ngƣời ta bắt đầu quan tâm đến hợp đồng dân sự là gì? Tuy
nhiên, khi xây dựng BLDS năm 1995 cũng nhƣ BLDS sửa đổi năm 2005, các
nhà làm luật chƣa đƣa ra đƣợc một khái niệm pháp lý theo đúng nghĩa về hình
thức hợp đồng. Điều 400 BLDS quy định về hình thức hợp đồng:
“1- Hình thức hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại
hợp đồng đó phải được giao kết dưới một hình thức nhất định.
Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì


12
hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó.”
Trong khoa học pháp lý, việc đƣa ra một khái niệm là kết quả của quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu bản chất vấn đề. Những nhận thức một cách thấu
đáo là cơ sở để xây dựng nên một khái niệm vừa khái quát, vừa thể hiện chính
xác nội dung. Thông qua khái niệm, các vấn đề có liên quan cũng đƣợc giải
quyết một cách khoa học và thống nhất. Điều 400 BLDS chƣa đƣa ra đƣợc
một khái niệm mà chỉ thừa nhận ba hình thức hợp đồng: hình thức lời nói,
hình thức hành vi và hình thức văn bản. Sự liệt kê này có ý nghĩa trong việc
xác định cụ thể những hình thức hợp đồng đƣợc pháp luật ghi nhận. Trong
chừng mực nào đó, ghi nhận một cách rõ ràng những hình thức hợp đồng là
một quy định cần thiết. Tuy nhiên, quy định này không thể thay thế cho việc
đƣa ra một khái niệm.

Khi xây dựng khái niệm pháp lý về hình thức hợp đồng, chúng ta cần
quan tâm đến bản chất pháp lý của vấn đề này, tƣơng tự nhƣ hiểu đƣợc bản
chất pháp lý của hợp đồng vậy. Một đặc trƣng cơ bản và xuyên suốt toàn bộ
nội dung pháp lý của hợp đồng là sự thể hiện thống nhất ý chí của các chủ thể.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự thống nhất ý chí nào cũng là hợp đồng mà
chỉ có sự thống nhất ý chí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt nghĩa vụ dân
sự mới chịu sự điều chỉnh của pháp luật hợp đồng. Vậy, thực chất sự thống
nhất ý chí của các chủ thể có thể đƣợc chúng ta nhận biết ra sao hay nó đƣợc
thể hiện nhƣ thế nào. Mỗi một cá nhân đều có những cách thức riêng để biểu
đạt suy nghĩ của mình. Nhƣng sự thống nhất ý chí của ít nhất là hai chủ thể
trong quan hệ hợp đồng phải đƣợc thể hiện dƣới những hình thức nhất định,
đảm bảo khả năng nhận biết khách quan. Chỉ khi đó, pháp luật mới có thể bảo
vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp nếu chúng bị vi phạm. Từ khi bắt đầu đƣa ra
đề nghị giao kết hợp đồng cho tới khi các bên cùng đạt đƣợc thoả thuận là
một quá trình trao đổi thông tin. Việc trao đổi này đƣợc thực hiện bằng nhiều


13
cách, từ cách đơn giản nhƣ trao đổi bằng lời nói, bằng cử chỉ hay những cách
thức phức tạp và hiện đại nhƣ qua máy fax, telephone hay internet… Chính
nhờ những thông tin đƣợc trao đổi mà các bên mới đạt đƣợc thoả thuận cuối
cùng, đó chính là hợp đồng. Và nhƣ vậy, hợp đồng không thể là những ý
tƣởng riêng rẽ của một cá nhân nào đó mà nó chính là sự đồng thuận của các
chủ thể có ý chí độc lập, tồn tại dƣới một dạng ghi nhận thông tin nào đó.
Dạng thức ghi nhận thoả thuận hợp đồng không chỉ có ý nghĩa trong việc xác
định đã tồn tại một hợp đồng hay không, hợp đồng đƣợc xác lập bao gồm
những nội dung nào mà còn nhằm đối kháng với bên thức ba. Một khi hợp
đồng đã đƣợc giao kết tức là các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng thoả
thuận. Bất kỳ sự thay đổi hay không chịu thực hiện đúng thoả thuận mà không
đƣợc sự đồng ý của đối tác cũng là nguyên nhân để bên vi phạm phải gánh

chịu những hậu quả bất lợi. Cho đến nay, vấn đề hình thức hợp đồng đƣợc
thừa nhận một cách tƣơng đối thống nhất rằng: nó chính là căn cứ để bên có
quyền lợi bị vi phạm đƣợc nhận sự bảo vệ từ phía luật pháp.
Trong cổ luật Việt Nam, dân luật chƣa từng đƣợc chú ý xây dựng với tƣ
cách là một đạo luật riêng và vì thế, những vấn đề pháp lý phức tạp nhƣ hợp
đồng dân sự là gì, hình thức hợp đồng là gì cũng nhƣ rất nhiều vấn đề khác
không hề đƣợc đề cập đến. Chỉ đến khi xây dựng ba bộ dân luật Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ, các nhà làm luật mới đƣa ra quy định về hình thức hợp
đồng một cách cụ thể và rõ ràng hơn. Đƣơng nhiên, kỹ thuật xây dựng ba bộ
dân luật thời kỳ này chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ bộ dân luật Naponeon của
Pháp. BLDS của một nƣớc Việt Nam hoàn toàn độc lập đƣợc xây dựng năm
1995, bƣớc đầu tạo cơ sở pháp lý khá toàn diện về chế định hợp đồng. Đặc
biệt, cũng là lần đầu tiên, hình thức hợp đồng đã đƣợc quy định rõ ràng hơn.
Mặc dù vậy, một khái niệm pháp lý về hình thức hợp đồng chƣa đƣợc ghi
nhận cũng khiến cho việc hiểu và áp dụng những quy định pháp luật về hợp


14
đồng có nhiều vƣớng mắc, bất cập. Điều 400 BLDS ghi nhận ba hình thức
hợp đồng:
“Hình thức hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.”
Trong khoa học pháp lý, việc đƣa ra khái niệm không chỉ có ý nghĩa là
việc thể hiện quan điểm chính thống về những vấn đề pháp lý có liên quan mà
quan trọng hơn, nó thể hiện kết quả một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu bản
chất một vấn đề. Một khái niệm phải thể hiện đƣợc chính xác nội dung của
vấn đề đó và phải đảm bảo tính khái quát. Thông qua khái niệm, chúng ta có
thể tiếp cận đến những nội dung cụ thể của vấn đề một cách tƣờng tận và
khoa học. Điều 400 BLDS năm 1995 cũng nhƣ Điều 401 BLDS sửa đổi năm

2005 chỉ dừng lại ở mức liệt kê các hình thức hợp đồng. Đây là điểm bất cập
trong việc xây dựng luật. Vấn đề hình thức hợp đồng đƣợc xem xét dƣới góc
độ ƣu tiên trong những hệ thống pháp luật trên thế giới với quan điểm rõ ràng.
Các nƣớc trong hệ thống Continental Law nhƣ Pháp là đại diện cho rằng, hợp
đồng quan trọng nhất chính là sự thoả thuận ý chí chung nên nếu đủ yếu tố
này, hợp đồng coi nhƣ đã đƣợc thiết lập, dù dƣới bất kỳ hình thức nào. Trong
khi đó, các nƣớc theo hệ thống Common Law nhƣ Anh lại có quan điểm khác.
Hợp đồng có giá trị nhƣ luật đối với các bên nên khi phát sinh tranh chấp, toà
án coi chúng là căn cứ cơ bản, quan trọng nhất. Từ quan điểm này, việc soạn
thảo và lập hợp đồng ở các quốc gia này đƣợc chú ý hết sức, những hợp đồng
có giá trị cao bắt buộc phải đƣợc lập thành văn bản. Tuy nhiên, yếu tố cơ bản
của hình thức hợp đồng chính là vai trò tạo lập chứng cứ khi phát sinh tranh
chấp đƣợc thừa nhận tƣơng đối thống nhất. Quan điểm của các nhà lập pháp
Việt Nam cũng tiếp cận theo hƣớng này. Bởi vậy, đối với một số loại hợp
đồng cụ thể, việc tuân theo yêu cầu hình thức văn bản cùng một số thủ tục


15
nhƣ hợp đồng phải có công chứng, chứng thực, phải đăng ký … là yêu cầu bắt
buộc. Mặc dù quy định này có phần mâu thuẫn với việc thừa nhận nguyên tắc
tự do hợp đồng, làm hạn chế khả năng tự định đoạt của các bên trong việc xác
lập quan hệ hợp đồng nhƣng dƣới góc độ nào đó, nó lại đáp ứng đƣợc nhu cầu
quản lý kinh tế - xã hội của nhà nƣớc.
Khi xây dựng khái niệm pháp lý về hình thức hợp đồng, không thể bỏ
qua việc tìm hiểu bản chất của vấn đề. Hợp đồng đƣợc hình thành dựa trên
các yếu tố cơ bản sau:
 Sự tự do thể hiện ý chí của từng chủ thể;
 Sự đồng thuận ý chí của ít nhất hai chủ thể.
Tự do thể hiện ý chí bao gồm tự do lựa chọn đối tác, tự do lựa chọn đối
tƣợng hợp đồng và tự do lựa chọn hình thức giao kết. Nhƣng cần lƣu ý rằng,

không phải sự đồng thuận ý chí nào cũng là hợp đồng mà chỉ có sự đồng
thuận ý chí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ dân sự mới
chịu sự điều chỉnh của pháp luật hợp đồng. Điều này buộc chúng ta phải lƣu
ý: cái gì làm nên sự thống nhất ý chí đó? Hay nói cách khác, sự thống nhất ý
chí của hai hay nhiều ngƣời đƣợc thể hiện dƣới hình thức nào?
Cho đến nay, con ngƣời có rất nhiều cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm của
mình nhƣ bằng lời nói, bằng hành vi, bằng chữ viết. Chữ viết chính là sản
phẩm sáng tạo riêng có của con ngƣời, là sự mã hoá thông tin thông qua các
ký tự chữ cái và con số. Chính nhờ chữ viết mà con ngƣời đã tìm đến những
cách thức thông tin hiện đại hơn nhƣ các thông điệp dữ liệu điện tử… Quá
trình giao kết hợp đồng thực chất cũng là một quá trình trao đổi thông tin
thông qua một cách thức nhất định. Đơn giản bởi ngƣời ta không thể kiểm
chứng hay nắm bắt đƣợc những ý tƣởng trong suy nghĩ của ngƣời khác. Kết
thúc quá trình trao đổi thông tin, kết quả là một thoả thuận hợp đồng đƣợc
hình thành. Thực chất, hợp đồng là sự thống nhất ý chí của các bên mà nó có


16
thể tồn tại dƣới một dạng ghi nhận thông tin nào đó. Việc ghi nhận thoả thuận
hợp đồng rất có ý nghĩa trong việc xác định sự tồn tại của một hợp đồng cùng
những nội dung của nó. Quan trọng hơn, nó còn nhằm mục đích đối kháng
với ngƣời thứ ba. Một hợp đồng mua bán hàng hoá thông thƣờng, nếu không
đƣợc ghi nhận dƣới một dạng thức nào đó, chẳng hạn nhƣ một tờ giấy có ghi
rõ cam kết của bên bán về các điều kiện mua - bán, điều kiện giao hàng… sẽ
rất dễ khiến bên thứ ba lầm tƣởng hàng chƣa đƣợc bán mà vẫn trả giá để mua
chính lô hàng đó. Điều này sẽ khiến các bên liên quan phải chịu những thiệt
hại không đáng và chi phí tốn kém khi phát sinh tranh chấp.
Sự thoả thuận ý chí của các bên làm cho các điều khoản hợp đồng có giá
trị bắt buộc thực hiện, ràng buộc các bên bằng những lợi ích cũng nhƣ nghĩa
vụ. Chính ý chí thực sự và nội tại đã thúc giục một ngƣời hành động vì những

mục đích nhất định. Bởi vậy, không thể tồn tại một thoả thuận trong ý niệm,
trong suy nghĩ của con ngƣời mà nó luôn phải đƣợc thể hiện dƣới một hình
thức nhất định nào đó. Điều này, về nguyên tắc, không bị giới hạn bởi một
công thức nào. Tuy nhiên, tồn tại một tranh cãi pháp lý về yên lặng có phải là
một sự ƣng thuận đƣơng nhiên hay không. Trên nguyên tắc, nếu khẳng định
một ngƣời chỉ có thể thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài dƣới một dạng thức
nhất định nào đó thì yên lặng không phải là một sự ƣng thuận. Yên lặng là
không biểu lộ thái độ đồng tình hay không đồng tình. Thực tiễn cho thấy vẫn
có những trƣờng hợp loại trừ nếu chúng đƣợc quy định một cách rõ ràng theo
định liệu của các nhà làm luật, hoặc theo tập quán giao dịch (trƣờng hợp các
bên đã thực hiện giao dịch nhiều lần với nhau và lần nào, bên thụ trái cũng
không từ chối lời đề nghị của bên trái chủ thì sự yên lặng của bên thụ trái
đƣợc coi là sự ƣng thuận).
Quá trình giao kết hợp đồng có thể đƣợc hoàn thành một cách nhanh
chóng, cũng có thể phải trải qua nhiều lần trao đổi, cứ mỗi lần bên đƣợc đề


17
nghị đƣa ra một yêu cầu trở lại đƣợc coi là xuất hiện đề nghị mới. Chỉ đến khi
giữa hai bên hoàn toàn thống nhất ý chí về những điều khoản cơ bản thì hợp
đồng mới đƣợc thiết lập. Đây chính là thời điểm cần thiết ghi nhận lại các
thoả thuận hợp đồng dƣới một dạng thức phù hợp, đảm bảo khả năng lƣu giữ
chúng. Hợp đồng phải đƣợc ghi nhận dƣới một hình thức mà bằng các giác
quan tự nhiên, con ngƣời có thể nhận biết đƣợc. Việc ghi nhận các hình thức
hợp đồng bằng hành vi hay bằng văn bản hay có thể dƣới một hình thức hoàn
toàn mới hoàn toàn có thể đƣợc mở rộng hơn, phù hợp với khả năng tƣ duy và
khả năng tri giác của con ngƣời trong thế giới của nền khoa học công nghệ
hiện đại.
Dƣới bất kỳ dạng thức nào, hình thức hợp đồng đều mang chức năng vô
cùng quan trọng: chức năng lƣu giữ thông tin. Chức năng này đƣợc biểu hiện

dƣới hai góc độ gồm khả năng ghi nhớ và khả năng tái hiện. Con ngƣời –
thông qua các giác quan có khả năng ghi nhớ những thoả thuận hợp đồng đã
đƣợc xác lập. Sự ghi nhớ thoả thuận hợp đồng không chỉ nhằm mục đích giúp
nhận biết đƣợc một sự việc đã diễn ra mà quan trọng hơn, nó giúp cho ngƣời
ta có thể tái hiện lại sự việc đó. Mặc dù việc giao kết hợp đồng – về nguyên
tắc – xuất phát từ nhu cầu của từng chủ thể nhƣng không loại trừ khả năng nó
không đƣợc các bên thi hành một cách nghiêm chỉnh. Khả năng tái hiện nhằm
mục đích đề phòng sự gian trá của bất kỳ bên nào trong quá trình thực hiện
hợp đồng .Tuy nhiên, không phải bất kỳ hình thức lƣu giữ thông tin nào cũng
có giá trị tái hiện nhƣ nhau. Khả năng lƣu giữ thông tin càng chắc chắn thì
khả năng tái hiện, phản ánh lại thông tin đó càng chính xác so với nguồn
thông tin ban đầu. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên, những hợp đồng có giá trị
cao hay việc hoàn thành hợp đồng ngay lập tức là không thể thực hiện đƣợc
lại thƣờng đƣợc lựa chọn lập bằng hình thức văn bản. Mỗi hình thức hợp
đồng đƣợc lựa chọn khi nó phù hợp với tính chất cũng nhƣ yêu cầu thực hiện


18
của loại hợp đồng đó. Nhƣ vậy, bằng việc thể hiện dƣới một hình thức nhất
định, hợp đồng đƣợc khẳng định đã đƣợc thiết lập và nó có giá trị thực hiện
đối với các bên.
Những vấn đề pháp lý thuộc về bản chất của hình thức hợp đồng nêu trên
cho phép đƣa ra đƣợc một khái niệm pháp lý về hình thức hợp đồng một cách
ngắn gọn:
“Hình thức hợp đồng là phương tiện ghi nhận thoả thuận hợp đồng đã
được các bên xác lập.”
Tuy nhiên, cần phân biệt hình thức hợp đồng với ý nghĩa là phương tiện
ghi nhận thoả thuận hợp đồng với các phương tiện trao đổi thông tin. Hợp
đồng là sản phẩm của một quá trình trao đổi thông tin mà trong quá trình đó,
ngƣời ta phải sử dụng các phƣơng tiện trao đổi thông tin. Nói phƣơng tiện

trao đổi thông tin là muốn nói đến cách thức truyền tải thông tin nhƣ bằng
miệng, bằng hành vi, bằng chữ viết, thậm chí bằng các dạng trao đổi hiện đại
nhƣ máy điện thoại, điện tín… Bản thân quá trình trao đổi thông tin này chƣa
đƣợc coi là hợp đồng cũng nhƣ các phƣơng tiện trao đổi thông tin này cũng
không phải là hình thức hợp đồng bởi nó chỉ phản ánh ý chí của từng bên mà
thôi.
1.2. Phân loại hình thức hợp đồng
Nhƣ một lẽ tự nhiên, một khi hai (hoặc nhiều bên) mong muốn xác lập
và thực hiện một giao dịch dân sự nào đó, họ phải minh thị, hoặc phải biểu đạt
ý chí của mình đối với phía bên kia. Hợp đồng đƣợc xác lập cũng có nghĩa là
ý chí của các bên về các điều kiện của hợp đồng đã đƣợc bày tỏ và thể hiện
một cách rõ ràng, đầy đủ dƣới một hình thức vật chất cụ thể.
Truyền đạt, tiếp nhận và phản ánh ý chí của các bên có thể đƣợc mô
phỏng nhƣ một quá trình trao đổi thông tin, trong đó các bên truyền đạt ý chí
của mình dƣới dạng thông tin nhất định, bất kể họ là ngƣời đóng vai là bên đề


19
xuất hay tiếp nhận ý kiến. Hẳn nhiên, nhƣ là một hiện tƣợng mang tính vật
chất, thông tin có khả năng phản ánh (hay nói cách khác có thể lƣu giữ dƣới
một hình thức nhất định). Quan trọng hơn, nó phải là thông tin mà các bên có
thể tiếp nhận và giải mã.
Trong ngữ cảnh của một giao dịch hợp đồng dân sự, môi trƣờng vật chất
chứa đựng thông tin về nội dung của giao dịch chính là hình thức của hợp
đồng ấy. Khi đã tồn tại thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nào đó, thì cũng có nghĩa là đã tồn tại
một hình thức vật chất nào đó phản ánh thỏa thuận ấy, và chúng tồn tại một
cách khách quan.
Dƣới giác độ quan điểm của khoa học luật dân sự, quan hệ hợp đồng là
quan hệ mang tính ý chí, cho nên khi tiếp cận để có sự phân loại hình thức

hợp đồng, các nhà lập pháp dựa theo các tiêu chí sau:
* Khả năng chuyển tải ý chí của các bên
Hợp đồng đƣợc hình thành là hệ quả của quá trình trao đổi ý kiến (hay
thông tin) giữa các bên. Nếu vì một lý do nào đó, quá trình trao đổi thông tin
đó bị ngừng hoặc chấm dứt, thì mặc nhiên hợp đồng sẽ không đƣợc thiết lập.
Bởi thế, nếu hình thức hợp đồng là phƣơng tiện chứa đựng những gì mà các
bên đã đi đến thống nhất, thì tự thân nó phải có khả năng chuyển tải ý chí của
các bên. Ở đây còn có một nhân tố rất quan trọng cần phải nói đến, đó là
phƣơng tiện đƣợc dùng để truyền đạt quan điểm, mong muốn của một bên đối
với bên kia (hoặc còn có thể quan niệm là phƣơng tiện truyền đạt thông tin).
Phƣơng tiện truyền đạt thông tin nhƣ đề cập phải là phƣơng tiện có khả năng
truyền tải chân thực và chính xác ý định, mong muốn của mỗi bên. Hơn thế
nữa, nó phải là những đối tƣợng vật chất thân thiện với hoạt động tƣ duy của
con ngƣời nói chung và các bên tham gia hợp đồng nói riêng. Hợp đồng dân
sự là một dạng giao dịch gần gũi với đời sống, và phƣơng tiện ghi nhận nó


20
không phải là những gì khác ngoài những gì mà con ngƣời vẫn thƣờng sử
dụng trong giao tiếp hàng ngày, nhƣ: ngôn ngữ (có thể là ngôn ngữ nói, có thể
là ngôn ngữ viết) và hành vi của con người (dạng hành vi có khả năng phản
ánh ý chí của ngƣời hành động).
* Khả năng lưu giữ
Hình thức của hợp đồng có thể đƣợc quan niệm nhƣ là một môi trƣờng
chứa đựng thông tin, trong đó thông tin chính là các điều khoản phản ánh
những gì các bên đã thỏa thuận. Khả năng dung nạp và ghi nhận ở mỗi dạng
hợp đồng có khác nhau, nhƣng yếu tố cốt yếu vẫn là bản chất thông tin đƣợc
ghi nhận và lƣu giữ. Thông tin mang tính siêu vật chất, đƣợc truyền đạt bằng
phƣơng thức quá đặc biệt, chẳng hạn nhƣ thần giao cách cảm, không phải là
thứ thông tin mà con ngƣời bình thƣờng sử dụng và vì thế, nó không thể đƣợc

sử dụng (hay công nhận) trong các giao dịch dân sự thông thƣờng.
* Khả năng tiếp cận, kiểm tra đánh giá
Một khi đã đƣợc hình thành, hình thức của hợp đồng sẽ trở thành một sự
vật tồn tại độc lập trong thế giới khách quan, cho dù nó là biểu hiện bên ngoài
của một mối quan hệ mang tính ý chí. Tuy thế, hình thức hợp đồng phải là
một sự vật có thể tri giác đƣợc, có thể nhận thức đƣợc, bởi lẽ hợp đồng chỉ có
lý do tồn tại khi mà những ngƣời tạo ra nó có thể nhận thức đƣợc những gì họ
đã cam kết trong hợp đồng. Tính khả tri của hình thức hợp đồng ở đây không
chỉ hàm ý đến vai trò nhận thức của ngƣời ký kết hợp đồng, mà còn ngụ ý đến
cả ngƣời thứ ba, nhất là tòa án với vai trò là ngƣời phân xử tranh chấp hợp
đồng.
Các tiêu chí này đã đƣợc nhà làm luật áp dụng khi xây dựng các quy định
liên quan đến hình thức hợp đồng. Các hình thức hợp đồng đƣợc ghi nhận
trong BLDS, thực chất là các hình thức (phƣơng tiện) phổ biến đƣợc sử dụng
trong các giao dịch dân sự thông thƣờng. Tác giả sẽ trình bày cụ thể hơn về


21
từng hình thức hợp đồng này ở Chƣơng II của Luận văn, ở đây tác giả xin
đƣợc chia xẻ suy nghĩ về việc vận dụng các tiêu chí đã đƣợc trình bày ở trên
qua từng dạng hợp đồng mà BLDS năm 2005 quy định, cụ thể:
* Hình thức hợp đồng bằng lời nói
Đây là hình thức hợp đồng đƣợc các bên trao đổi và xác lập bằng miệng.
So với các hình thức hợp đồng khác, đây có lẽ là hình thức hợp đồng cổ xƣa
nhất. Khi mà đời sống dân sự còn sơ khai, các hình thức trao đổi thông tin
giữa ngƣời với ngƣời mới chỉ dừng lại ở hình thức trao đổi ngôn ngữ một
cách trực tiếp và bằng miệng, thì hợp đồng miệng đóng vai trò là hình thức
hợp đồng chủ yếu (nếu không muốn nói là duy nhất) đƣợc các bên ký kết.
Trong đời sống dân sự hiện đại, cho dù con ngƣời đã tìm ra đƣợc nhiều
phƣơng thức giao tiếp khác, nhƣng hợp đồng miệng vẫn còn có chỗ đứng.

Những hợp đồng mà nội dung đơn giản và các bên có thể thực hiện ngay,
đƣợc xem là thuận tiện nhất cho các bên khi đƣợc ghi nhận bằng hình thức lời
nói hay bằng hợp đồng miệng.
Một điều dễ nhận thấy là hình thức này cũng có những hạn chế, nhất là ở
khả năng lƣu giữ thông tin, hay nói cách khác là giá trị chứng cứ của hình
thức hợp đồng này. Đối với các tranh chấp liên quan đến hợp đồng đƣợc xác
lập bằng miệng, việc tái hiện và nhận thức đầy đủ nội dung thỏa thuận của các
bên thƣờng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của
hình thức hợp đồng miệng có phần bị mờ nhạt đi trong cuộc sống dân sự hiện
đại.
* Hình thức hợp đồng bằng văn bản
Hợp đồng bằng văn bản là hình thức hợp đồng mà ở đó, thỏa thuận của
các bên đƣợc thể hiện dƣới dạng văn bản. So với hình thức hợp đồng miệng
thì hợp đồng bằng văn bản có nhiều ƣu thế hơn, bởi vậy hình thức hợp đồng
này đang ngày càng đƣợc sử dụng nhiều trong giao lƣu dân sự.


22
Hình thức hợp đồng bằng văn bản giờ đây không chỉ đƣợc hiểu máy móc
theo nghĩa là văn bản giấy, với các ký tự (đƣợc viết tay, hay đánh máy), phản
ánh ý chí của các bên. Khái niệm văn bản cần phải đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,
theo nghĩa là một môi trƣờng vật chất mà trên đó thỏa thuận của các bên đƣợc
minh thị dƣới dạng ký tự, có thể là chữ viết tay, có thể là các chữ đƣợc in
hoặc các ký tự đƣợc thể hiện trên môi trƣờng và thiết bị điện tử.
Tuy có nhiều ƣu thế hơn so với các hình thức hợp đồng khác, hình thức
hợp đồng bằng văn bản cũng đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần nghiên cứu.
Chẳng hạn, hợp đồng bằng văn bản có cần thiết phải là văn bản, trên đó các
bên thể hiện một cách rõ ràng ý chí của mình dƣới dạng các điều khoản và
cùng ký tên (đóng dấu) trên văn bản đó hay không?
* Hình thức hợp đồng được xác lập bằng hành vi

Hình thức hợp đồng đƣợc xác lập bằng hành vi có thể đƣợc hiểu là hình
thức hợp đồng mà ở đó một bên đƣa ra đề nghị giao kết hợp đồng có đầy đủ
nội dung hợp đồng, bên nhận đề nghị chỉ cần chấp nhận toàn bộ đề nghị bằng
cách thực hiện hành vi thể hiện sự chấp nhận đó mà thôi.
Các giao dịch dân sự đơn giản đồng thời xác lập và thực hiện với nhiều
ngƣời, với cùng nội dung (hay các quan hệ nghĩa vụ trong hợp đồng) có thể
đƣợc giao kết theo hình thức hành vi. Đối với những hợp đồng này, bao giờ
nội dung hợp đồng cũng đƣợc một bên đƣa ra trƣớc đối với bên kia, và bên
kia chấp nhận lời đề nghị ngay bằng cách thực hiện nghĩa vụ của mình trong
hợp đồng, chẳng hạn đƣa thẻ, tiền vào máy điện thoại công cộng. Ở đây, hành
vi ký kết hợp đồng đã đƣợc bên chấp nhận ngụ ý qua chính hành vi thực hiện
nghĩa vụ của họ trong hợp đồng.
CHƢƠNG 2
HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG BẰNG LỜI NÓI

×