Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.46 KB, 16 trang )

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức
tạp bởi nó xảy ra thường xuyên và liên tục trong đời sống xã hội, việc xử lý các
vụ án có liên quan cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề gây
tranh cãi trong nhiều vụ án là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và
ai là người phải bồi thường thiệt hại. Đó chính là vấn đề em xin trình bày dưới
đây với nội dung đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Bài viết còn nhiều sai sót, em mong rằng thầy cô giúp em chỉ ra lỗi sai và hoàn
thiện hơn về kiến thức.
 

A. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân
I. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân
Bồi thường thiệt hại là một tình thế buộc một người phải thực hiện một hành vi
hoặc có trách nhiệm gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc về nhân thân. Trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, uy tín mà trước đó không giao kết hợp đồng hoặc có giao kết hợp đồng
nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng.
II. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những
yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường
và mức độ bồi thường. Có 4 điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi
mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại tình trạng tài sản của
người bị thiệt hại. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc
xân phạm đến tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân, tổ chức. Thiệt hại gồm;
- Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi


phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử
dụng, khai thác công dụng của tài sản.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
- Thiệt hại về danh dự, uy tín
- Tổn thất về tinh thần
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Việc xâm phạm đến các quyền cơ bản của người khác mà gây thiệt hại có thể là
hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự… Hành vi gây thiệt hại
thông thường thể hiện dưới dạng hành động, chủ thể thực hiện hành vi mà đáng
ra không được thực hiện hành vi đó.
Ngoài ra pháp luật còn quy định những trường hợp gây thiệt hại nhưng không
trái pháp luật, những trường hợp này không phải bồi thường.
3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả
Thiệt hại xảy ra phải là hậu quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật và ngược lại
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại.
4. Người gây thiệt hại có lỗi
Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại khi họ có lỗi. Lỗi có thể thể hiện
dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý.
B. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá
nhân theo quy định của pháp luật hiện hành
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự, Điều 606 BLDS 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi,
tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Như vậy, năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân không đồng nhất
với năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng khi xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân thì không thể không căn cứ vào năng lực hành vi
của cá nhân đó. Điều 606 BLDS không quy định về năng lực hành vi dân sự
nhưng dựa vào yếu tố độ tuổi và sự phát triển trí tuệ của cá nhân để xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chính cá nhân gây thiệt hại đó hay cha

mẹ, người giám hộ,quản lý của cá nhân đó. Theo đó, chủ thể có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định như sau:
I. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân từ đủ
18 tuổi trở lên và có hành vi dân sự đầy đủ
Pháp luật quy định người đã thành niên là người tuổi từ đủ 18 trở lên, không mắc
bệnh tâm thần hay các bệnh khác mà không thể nhận thức được hành vi của
mình, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và do đó cá nhân này phải tự chịu trách
nhiệm về mọi hành vi của mình trước pháp luật. Theo khoản 1 Điều 606 BLDS
thì người từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây thiệt hại phải tự chịu trách nhiệm bồi
thường cho người bị thiệt hại bằng tài sản của mình mà không phụ thuộc vào
tình trạng tài sản của cá nhân này. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cá nhân đủ 18
tuổi nhưng vẫn cần cha mẹ chu cấp học đại học, học nghề, chưa lao động và
không có tài sản riêng thì pháp luật nên quy định cha mẹ dùng tài sản của mình
thực hiện nghĩa vụ thay con để bảo đảm lợi ích của người bị thiệt hại, dựa trên
nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời.
Theo nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao,
người đã thành niên gây thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi
thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình. Tuy nhiên người đã thành niên
còn bao gồm cả người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều
23 BLDS. Như vậy, phải chăng người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng
phải chịu trách nhiệm bồi thường như vậy? Người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng nghiện ma túy hay các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản của cá nhân này đều phải có sự đồng ý của người đại diện do tòa án chỉ định.
Quy định trên nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự của họ khi tham gia vào
những giao dịch có liên quan đến tài sản nhưng không là căn cứ loại trừ trách
nhiệm của họ khi có hàn vi gây thiệt hại cho người khác. Như vậy, trên nguyên
tắc của luật thì những cá nhân này vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của
mình, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân dưới

15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự
1. Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường
Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS thì đối với những thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra thì cha mẹ của người đó có trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ.
Như vậy, trong trường hợp này người trực tiếp gây thiệt hại và người có trách
nhiệm phải bồi thường là hai chủ thể khác nhau. Để tìm hiểu vì sao pháp luật lại
quy định như vậy, ta cùng lí giải:
Theo quy định tại Điều 19, 20 BLDS về năng lực chủ thể của cá nhân thì điều
kiện để một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đó phải thỏa
mãn yếu tố độ tuổi từ 18 tuổi trở lên và yếu tố nhận thức phát triển bình thường.
Quy định như vậy để cá nhân khi thực hiện bất kỳ hành vi nào cũng phải biết suy
nghĩ, tự nhận thức xem hành vi đó có đúng với pháp luật hay không, từ đó phải
chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình. Điều 20 BLDS quy định người dưới
15 tuổi ( chưa thỏa mãn độ tuổi trưởng thành nhưng đã có đủ nhận thức bình
thường) như sau:
- Cá nhân chưa đủ 6 tuổi được coi là người không có năng lực hành vi dân sự bởi
họ chưa thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Mọi giao dịch của họ đều
do ngươì đại diện theo pháp luật xác lập. Đối với những cá nhân này, khi họ gây
thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ
sẽ phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của cha mẹ.
- Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân
sự một phần, họ chỉ có thể xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong
giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Ngoài đó ra, những giao dịch
khác khi họ xác lập, thực hiện cần được người đại diện của họ theo pháp luật
đồng ý. Do đó, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này là những
người đại diện đương nhiên cho con có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của con gây ra. Tuy nhiên luật cũng quy định thêm trường hợp nếu
tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con dưới 15 tuổi có tài sản riêng
thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Người con trong độ tuổi này

gây thiệt hại nhưng trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ chứ không
phải trực tiếp người đó. Nhiều ý kiến cho rằng tuy cha mẹ không có lỗi trong sự
kiện gây thiệt hại đó nhưng họ có lỗi trong việc quản lý, giám sát con mình khiến
họ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, xét về bản
chất thì trách nhiệm bồi thường của cha mẹ là trách nhiệm pháp lý, không cần
điều kiện lỗi của cha mẹ trong việc giám sát hành vi của con mình. Quy định này
còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt
hại, giup họ được bồi thường theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Việc lấy tài
sản riêng của con bồi thường phần còn thiếu nếu tài sản của cha mẹ không đủ là
nhằm kịp thời khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ chứ không có ý nghĩa là trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được chuyển sang cho con và triệt tiêu trách nhiệm của cha mẹ. Về nguyên tắc,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của con dưới 15 tuổi luôn luôn thuộc về cha mẹ.
Trong xã hội ngày nay, nhiều bậc phụ huynh hoặc quá bận rộn, không có thời
gian quan tâm chăm sóc, dạy dỗ con cái, hoặc bỏ mặc con không chăm sóc, điều
này dễ khiến con trẻ bị dụ dỗ vào những tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm,
bạo lực… Quy định của Điều 606 BLDS đã buộc cha mẹ phải có trách nhiệm
pháp lý đối với những thiệt hại do con dưới 15 tuổi gây ra, góp phần đề cao trách
nhiệm quản lý, chăm sóc con cái của cha mẹ.
Tương tự với trường hợp cá nhân dưới 15 tuổi gây thiệt hại, những người bị mất
năng lực hành vi dân sự không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do họ
gây ra mà cha mẹ người đó phải bồi thường thiệt hại. Người bị mất năng lực
hành vi dân sự là những người chưa thành niên hoặc đã thành niên, nhưng không
có trí tuệ phát triển như bình thường do bị tâm thân hoặc các bệnh khác khiến họ
không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Trên cơ sở của tổ chức giám
định, theo yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan thì Tòa án có thể
tuyên bố một ngươi mất năng lực hành vi dân sự theo trình tự thủ tục luật định.
Những người này không thể nhận thức được hành vi của minh do đó cũng không
hiểu được hậu quả có thể xảy ra do hành vi của mình, vì vậy họ cần được sự

×