Đề bài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại
ngoài hợp đồng. Một số vấn đề và thực tiễn.
BÀI LÀM.
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bản thân mình là một quyền cơ
bản của công dân. Qua sự bồi thường thiệt hại sẽ bù đắp được những mất mát, khắc
phục hậu quả và giảm đi nỗi đau về tinh thần của người bị thiệt hại. Đồng thời thấy
được sự cần thiết của những quy định của pháp luật đối với việc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Hiện nay, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do
hành vi sai trái tuy đã được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005)và một số
văn bản pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể
trong trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người
thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan giải
khi tiếp cận. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân do thiệt hại ngoài hợp đồng. Một số vấn đề và thực
tiễn.
Đối với đề tài này, em xin đi sâu vào vấn đề năng lực bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Để có thể làm rõ vấn đề trên, ta cần có cơ sở để
tiếp cận vấn đề.
A. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG.
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự mà khi
người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm
1
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do
mình gây ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu
tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người được bồi thường và mức
độ bồi thường. Trong bộ luật dân sự không quy định cụ thể các điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường. Nhưng từ những quy định đó ta có cơ sở để xác định trách
nhiệm bồi thường phát sinh khi có các điều kiện sau:
2.1 Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong trách nhiệm dân sự dù thiệt hại không nghiêm trọng cũng phải bồi thường.
Nếu không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Thiệt hại là
những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Từ điều 608 đến điều 611 BLDS
quy định về các loại thiệt hại. Trong đó:
Thiệt hại về tài sản, đó là việc tài sản bị mất, bị hủy hoại, hư hỏng, những chi
phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai
thác công dụng của tài sản.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm
chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế
bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để
ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Tổn thất về tinh thần. Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng, đó là
những tình cảm, cảm xúc của con người khi bị tổn hại sẽ dẫn đến những tác động
tiêu cực như đau thương, âu sầu, góa bụa…. Trong quy định của pháp luật dân sự thì
2
người nào làm người khác bị tổn hại tinh thần thì phải bồi thường nhằm mục đích an
ủi, động viên đối với người bị thiệt hại.
2.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Đó là những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tinh thần của người khác mà được pháp luật bảo về. Hành vi trái pháp luật là những
hành vi không xử sự theo những quy định của pháp luật, trái với đạo đức xã hội.
Hành vi được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Trong luật hình
sự thì hành động là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội
phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động là hình thức
của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng của tội
phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc không làm một việc mà
pháp luật yêu cầu phải làm dù có điều kiện để làm.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng không trái pháp
luật. Đó là những trường hợp trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện
bất ngờ hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại. Nếu vượt quá giới hạn của phòng
vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì phải bồi thường thiệt hại.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được biêu hiện.
Về mặt thời gian, hành vi chính là nguyên nhân gây ra hậu quả đó. Hành vi xảy ra
trước, kết quả xảy ra sau. Hậu quả xảy ra phải chứa đựng khả năng gây thiệt hại của
hành vi. Đồng thời hậu quả chính là sự hiện thực hóa khả năng gây hậu quả của
hành vi. Từ đó, mới xác định được chắc chắn giữa hành vi và hậu quả có có mối liên
hệ hay không.
2.4 Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biêu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
3
Lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Trong đó lỗi cố ý gây thiệt hại
là trường hợp một người nhận thức rõ được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng vẫn để
mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước được hành
vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Trong trách nhiệm dân sự
có nhiều trường hợp được coi là lỗi suy đoán bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật. Chính vì vậy hành vi đó được coi là có lỗi. Lỗi trong trách nhiệm bồi
thường ngoài hợp đồng được xác định theo nguyên tắc sau:
a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý
hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì người gây thiệt hại
không phải bồi thường. Trường hợp này phù hợp với việc gây thiệt hại trong tình
huống bất ngờ.
b. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý trong việc
gây ra thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp.
c. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý, người bị thiệt hại có lỗi cố ý thì người gây thiệt
hại không phải bồi thường.
Như vậy ta có thể thấy nếu người gây ra thiệt hại nếu không có lỗi thì sẽ không phải
bồi thường.
3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo
4
Đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng có những điểm khác nhau như sau:
Trách nhiệm bồi thường trong hợp đồng chỉ phát sinh khi vi phạm những điều khoản
đã thỏa thuận trong hợp đồng. Có nghĩa là phải có cơ sở là hợp đồng thỏa thuận giữa
các chủ thể.
Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp đồng
đó. Đây là các chủ thể kí kết hợp đồng. Vì vậy, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra
thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại
cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài
hợp đồng.
Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng lại phát sinh trên cơ
sở của pháp luật và sự thỏa thuận giữa các bên. Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp
luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân,
trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề….
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân.
1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi.
Khoản 1 điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì
phải tự bồi thường”. Quy định này xuất phát từ việc căn cứ vào năng lực hành vi
dân sự của cá nhân căn cứ vào độ tuổi. Theo đó, người từ đủ 18 tuổi có khả năng
bằng hành vi của mình tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Chính vì vậy, họ phải
chịu trách nhiệm do hành vi trái pháp luật bằng tài sản của chính mình.
2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
2.1. Năng lực bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi.
5