Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THANH MAI

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
QUYỀN ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Thanh Mai


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG
NGHIỆP ........................................................................................................5
1.1.

Khái quát về kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp ........................................................5

1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp ..................................................................5
1.1.2. Phân loại kiểu dáng công nghiệp ...................................................................8
1.1.3. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và sáng chế, nhãn hiệu,
quyền tác giả,................................................................................................10
1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp ............. 11
1.1.5. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp ..................................................................................................14
1.2.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
theo các Điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia. ................15


1.2.1. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo
các Điều ước quốc tế ....................................................................................15
1.2.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo
pháp luật của một số quốc gia ......................................................................19
1.3.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp .....................29


1.3.1. Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 .............29
1.3.2. Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp sau khi có Luật Sở hữu trí tuệ 2005 ........................32
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP .................................................................39
2.1.

Điều kiện bảo hộ kiểu dáng cơng nghiệp..................................................39

2.1.1. Tính mới .......................................................................................................39
2.1.2. Tính sáng tạo ................................................................................................43
2.1.3. Khả năng áp dụng công nghiệp ....................................................................43
2.1.4. Các đối tượng không được pháp luật bảo hộ với danh nghĩa là kiểu
dáng công nghiệp .........................................................................................45
2.2.

Xác lập và chấm dứt quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp .................................................................................................46


2.2.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp ............46
2.2.2. Chấm dứt quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp. ........56
2.3.

Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN ...............................57

2.3.1. Quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp.............................................57
2.3.2. Nghĩa vụ của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp ........................................66
2.4.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp.........66

2.4.1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu
dáng công nghiệp .........................................................................................67
2.4.2. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
kiểu dáng công nghiệp .................................................................................70
Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ........................................................79


3.1.

Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
cơng nghiệp ở Việt Nam .............................................................................79

3.1.1. Tình hình đăng ký, khiếu nại về KDCN ......................................................79
3.1.2. Sử dụng, khai thác quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN ....................83
3.1.3. Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN.....................86

3.2.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với kiểu dáng công nghiệp ...............................................92

KẾT LUẬN ............................................................................................................106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................108
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam

Công ước Paris

Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

EU

Liên minh châu Âu

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại


Hiệp ước Locarno

Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với
KDCN năm 1968

KDCN

Kiểu dáng công nghiệp

Luật SHTT 2005

Luật sở hữu trí tuệ nước CHXHCN Việt Nam năm 2005
sửa đổi, bổ sung năm 2009

MFN

Nguyên tắcđối xử tối huệ quốc (Most Favoured Nation)

NT

Nguyên tắcđối xử quốc gia (National Treatment)

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ


Thỏa ước Lahay

Thỏa ước Lahay về đăng kí quốc tế kiểu dáng công nghiệp
được thông qua trong khuôn khổ Cơng ước Paris ngày
6/11/1925 và có hiệu lực từ ngày 01/06/1928, Thỏa ước đã
được sửa đổi bổ sung nhiều lần, hai văn kiện của Thỏa ước
hiện có hiệu lực là: Văn kiện London 1934 và Văn kiện
Lahay 1960, trong phạm vi luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu Văn kiện Lahay 1960

TRIPs

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đơn đăng ký KDCN đã được nộp từ 1988 đến 2012 .............................80
Bảng 3.2. Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp đã được cấp từ 1989 đến 2012 .....81
Bảng 3.3. Giải quyết khiếu nại về SHCN .................................................................83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểu dáng cơng nghiệp là một đối tượng quan trọng trong các đối tượng của

quyền sở hữu công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp liên quan đến khía cạnh mỹ
thuật, hình dáng bên ngồi của sản phẩm. Chính hình dáng bên ngồi đó làm cho
sản phẩm thu hút và hấp dẫn đối với người tiêu dùng và sự hấp dẫn trực quan là yếu
tố chính mà người tiêu dùng cân nhắc trong việc lựa chọn sản phẩm khi mua sắm
hàng hóa. Kiểu dáng cơng nghiệp cũng giúp cho các công ty phân biệt sản phẩm của
các đối tượng cạnh tranh trên thị trường và cải thiện, nâng cao hình ảnh sản phẩm
của họ. Cũng trong tình trạng như đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ, các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp cũng ngày
càng phức tạp và phổ biến hơn. Việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng cơng nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Mục đích của việc xác
định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp là để giải quyết hiệu quả các vụ việc cụ thể trong cơng tác thực thi quyền sở
hữu trí tuệ.
Vấn đề bảo hộ quyền SHCN nói chung và bảo hộ KDCN nói riêng vẫn
không ngừng vận động và phát triển cùng với hoạt động giao lưu thương mại quốc
tế theo hướng mở rộng các quyền năng cho chủ sở hữu, mở rộng phạm vi các đối
tượng được bảo hộ. Bảo hộ SHCN không chỉ mang ý nghĩa riêng lẻ đối với từng
quốc gia mà cịn mang tính tồn cầu trong bối cảnh tự do hóa, tồn cầu hóa thương
mại. Khi nhu cầu hội nhập là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, kinh tế tri thức
chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế tồn cầu thì việc bảo hộ SHCN càng trở nên
bức thiết đối với bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là Việt Nam.
Trong sự vận động và phát triển của xã hội, KDCN có vai trị to lớn, phục
vụ ngày càng tốt và hoàn hảo hơn cho nhu cầu của con người. Xã hội càng phát
triển cao, thẩm mỹ và nhu cầu của con người về kiểu dáng càng đòi hỏi khắt khe
và tinh vi hơn, các nhà sản xuất phải làm sao cho sản phẩm của mình mới lạ, hấp
dẫn và chất lượng.

1



Thực tế ở Việt Nam cho thấy, trong nền kinh tế yếu kém trước đây, người
dân chủ yếu chỉ quan tâm đến số lượng và chất lượng của sản phẩm; các nhà sản
xuất cũng chỉ dựa vào đó để sản xuất mà không mấy chú trọng đến kiểu dáng của
sản phẩm. Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XXI, sự lựa chọn cuối cùng của người tiêu
dùng luôn thuộc về các sản phẩm đáp ứng được cả chất lượng lẫn kiểu dáng. Một
kiểu dáng hấp dẫn người tiêu dùng sẽ làm tăng giá trị thương mại của sản phẩm và
trở thành tài sản vơ hình quan trọng của nhà sản xuất đó.
Song song với sự thay đổi này, nạn trộm cắp, làm hàng giả, hàng nhái KDCN
xảy ra với quy mô và số lượng ngày càng lớn. Nhiều khi hàng thật chưa được tung ra
thị trường thì hàng giả đã xuất hiện. Xuất phát từ thực trạng đó, nếu khơng có một hệ
thống bảo hộ KDCN hoàn thiện, sẽ làm giảm động lực phát triển của xã hội, triệt tiêu
sự sáng tạo của trí tuệ con người. Hiện nay, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn
vào các quá trình kinh tế quốc tế. Vì thế, pháp luật về SHTT nói chung và về KDCN
nói riêng cần phải đáp ứng được những chuẩn mực chung của quốc tế. Do đó, việc
nghiên cứu hệ thống bảo hộ KDCN để tìm ra những ưu điểm và những hạn chế để
khắc phục là yêu cầu cần thiết và cấp bách đối với bất kỳ quốc gia nào. Chính vì vậy,
tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với KDCN theo pháp luật Việt Nam” cho luận văn thạc sỹ luật học.

2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bảo hộ quyền SHCN đối với KDCN là lĩnh vực có phạm vi nghiên cứu rộng,
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, bảo hộ
KDCN được tiếp cận dưới góc độ thơng qua các quy phạm pháp luật điều chỉnh về
điều kiện, nội dung của quyền SHCN và những vấn đề pháp lý khác (như thủ tục,
quy trình đăng kí bảo hộ,…) đối với KDCN qua đó nhằm đảm bảo các quyền và lợi
ích hợp pháp cho chủ sở hữu KDCN. Với cách tiếp cận này, luận văn đi sâu vào
nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về KDCN, nêu và phân tích quy định của
một số ĐƯQT tiêu biểu và pháp luật một số quốc gia có nền SHTT tiên tiến, đánh
giá khải quát hệ thống pháp luật về KDCN của Việt Nam, thực trạng bảo hộ KDCN


2


ở Việt Nam và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo
hộ KDCN tại Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nhận diện và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kiểu dáng công nghiệp.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về bảo hộ quyền đối với kiểu dáng cơng nghiệp hiện nay, tìm hiểu về nguyên
nhân của thực trạng trên.
- Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định về bảo hộ quyền đối với kiểu dáng công nghiệp. Giảm
thiểu những tranh chấp và vướng mắc phát sinh liên quan đến chế định này và tạo ra
cơ sở để các cơ quan thực thi pháp luật giải quyết các vướng mắc phát sinh.

4. Phương pháp nghiên cứu
- Khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong qua trình đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng
thực tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành
như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp
thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn.

5. Ý nghĩa của Luận văn
Ngồi ý nghĩa là một cơng trình nghiên cứu riêng của bản thân về quyền sở
hữu công nghiệp đối với kiểu dáng cơng nghiệp để hồn thành chương trình học tập
và báo cáo tốt nghiệp lớp cao học Luật Dân sự của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà

Nội, việc nghiên cứu đề tài cịn có ý nghĩa phân tích các quy định của pháp luật
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị
nhằm mục đích xây dựng và hồn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề này.

3


6. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Chương 2: Những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Chương 3: Thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
cơng nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị hồn thiện pháp luật

4


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ BẢO HỘ QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái quát về kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
1.1.1. Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Một sản phẩm để dễ được người tiêu dùng chú ý đến không chỉ bởi chất
lượng, tính năng của nó mà cịn phụ thuộc phần lớn vào kiểu dáng bên ngoài của
sản phẩm. Kiểu dáng công nghiệp là một trong các đối tượng của quyền sở hữu
cơng nghiệp. Vì thế, kiểu dáng cơng nghiệp cũng có những đặc tính chung của tài

sản trí tuệ như: tính sáng tạo, tính chất vơ hình, tính dễ phổ biến, lan truyền. Tuy
nhiên về nội hàm kiểu dáng công nghiệp hiện nay trên thế giới vẫn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau với các tiêu chí khác nhau. Có thể dẫn ra một số ví dụ như sau:
Theo định nghĩa của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), KDCN là “các khía cạnh
mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của sản phẩm. Kiểu dáng có thể bao hàm các khía
cạnh 3 chiều, ví dụ như hình dạng hoặc bề mặt của sản phẩm, hoặc các khía cạnh hai
chiều như mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu sắc. (http:..www.wto.int).
Có thể thấy, theo WIPO, KDCN được xác định trước hết ở tính chất trang trí
hay thẩm mỹ của nó. KDCN cũng được xác định là biểu hiện bên ngoài của sản
phẩm và biểu hiện đó có thể ở khơng gian hai chiều hoặc ba chiều. Định nghĩa đã
lấy ví dụ về các cách thể hiện ở không gian ba chiều và không gian hai chiều của
KDCN. Định nghĩa của WIPO mang tính “mở”, cho phép hiểu về KDCN theo một
nghĩa rất rộng.
Theo pháp luật Mỹ, KDCN “bao gồm các đặc tính trang trí được thể hiện hay
áp dụng trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể hiện ở hình dáng bên ngồi nên
đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là hình dạng của một sản phẩm, là trang trí mặt
ngồi của một sản phẩm, hay là sự kết hợp giữa hình dạng và trang trí bề ngồi. Một
kiểu dáng trang trí bề ngồi khơng thể tách rời sản phẩm mà nó trang trí và do vậy
khơng thể tự thân tồn tại một mình được”.

5


Pháp luật Mỹ đã nhấn mạnh đặc tính trang trí của KDCN và cũng khẳng định
KDCN được thể hiện ở khơng gian hai chiều hoặc ba chiều. Ngồi ra, pháp luật Mỹ
cịn đặt ra u cầu KDCN phải ln gắn liền với sản phẩm cụ thể.
Khác với WIPO và Mỹ, pháp luật của Liên minh Châu Âu và một số quốc
gia khác trên thế giới chỉ xác định KDCN là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm và
liệt kê cụ thể các yếu tố hợp thành KDCN như đường nét, màu sắc, bố cục v.v..
Liên minh Châu Âu định nghĩa KDCN là “hình dạng bên ngồi của một sản

phẩm hay của một số bộ phận của sản phẩm. Kiểu dáng có thể được cấu thành từ
các đường nét, màu, hình, bố cục hay trang trí.
Pháp luật Trung Quốc định nghĩa “Kiểu dáng là bất kỳ nét mới nào của hình
dáng, kiểu dáng hay màu sắc, hay sự kết hợp của các yếu tố đó với nhau, của một
sản phẩm, là những cái tạo ra một ấn tượng mang tính thẩm mỹ và thích hợp với
việc áp dụng cơng nghiệp.” Ngồi liệt kê các dạng biểu hiện của một KDCN, pháp
luật Trung Quốc cịn đưa ra u cầu KDCN phải có khả năng áp dụng vào lĩnh vực
sản xuất công nghiệp.
Trên đây là một số cách định nghĩa trên thế giới về KDCN, đối với pháp luật
Việt Nam, KDCN được định nghĩa như sau: “KDCN là hình dáng bên ngồi của sản
phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp của những
yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công
nghiệp hoặc thủ công nghiệp”.
Như vậy, có thể thấy, định nghĩa về KDCN theo pháp luật của các nước
trên thế giới còn tồn tại những điểm không thực sự giống nhau nhưng về cơ bản,
các định nghĩa đều thống nhất với nhau hai đặc điểm thuộc về bản chất của một
KDCN nói chung:
Thứ nhất, KDCN phải là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm mà người tiêu
dùng có thể cảm nhận được bằng các giác quan khác nhau, giác quan chủ yếu là thị
giác. Biểu hiện bên ngoài này của sản phẩm phải cảm nhận được bằng mắt thường,
tạo ra một ấn tượng về thị giác, có thể là đường nét, hình khối, màu sắc, hoặc sự kết
hợp những yếu tố đó, đảm bảo phân biệt được sự giống nhau hay khác biệt giữa các

6


sản phẩm. Cách thức biểu hiện vẻ bên ngoài của sản phẩm có thể ở dạng khơng gian
hai chiều hoặc khơng gian ba chiều.
Thứ hai, KDCN phải có khả năng ứng dụng để sản xuất ra sản phẩm bằng
phương pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp. Tổng hợp các đặc điểm tạo dáng

không gắn liền với sản phẩm sẽ không được bảo hộ với danh nghĩa KDCN. Pháp
luật của hầu hết các nước đều quy định về khả năng áp dụng cơng nghiệp của
KDCN. Theo đó, KDCN phải là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được sản xuất
bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp (Hoa Kỳ, EU, Indonesia,
Malaysia, Philippines…) hoặc hình dáng bên ngồi của sản phẩm được sản xuất
công nghiệp (Nhật Bản, Hàn Quốc…)
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã đưa hai tiêu chí trên vào trong định
nghĩa về KDCN. Có thể thấy pháp luật Việt Nam về KDCN khá tương đồng với
pháp luật các nước trên thế giới.
Ví dụ về kiểu dáng cơng nghiệp:

Nguồn: />
7


Với các đặc điểm trên, KDCN có những chức năng cụ thể như sau:
- KDCN mang chức năng thẩm mỹ, tức là KDCN cần phải có tính thẩm mỹ,
làm hài lòng người tiêu dùng, người sử dụng sản phẩm mang kiểu dáng đó. Đây là
chức năng cơ bản và quan trọng nhất của KDCN. Một trong những tiêu chí cơ bản
để một KDCN được bảo hộ đó là tính thẩm mỹ, từ đó, ta có thể thấy, đề cập tới
KDCN là đề cập tới vẻ đẹp, tính hấp dẫn ở hình khối, dáng vẻ bên ngồi của sản
phẩm. Chính tính thẩm mỹ này mang lại giá trị kinh tế cho KDCN.
- KDCN có chức năng nâng cao tiện ích của sản phẩm. Bên cạnh chức năng
quan trọng nhất là chức năng thẩm mỹ, còn một chức năng khác của KDCN là chức
năng nâng cao sự thuận tiện và lợi ích của sản phẩm. Mặc dù khơng như giải pháp
hữu ích nhưng thực tế cho thấy, thông thường cùng với sự sáng tạo KDCN hướng
đến tính thẩm mỹ thì đồng thời cũng cần quan tâm đến khả năng tiện dụng trong
việc sử dụng sản phẩm. Nếu sản phẩm gây bất tiện do người sử dụng hoặc làm mất
đi bản chất đặc trưng của sản phẩm thì sản phẩm sẽ khơng cịn hữu dụng cho mục
đích sử dụng như ban đầu nó hướng tới. Do đó, khi sáng tạo KDCN, khơng chỉ có

khía cạnh thẩm mỹ được chú trọng mà ngay cả việc tiện lợi trong sử dụng sản phẩm
cũng phải được quan tâm hàng đầu.
- KDCN đóng vai trị để phân biệt các sản phẩm cùng loại. Khi những sản
phẩm có cùng tính năng sử dụng thì dáng vẻ bên ngồi chính là cơ sở để phân biệt
những sản phẩm đó với nhau. Ví dụ, đều là điện thoại di động nhưng khơng cần
thiết phải nhìn vào nhãn hiệu hay dịng chữ được in trên máy mà chỉ cần nhìn từ xa,
người tiêu dùng cũng có thể dễ dàng nhận ra và phân biệt những loại điện thoại
khác nhau như điện thoại Nokia, Apple, HTC…
1.1.2. Phân loại kiểu dáng công nghiệp
Trên cơ sở khái niệm KDCN, có thể phân loại KDCN dựa trên các hình thức
biểu hiện bên ngồi sản phẩm như sau:
(i) Kiểu dáng cơng nghiệp là hình dáng của sản phẩm
Loại KDCN là hình dáng của sản phẩm chính là dáng vẻ bề ngoài của một
sản phẩm nhất định. Hình dáng được hiểu là “hình của một vật làm thành vẻ riêng

8


bên ngồi của nó” và hình là “tồn thể nói chung những đường nét giới hạn của
một vật trong không gian làm phân biệt rõ vật đó với xung quanh”. Hình dáng có
thể là hình dạng phẳng (hai chiều) hoặc hình khơng gian (ba chiều) của sản phẩm.
Ví dụ như dáng vẻ của một chiếc điện thoại di động mang đặc trưng bởi hình thù (là
sự kết hợp bởi các thành phần như màn hình, các phím bấm,…) mà khi nhìn vào ta
có thể phân biệt chiếc điện thoại của nhà sản xuất này với những chiếc điện thoại
của nhà sản xuất khác. Đối với loại KDCN này, biểu hiện bên ngồi của sản phẩm
chỉ là dáng vẻ của nó mà thôi chứ không chứa các họa tiết hay màu sắc nào cả.
(ii) Kiểu dáng công nghiệp là sự kết hợp của hình dáng và họa tiết
Loại KDCN này bao gồm cả hình dáng và họa tiết tức là bên cạnh dáng vẻ
của sản phẩm thì bên ngồi sản phẩm còn được thể hiện bởi các họa tiết. Họa tiết là
hình vẽ đã được cách điệu hóa, dùng để trang trí. Vẫn lấy ví dụ chiếc điện thoại di

động nói trên, bên cạnh dáng vẻ, hình thù, chiếc điện thoại này cịn được trang trí ở
vịng ngồi bằng những hình vẽ trang trí bắt mắt… Và tổng thể hình dáng, họa tiết
bên ngồi của sản phẩm đã tạo nên tính khác biệt của sản phẩm đó.
(iii) Kiểu dáng cơng nghiệp là sự kết hợp của hình dáng và màu sắc
Đối với loại KDCN này thì hình dáng bên ngồi của sản phẩm được biểu hiện
bởi dáng vẻ, hình thù kết hợp cùng màu sắc trang trí. Màu sắc ở đây là màu của chính
sản phẩm có được do ngun liệu được sử dụng trong thực thể hoặc màu của thuốc
nhuộm hoặc sơn phủ lên sản phẩm. Cùng là ví dụ về chiếc điện thoại di động như nói
trên, trong trường hợp này, kiểu dáng của chiếc điện thoại lại được thể hiện bởi dáng
vẻ cùng với màu sắc được dùng để trang trí, tạo nên sự độc đáo cho sản phẩm.
(iv) Kiểu dáng công nghiệp là sự kết hợp của hình dáng, họa tiết và màu sắc
Khác với các loại KDCN nói trên, loại KDCN này mang trong nó tất cả các
yếu tố thể hiện: hình dáng, họa tiết và màu sắc. Chiếc điện thoại di động lúc này
được thể hiện bởi hình dáng, các hình vẽ và cả màu sắc trang trí. Hiện nay, loại
KDCN này là phổ biến nhất do nhu cầu về thẩm mỹ ngày càng cao cùng với trình
độ sáng tạo và khoa học kỹ thuật phát triển giúp tạo ra những KDCN này.

9


1.1.3. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và sáng chế, nhãn hiệu,
quyền tác giả,
1.1.3.1. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và sáng chế
KDCN và sáng chế đều có điểm chung đó là những hoạt động sáng tạo do
con người thực hiện. Tuy nhiên, nếu như sáng chế là những ý tưởng kỹ thuật được
tạo ra bằng cách ứng dụng các quy luật tự nhiên và được bảo hộ dưới góc độ kỹ
thuật thì KDCN được bảo hộ dưới góc độ thẩm mỹ. Theo quy định của nhiều nước
trên thế giới, luật pháp về KDCN không được áp dụng cho hình dáng của vật khơng
có tính trang trí và khơng có khả năng áp dụng cơng nghiệp, tuy nhiên trên thực tế
khơng phải lúc nào cũng có thể phân biệt hồn tồn hai loại hình bảo hộ này, và do

vậy một số quốc gia đã đưa ra quy định về khả năng chuyển đổi đơn - Conversion of
application, theo đó, đơn đăng kí sáng chế có thể chuyển đổi thành KDCN hoặc
ngược lại tùy thuộc vào yêu cầu của người nộp đơn (như quy định tại Điều 13 Luật
KDCN Nhật Bản 1959 sửa đổi 2006,…).
1.1.3.2. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
Điểm giống giữa KDCN và nhãn hiệu đó là chúng đều có tác dụng để phân
biệt các sản phẩm cùng loại với nhau. Một đối tượng đăng kí bảo hộ KDCN hay
nhãn hiệu đều cần phải được thể hiện thơng qua hình ảnh, màu sắc, đường nét hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó. Do vậy, một khi KDCN thỏa mãn các yếu tố này đồng
thời có khả năng phân biệt nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ (mang chức năng nhãn
hiệu) thì hồn tồn có khả năng được bảo hộ với tư cách nhãn hiệu (hai chiều hoặc
ba chiều). Ví dụ kiểu dáng chai nước ngọt Coca-cola có thể được đăng kí bảo hộ với
tư cách nhãn hiệu ba chiều (tại Việt Nam, Coca-cola đã được cấp Văn bằng bảo hộ
số 4-0105452-000 ngày 21/7/2008 cho nhãn hiệu Coca-cola), hoặc như một số loại
bao bì sản phẩm có thể được bảo hộ theo KDCN, nhãn hiệu hoặc đồng thời cà hai
hình thức trên [37, tr.249].
Giữa KDCN và nhãn hiệu có sự khác nhau. Thứ nhất, về mục đích, nếu
như bảo hộ KDCN nhằm mục đích bảo hộ sự sáng tạo và kết quả hoạt động sáng
tạo do con người tạo ra thì đối với nhãn hiệu, việc bảo hộ nhằm để phân biệt

10


hàng hóa và đảm bảo uy tín trong kinh doanh cho thương hiệu được bảo bộ. Thứ
hai, về điều kiện đăng ký, một kiểu dáng để được bảo hộ dưới hình thức KDCN
cần phải gắn liền với một sản phẩm nhất định, cịn với nhãn hiệu thì điều này
khơng bắt buộc. Một đối tượng đăng kí bảo hộ với tư cách nhãn hiệu có thể đăng
kí bảo hộ cho một sản phẩm hay nhóm sản phẩm, một dịch vụ hay nhóm dịch vụ
hoặc nhóm sản phẩm và dịch vụ.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và quyền tác giả

KDCN có mối liên hệ khá mật thiết với đối tượng của quyền tác giả (hay bản
quyền), đặc biệt là với tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng. Trong nhiều trường
hợp, một đối tượng vừa đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ về KDCN đồng thời
đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ về bản quyền có thể được bảo hộ đồng thời theo cả
hai cách thức đó hoặc loại trừ một trong hai.
Bảo hộ đồng thời có nghĩa KDCN được đồng thời với tư cách là KDCN
và quyền tác giả, do đó, người sáng tạo có thể viện dẫn sự bảo hộ của một trong
hai hoặc của cả hai tùy theo sự lựa chọn của mình. Nếu tác giả kiểu dáng không
giành được sự bảo hộ theo luật kiểu dáng do khơng đăng ký thì vẫn có thể yêu
cầu luật bản quyền bảo hộ mà không cần tuân theo bất kỳ thủ tục nào. Ngoài ra,
sau khi hết thời hạn bảo hộ KDCN thì kiểu dáng vẫn được bảo hộ theo thời hạn
của luật bản quyền.
Đối với bảo hộ loại trừ thì người sáng tạo phải lựa chọn giữa sự bảo hộ hoặc
của luật kiểu dáng hoặc của luật bản quyền. Một khi tác giả chấp nhận sự bảo hộ
này sẽ không được viện dẫn sự bảo hộ kia. Ngoài ra, nếu đăng ký bảo hộ theo luật
KDCN thì khi hết thời hạn bảo hộ, kiểu dáng cũng sẽ không được bảo hộ tiếp theo
quy định của luật bản quyền.
1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
1.1.4.1. Quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Điều 2, Công ước Stockholm năm 1967 về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới (WIPO) định nghĩa khái quát về sở hữu trí tuệ như sau: “ Sở hữu trí tuệ
được hiểu rộng hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sản phẩm văn học,

11


nghệ thuật, khoa học; sự trình diễn của các nghệ sỹ, các chương trình phát và
truyền thanh, phát và truyền hình; các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực; các phát minh
khoa học; kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các tên
thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các

quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ,
văn học, nghệ thuật.”
Căn cứ định nghĩa trên và phù hợp với quan niệm truyền thống về SHTT,
quyền SHCN được coi là một bộ phận của quyền SHTT. Quyền SHCN là một dạng
quyền tài sản, đó là quyền đối với loại tài sản vơ hình, có giá trị thương mại và được
bảo hộ. Quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN phát sinh trên cơ sở văn bằng
bảo hộ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.
(i) Chủ thể quyền sở hữu cơng nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
- Tác giả kiểu dáng công nghiệp:
KDCN là do con người tạo ra và người sáng tạo ra KDCN được gọi là tác
giả. Như vậy, tác giả của KDCN chính là người trực tiếp bằng lao động trí óc, bằng
sự sáng tạo của cá nhân đã tạo ra hình dáng của sản phẩm và được pháp luật thừa
nhận là KDCN và được bảo hộ. Và trong trường hợp KDCN đó được tạo ra do sự
sáng tạo của hai người trở lên thì họ được gọi là đồng tác giả.
- Chủ sở hữu kiểu dáng cơng nghiệp:
Chủ sở hữu KDCN có thể là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ KDCN hoặc được chuyển giao
quyền SHCN đối với KDCN.
(ii) Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
- Quyền tài sản của chủ sở hữu
Không giống như quyền sở hữu đối với các loại tài sản thông thường, do tính
đặc thù của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng mà khi qui định
quyền của chủ sở hữu KDCN, pháp luật qui định quyền sử dụng và quyền định đoạt
mà hầu như không nhắc tới quyền chiếm hữu.
- Quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả

12


Quyền nhân thân của tác giả là quyền gắn liền với tác giả, không thể chuyển

dịch ( trừ trường hợp ngoại lệ theo điểm c khoản 2 điều 738 BLDS) và được pháp
luật bảo hộ vô thời hạn. Tác giả của KDCN gồm hai loại: thứ nhất, tác giả đó đồng
thời là chủ sở hữu văn bằng bản hộ (tác giả đã tạo ra đối tượng đó bằng cơng sức
lao động cũng như kinh phí riêng của bản thân); thứ hai là tác giả không đồng thời
là chủ sở hữu văn bằng bảo hộ (tác giả sáng tạo ra KDCN dựa trên hợp đồng lao
động, hợp đồng thuê hay tác giả đã chuyển giao KCDN đó cho người khác thơng
qua hợp đồng chuyển nhượng). Tương ứng với hai hình thức đó, pháp luật quy định
quyền nhân thân của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả KDCN về cơ bản là quyền nhận thù lao từ chủ
sở hữu KDCN theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đây là lợi ích
phát sinh từ việc sáng tạo ra KDCN, cũng là phần thù lao bù đắp cho sự nỗ lực
sáng tạo, cho lao động trí óc của tác giả; tiền thù lao cũng để trả cho cả chi phí
về vật chất mà tác giả đã phải bỏ ra trong suốt quá trình nghiên cứu như tiền mua
nguyên vật liệu, thiết bị máy móc,… trong trường hợp tác giả sáng tạo ra KDCN
một cách độc lập bằng kinh phí và trí tuệ của riêng mình và sau đó chuyển giao
quyền sở hữu đó cho người khác.
Ngồi hai quyền đó thì tác giả cịn có quyền u cầu cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình khi có bất cứ hành vi xâm
phạm đến quyền của mình.
Các quyền SHCN đối với KDCN tác giả sẽ phân tích cụ thể trong Chương 2
của luận văn.
1.1.4.2. Bảo hộ quyền sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN là một bộ phận quan trọng
của bảo hộ quyền SHCN nói riêng và quyền SHTT nói chung. Theo nghĩa hẹp, bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp là việc thực hiện một số hoạt động của các cá nhân, tổ
chức có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý bất kỳ sự vi phạm nào nhằm bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
được pháp luật bảo hộ.
Theo nghĩa rộng, bảo hộ quyền SHCN là sự ghi nhận về mặt pháp lý tổng thể


13


các quyền SHCN, quy định những biện pháp, cách thức để thực hiện các quyền đó
trên thực tế và việc ngăn chặn, xử lý những hành vi xâm phạm các quyền đó.
Trước khi Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ 1995 (Hiệp định TRIPs) ra đời, khái niệm bảo hộ quyền SHTT thường
được hiểu theo nghĩa hẹp. Sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã nhấn mạnh đến quan
hệ giữa bảo hộ và thực thi quyền, bảo hộ quyền SHTT được tiếp cận theo nghĩa rất
rộng. Khi giải thích vấn đề này, Điều 3, 4 Phụ lục của TRIPs đã quy định rõ: “Thuật
ngữ bảo hộ phải gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được,
phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi quyền SHTT cũng như các vấn đề ảnh
hưởng đến việc sử dụng quyền SHTT được quy định trong Hiệp định”. Với cách giải
thích này, bảo hộ quyền SHTT được hiểu rất rộng, không chỉ bao gồm việc xác lập
quyền SHTT cho chủ sở hữu theo trình tự trong pháp luật mà còn chú trọng đến các
biện pháp để đảm bảo thực thi quyền này trên thực tế.
Qua sự phân tích trên, khái niệm bảo hộ quyền sở hữu đối với KDCN về
phương diện pháp lý có thể hiểu như sau: Bảo hộ quyền sở hữu đối với KDCN là
việc Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật xác lập, duy trì quyền SHTT đối với
KDCN cho các chủ sở hữu KDCN và áp dụng các biện pháp thực thi quyền nhằm
chống lại bất kỳ sự vi phạm nào từ phía các chủ thể khác.
1.1.5. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng
công nghiệp
Từ nhiều năm nay, vấn đề thực hiện bảo hộ quyền SHCN đã trở thành những
vấn đề chính trên bàn đàm phán về mậu dịch, thương mại giữa các nước trên thế
giới. Các nước công nghiệp phát triển thường gây áp lực đối với nước đang phát
triển, buộc các nước này phải sửa đổi luật lệ có quy định quyền sở hữu cơng nghiệp
nói riêng và SHTT nói chung một cách nghiêm ngặt hơn.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu của
người dân khơng chỉ cịn dừng lại ở mức “ăn no, mặc ấm” mà đã được nâng cao lên

rất nhiều. Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà đã đặc
biệt chú trọng đến hình thức, kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm.Vì lẽ đó,các doanh

14


nghiệp đều mong muốn thỏa mãn được thị hiếu của người tiêu dùng với những sản
phẩm KDCN tối ưu và giá trị thẩm mỹ cao.Vì vậy, KDCN đã trở thành một trong
những lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một sự phát triển kinh tế
bền vững, cần thiết phải có một cơ chế bảo hộ KDCN đầy đủ và hiệu quả nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp
KDCN, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và hơn nữa là đảm bảo mục tiêu
khuyến khích, thúc đẩy sức sáng tạo của con người.

1.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công
nghiệp theo các Điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia
1.2.1. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
theo các Điều ước quốc tế
Hiện nay có nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương được ký kết giữa
các quốc gia có nội dung về bảo hộ KDCN, cũng như đăng ký quốc tế đối với KDCN.
Các điều ước quốc tế đa phương về bảo hộ KDCN hiện nay bao gồm Công
ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883; Thỏa ước Lahay 1960 về đăng
ký quốc tế đối với KDCN; Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với
KDCN năm 1968; Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ 1995 (Hiệp địnhTRIPs). Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc
tế đối với KDCN năm 1968. Sự ra đời của các điều ước quốc tế đa phương đã tạo
nên một khung pháp lý thống nhất để bảo hộ KDCN.
- Công ước Paris (1883)
Đây là một trong những Công ước quốc tế đa phương quan trọng đầu tiên về

SHCN. Công ước Paris được ký kết với mục đích xây dựng các điều kiện có lợi cho
việc cấp Văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu đối tượng SHCN là công dân, pháp nhân
của nước này ở nước khác thuộc thành viên Công ước trên nguyên tắc tôn trọng luật
SHCN của các nước thành viên [50, tr.217]. Các nước tham gia Công ước Paris đã
lập nên một liên minh quốc tế về bảo hộ SHCN (liên minh Paris có trụ sở tại
Berne). Từ thời điểm kí kết cho đến nay, Cơng ước đã trải qua nhiều lần sửa đổi

15


quan trọng tại các hội nghị quốc tế và lần sửa đổi gần đây nhất là tại hội nghị tổ
chức ở Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979.
Cơng ước Paris (bản sửa đổi năm 1979) gồm có 30 điều khoản. Công ước
này ghi nhận KDCN là một trong các đối tượng điều chỉnh của Công ước (Điều 1),
các nguyên tắc bảo hộ (Điều 2, 3). Tại Điều 4 quy định chung về đăng ký đơn xin
cấp Văn bằng bảo hộ cho các đối tượng của quyền SHCN, trong đó có KDCN. Điều
5 Cơng ước Paris ghi nhận bước đầu rằng KDCN sẽ được bảo hộ tại tất cả các quốc
gia thành viên Cơng ước.
Có thể nói, Cơng ước Paris 1883 là cơ sở pháp lí quốc tế đầu tiên đặt nền tảng
cho việc bảo hộ quốc tế quyền SHCN (bao gồm cả đối tượng là KDCN). Trong khuôn
khổ của Công ước Paris, nhiều điều ước quốc tế sau này về SHCN đã được kí kết.
- Thỏa ước Lahay 1960 về đăng kí quốc tế kiểu dáng cơng nghiệp
Thỏa ước Lahay được kí kết ngày 06/11/1925, bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/06/1928 và được sửa đổi, bổ sung một số lần vào năm 1934 tại London, năm
1960 tại Lahay.
Thỏa ước Lahay được kí kết trong khn khổ của Cơng ước Paris, với mục
đích làm đơn giản hóa thủ tục đăng kí

đã được quy định trong Cơng ước Paris.


Thỏa ước Lahay cho phép công dân của các nước thành viên có được sự bảo hộ các
KDCN của họ tại các nước thành viên khác mà mình cần bảo hộ.
- Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với kiểu dáng
công nghiệp
Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với KDCN là một điều
ước quốc tế đa phương được ký kết vào ngày 08 tháng 10 năm 1968 và chính thức
có hiệu lực vào ngày 27 tháng 4 năm 1971 nhằm tạo ra sự phân loại quốc tế thống
nhất về KDCN đối với các quốc gia tham gia công ước
Hiện nay, hệ thống phân loại Locarno có ba phần: Danh mục các Nhóm và
Phân nhóm (gồm 31 nhóm và 211 phân nhóm); Danh mục hàng hóa theo thứ tự chữ
cái mà các kiểu dáng công nghiệp được kết hợp (gồm hơn 6000 đầu mục hàng hóa)
và Chú thích giải nghĩa.

16


Để ứng phó với sự thay đổi trong cơng nghệ và thương mại, Hiệp ước đã
thành lập một Ủy ban chuyên gia để thực hiện việc sửa đổi và bổ sung đối với Phân
loại quốc tế về KDCN.
- Hiệp định TRIPs
Tại vòng đàm phán Uruguay về thuế quan và thương mại của GATT vào
ngày 15/12/1993, Hiệp định TRIPs – Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ đã được kí kết. Hiệp định TRIPs bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 01/01/1995 đối với tất cả các nước là thành viên của GATT (nay là WTO).
Trong số các điều ước quốc tế đa phương có nội dung về bảo hộ KDCN,
Hiệp định TRIPs được xem là điều ước quốc tế quan trọng nhất, là nền tảng của
pháp luật thương mại quốc tế trong việc bảo hộ quyền SHTT bao gồm cả KDCN.
Vai trò của Hiệp định TRIPs trong việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và
bảo hộ KDCN nói riêng được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, ngoài nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT) là

nguyên tắc phổ biến được quy định trong các điều ước quốc tế về SHTT, Hiệp định
TRIPs còn quy định áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (Most Favoured Nation MFN) trong việc bảo hộ quyền SHTT. Đây chính là một trong các nguyên tắc trụ cột
của thương mại quốc tế nhằm chống phân biệt đối xử, tạo ra sự bình đẳng về mặt pháp
lý giữa thể nhân và pháp nhân của các nước là thành viên của WTO. Với việc quy định
nguyên tắc MFN trong Hiệp định TRIPs, các nước thành viên của WTO đã chính thức
cơng nhận SHTT là một lĩnh vực không thể tách rời của thương mại quốc tế.
Thứ hai, Hiệp định TRIPs quy định nguyên tắc, điều kiện cụ thể để bảo hộ
KDCN (Điều 25, Điều 26 của Hiệp định) và các biện pháp để thực thi quyền đối với
KDCN. Hiệp định TRIPs không quy định các biện pháp thực thi riêng cho từng đối
tượng của quyền SHTT, các biện pháp thực thi quyền đối với KDCN tuân theo các
quy định chung tại phần III “Thực thi quyền SHTT” của Hiệp định. Các quy định
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho quyền SHTT (bao gồm
cả quyền SHTT đối với KDCN) của các chủ thể được duy trì, khai thác và sử dụng
hiệu quả trên thực tế.

17


Thứ ba, Hiệp định TRIPs quy định thủ tục hữu hiệu và nhanh chóng để giải
quyết tranh chấp đa phương giữa các chính phủ trong lĩnh vực SHTT bao gồm các
vấn đề liên quan đến việc bảo hộ KDCN. Các điều ước quốc tế trước đây về SHTT,
như Công ước Paris 1883 về bảo hộ SHCN, việc giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia được thực hiện tại Tòa án quốc tế (nếu các quốc gia không đàm phán
thương lượng được với nhau – Điều 28 Cơng ước Paris), vì vậy quá trình giải quyết
tranh chấp khá phức tạp và tính khả thi khơng cao. Khác với các điều ước quốc tế
đó, theo quy định tại Điều 64.1 của Hiệp định TRIPs, trong quá trình thực hiện Hiệp
định, việc thương lượng và giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên phải
tuân thủ các quy định tại các Điều XXII và XXIII của GATT 1994 đã được chi tiết
hóa và áp dụng trong “Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp” của các nước thành
viên. Quy định này bảo đảm cho quá trình giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia

trong lĩnh vực SHTT nói chung và KDCN nói riêng được thực hiện thống nhất,
nhanh chóng và hiệu quả.
Có thể nói, sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã tạo ra một bước ngoặt lớn đối
với các quốc gia trên thế giới trong việc bảo hộ quyền SHTT. Các quy định của
Hiệp định TRIPs về bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền đối với KDCN
nói riêng được đánh giá là toàn diện và hiệu quả nhất trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay Việt Nam đã tham gia ba điều ước quốc tế đa phương điều chỉnh về
quyền SHCN với KDCN. Đó là Cơng ước Paris 1883, Hiệp định về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của quyền SHTT – TRIPS (1994). Là một trong những
thành viên tích cực của tổ chức quốc tế khu vực ASEAN, Việt Nam còn tham gia
một điều ước quốc tế khu vực về SHTT là Hiệp định khung về SHTT của ASEAN
(ký kết ngày 15/12/1995). Hiệp định này không quy định riêng về điều chỉnh quyền
SHCN với KDCN mà xây dựng khung pháp lý chung để điều chỉnh các đối tượng
của quyền SHCN. Trong đó KDCN được nhắc đến tại Điều 3 về phạm vi hợp tác
giữa các quốc gia trong khu vực.
Bên cạnh các điều ước quốc tế đa phương, đề bảo hộ KDCN, các quốc gia
còn trực tiếp ký kết các điều ước song phương về bảo hộ KDCN. Nghiên cứu về

18


×