ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ VÂN
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU TẬP THỂ THEO LUẬT
SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN LÊ HỒNG
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Vân
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
6. Những đóng góp mới của luận văn 5
7. Bố cục của luận văn 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHTT 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của NHTT 7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Đặc điểm của NHTT 14
1.1.3. Chức năng của NHTT 18
1.2. Khái niệm, các nội dung cơ bản của bảo hộ NHTT 22
1.2.1. Khái niệm bảo hộ NHTT 22
1.2.2. Những nội dung cơ bản của bảo hộ NHTT 25
1.3. Pháp luật pháp luật quốc tế và pháp luật các nƣớc về bảo hộ NHTT. 33
1.3.1. Pháp luật quốc tế về bảo hộ NHTT 33
1.3.2. Pháp luật của các nƣớc về NHTT 42
1.4. Ý nghĩa của việc bảo hộ NHTT 45
Chương 2: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ THỰC TIỄN BẢO HỘ
NHTT Ở VIỆT NAM 48
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
NHTT ở Việt Nam 48
2.2. Quy định của Luật SHTT về bảo hộ NHTT 49
2.2.1. Dấu hiệu đƣợc sử dụng làm NHTT 50
2.2.2. Điều kiện bảo hộ NHTT 57
2.2.3. Cơ chế và việc đăng ký NHTT 60
2.3. Thực tiễn bảo hộ NHTT ở Việt Nam 70
2.3.1. Thực tiễn trong việc đăng ký bảo hộ NHTT 70
2.3.2. Thực tiễn trong việc quản lý và sử dụng 76
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHTT 82
3.1. Phƣơng hƣớng 82
3.2. Một số kiến nghị cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật 89
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về sử dụng dấu hiệu làm NHTT 89
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về điều kiện bảo hộ NHTT 92
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về cơ chế và đăng ký NHTT 93
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTT
Nhãn hiệu tập thể
SHCN
Sở hữu công nghiệp
SHTT
Sở hữu Trí tuệ
TRIPS
Hiệp định liên quan đến các khía cạnh thƣơng mại
của quyền Sở hữu Trí tuệ - Agreement on Trade –
Related Aspects of Intellectual Property Rights.
WIPO
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới
WTO
Tổ chức thƣơng mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, các nƣớc giao lƣu
hợp tác cùng phát triển trong mọi lĩnh vực, tạo nên nhiều cơ hội và thách thức
đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh việc mở ra cơ hội giao lƣu hợp tác cùng
phát triển thì hệ quả của bối cảnh kinh tế sẽ kéo theo đó là sự cạnh tranh gay
gắt trên thị trƣờng. Sự cạnh tranh này sẽ đào thải những doanh nghiệp không
phù hợp và không đáp ứng đƣợc nhu cầu hay đòi hỏi của nền kinh tế. Để tồn
tại đƣợc trong hoàn cảnh đó, không ít các doanh nghiệp lợi dụng uy tín, danh
tiếng của sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp khác để đƣa ra thị trƣờng
các sản phẩm, dịch vụ kém chất lƣợng và lừa dối ngƣời tiêu dùng. Nhận thức
đƣợc điều đó, các nƣớc trên thế giới bên cạnh việc phát triển kinh tế họ đã
quan tâm chú trọng đến vấn đề bảo hộ quyền SHCN để bảo vệ tài sản trí tuệ
cho chính doanh nghiệp mình.
Nƣớc ta cũng không nằm ngoài hệ quả của bối cảnh kinh tế quốc tế nêu
trên. Tuy nhiên, việc xác lập và bảo hộ tài sản trí tuệ ở trong nƣớc hiện nay
còn khá mới mẻ với nhiều ngƣời dân, phần lớn họ chƣa ý thức đƣợc việc bảo
hộ cho tài sản trí tuệ của mình. Điều này xuất phát từ rất nhiều các nguyên
nhân khác nhau, do thực trạng nền kinh tế của nƣớc ta còn đang trong giai
đoạn phát triển, có thể là do ý thức của ngƣời dân và cũng có thể là do hệ
thống pháp luật chƣa đầy đủ. Bên cạnh đó là hệ thống cơ quan thực thi quyền
SHCN còn chồng chéo, chƣa thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của
mình. Vì thế mà chƣa tạo lòng tin cho ngƣời dân. Hơn nữa, việc xử lý các
hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng các biện pháp hành chính là chính, biện
pháp dân sự và hình sự rất ít khi đƣợc sử dụng.
Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc khiến các doanh nghiệp nói chung và
2
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng ở nƣớc ta đang đứng trƣớc
sự lựa chọn hợp tác cùng phát triển hay phát triển theo một cách riêng rẽ và
làm sao để bảo vệ đƣợc tài sản trí tuệ của mình một cách hiệu quả nhất. Trong
hoạt động thƣơng mại tồn tại lời khuyên “nếu không thể đánh bại thì hãy gia
nhập”. Lời khuyên này đúng đối với trƣờng hợp của NHTT vì nó tạo nên sức
mạnh cạnh tranh của một tập thể các doanh nghiệp mà một doanh nghiệp đơn
lẻ không thể có đƣợc.
Xuất phát từ thực tế trên đây, việc lựa chọn đề tài “Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với NHTT theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” là cần
thiết và phù hợp với thực tế hiện nay. Nó có ý nghĩa:
Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ NHTT;
Giúp cho ngƣời đọc có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về các quy định
của pháp luật trong việc bảo hộ nhãn hiệu tập thế;
Góp phần nâng cao ý thức của ngƣời dân trong việc bảo hộ tài sản trí tuệ;
Nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong việc bảo hộ,
thực thi quyền SHCN đối với NHTT nói riêng và quyền SHTT nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định pháp luật về việc bảo hộ
của nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng đã có nhiều đề tài nghiên cứu,
các bài viết trên báo và các tạp chí chuyên ngành nhƣ: “Bảo hộ NHTT, nhãn
hiệu chứng nhận tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoá
luận tốt nghiệp Văn Thanh Phƣơng; Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Vũ Thị Hải Yến -
Hà Nội, 2012; “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, nghiên cứu so sánh giữa pháp luật
liên minh Châu Âu và Việt Nam”, luận án tiến sỹ của Phan Ngọc Tâm năm
2011; “Pháp luật bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam
thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, luận văn thạc sỹ luật học của Hồ Ngọc
Hiển năm 2004; Trần Việt Hùng: Tầm quan trọng của bảo hộ nhăn hiệu hàng
3
hóa trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng cƣờng tính cạnh tranh toàn
cầu, Hội thảo "Bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng hóa" tại Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2001; “Bảo hộ NHTT ở Việt Nam”, Khoá luận tốt nghiệp Bùi Văn
Bằng; Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tuyết - Hà Nội, 2010; “Xác định
khả năng phân biệt của nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam”,
luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Thị Hồng năm 2008; “Cơ sở pháp lý cho
việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ luật học của
Đỗ Thị Hằng năm 2006; “Nhãn hiệu có khả năng phân biệt thông qua quá
trình sử dụng dƣới góc độ so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật liên minh
Châu Âu, Hoa Kỳ”, luận văn thạc sỹ luật học của Đàm Thị Diễm Hạnh năm
2009; PGS.TS Đoàn Năng: Về thực trạng và phƣơng hƣớng tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN ở nƣớc ta hiện nay, Tạp chí Nhà nƣớc
và Pháp luật, số 2/2000
Các công trình trên đây đã phần nào nghiên cứu những vấn đề pháp lý
hoặc cơ sở lý luận cho việc bảo hộ nhãn hiệu, chẳng hạn nhƣ khóa luận tốt
nghiệp của Bùi Văn Bằng phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến
NHTT, chƣa nêu ra đƣợc các điểm bất cập trong quy định của luật. Hơn nữa,
phần thực tiễn pháp luật về bảo hộ quyền thì khóa luận chỉ tập trung phân tích
thực trạng trong việc thực thi quyền. Hoặc nhƣ khóa luận tốt nghiệp của Văn
Thanh Phƣơng chỉ có một phần phân tích về NHTT bên cạnh Nhãn hiệu
chứng nhận và phần này chỉ phân tích theo các quy định của luật về NHTT
mà thôi. Tuy nhiên, chƣa có đề tài nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về
bảo hộ NHTT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Làm sáng tỏ vấn đề về mặt lý luận và cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ
NHTT ở Việt Nam;
4
Nghiên cứu các quy định của pháp luật các nƣớc trên thế giới về
bảo hộ NHTT;
Từ thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT ở nƣớc ta để đƣa ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu
quả bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT.
Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra đối với tác giả của luận
văn nhƣ sau:
Nghiên cứu để làm rõ về mặt lý luận của NHTT trong mối quan hệ với
các đối tƣợng khác của quyền SHCN. Cụ thể tập trung nghiên cứu phân tích
các đặc điểm, chức năng của NHTT, chỉ ra những nội dung cơ bản nhất của
NHTT từ đó xây dựng các khái niệm về NHTT và bảo hộ NHTT.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ NHTT cụ
thể là các dấu hiệu đƣợc sử dụng làm NHTT, điều kiện bảo hộ cũng nhƣ cơ
chế và việc đăng ký NHTT trong sự so sánh với quy định của pháp luật các
nƣớc khác và quốc tế để thấy đƣợc những ƣu điểm và hạn chế trong quy định
của luật SHTT Việt Nam;
Nghiên cứu thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT ở Việt Nam
trong việc đăng ký, quản lý và sử dụng để tìm ra những điểm còn tồn tại. Qua
đó đề ra những biện pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao
hiệu quả trong vấn đề bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ
quyền SHCH đối với NHTT. Bên cạnh quy định của pháp luật Việt Nam,
luận văn cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của
các nƣớc trên thế giới để so sánh đối chiếu với pháp luật Việt Nam. Ngoài ra,
5
luận văn cũng nghiên cứu vụ việc điển hình trong thực trạng bảo hộ quyền
SHCN đối với NHTT, tìm ra những điểm còn hạn chế trong quy định của
Luật cũng nhƣ trong thực tế thực hiện quyền đối với NHTT của chủ sở hữu.
- Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hộ
NHTT bao gồm các quy định của pháp luật trong việc đăng ký xác lập quyền
đối với NHTT của Việt Nam và so sánh với một nƣớc trên thế giới, luận văn
không nhằm vào việc nghiên cứu các quy định của pháp luật trong việc thực
thi quyền SHCN đối với NHTT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đã vận dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp
đối chiếu, so sánh, khái quát hoá, phƣơng pháp logic và phƣơng pháp lịch sử
trong việc phân tích và luận giải những vấn đề đã đặt ra. Đồng thời luận văn
cũng kế thừa và sử dụng một số kết quả nghiên cứu, chuyên đề khoa học có
liên quan đến bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Rất nhiều các đề tài nghiên cứu về nhãn hiệu nói chung, nhƣng luận
văn là tài liệu đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về bảo hộ quyền SHCN đối với
NHTT tại Việt Nam. Luận văn đã có những đóng góp mới nhƣ sau:
Làm sáng tỏ về mặt lý luận về bảo hộ NHTT và đặc biệt là đƣa ra các
khái niệm khoa học liên quan đến NHTT nhƣ bảo hộ NHTT;
Làm rõ về hệ thống bảo hộ NHTT theo pháp luật Việt Nam;
Nghiên cứu pháp luật của một số nƣớc về NHTT và phân tích so
sánh đối chiếu với pháp luật Việt Nam;
Chỉ ra thực trạng đăng ký và sử dụng NHTT tại Việt Nam và xây
6
dựng các kiến nghị và giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về NHTT.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tham khảo, nội dung Luận
văn bao gồm có ba chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo hộ NHTT
Chương 2: Luật SHTT và thực tiễn bảo hộ NHTT ở Việt Nam
Chương 3: Phƣơng hƣớng và một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về bảo hộ NHTT
…………………
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHTT
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của NHTT
1.1.1. Khái niệm
Mặc dù không phổ biến và đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhƣ nhãn hiệu
thông thƣờng, NHTT cũng có vị trí và vai trò riêng của nó. Để hiểu khái niệm
thế nào là NHTT, trƣớc tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về nhãn hiệu.
Trƣớc khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời, Nghị định 63/CP năm 1996 cũng
đã có giải thích nhƣng chƣa đƣa ra khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa (Nghị
định 63 sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa”). Tuy nhiên, những giải
thích này còn sơ sài và chƣa hiểu đúng bản chất thế nào là nhãn hiệu. Nghị
định có giải thích “Nhãn hiệu hàng hoá” đƣợc hiểu là bao gồm cả nhãn hiệu
dịch vụ. Thay vì giải thích thế nào là nhãn hiệu hàng hóa, nghị định chỉ đƣa ra
giải thích về mặt nội dung bao hàm của nhãn hiệu hàng hóa là bao gồm cả
nhãn hiệu dịch vụ. Khắc phục những thiếu sót của Nghị định 63, Luật sở hữu
trí tuệ 2005 (SHTT) đã đƣa ra khái niệm của nhãn hiệu trong phần giải thích
từ ngữ nhƣ sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Theo quy định của Luật SHTT, nhãn
hiệu trƣớc hết là một dấu hiệu. Dấu hiệu để đăng ký đƣợc với danh nghĩa là
nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy đƣợc dƣới dạng chữ cái, chữ số, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố đó
đƣợc thể hiện bằng một hoặc một số màu sắc nhất định. Theo quy định nêu
trên, thì những dấu hiệu không nhìn thấy đƣợc hoặc không đƣợc thể hiện dƣới
dạng vật chất nhất định thì sẽ không đƣợc dùng làm nhãn hiệu. Quy định này
đã loại trừ các loại nhãn hiệu là nhãn hiệu mùi vị hay âm thanh Luật nhãn
hiệu Mỹ khi coi các dấu hiệu đƣợc sử dụng làm nhãn hiệu bao gồm cả dấu
8
hiệu mùi vị, âm thanh. Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng quy định của Mỹ đã
mở rộng phạm vi hơn so với quy định của pháp luật Việt Nam.
Nhƣng không phải bất kỳ dấu hiệu nào cũng có thể đƣợc sử dụng làm
nhãn hiệu mà dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Chức năng phân biệt là một yếu tố quan
trọng khi xác định một dấu hiệu làm nhãn hiệu của một chủ thể.
Mặc dù NHTT không phổ biến nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng nhƣng nó
cũng có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của các sản phẩm, dịch
vụ mang NHTT. Cũng giống nhƣ nhãn hiệu, trƣớc khi Luật SHTT ra đời,
Nghị định 63 cũng đã đƣa ra một khái niệm về NHTT trong phần giải thích từ
ngữ nhƣ sau: “NHTT là nhãn hiệu hàng hoá đƣợc tập thể các cá nhân, pháp
nhân hoặc các chủ thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng
một cách độc lập theo quy chế do tập thể đó quy định”. Theo quy định của
Nghị định 63 nêu trên thì NHTT là nhãn hiệu hàng hóa và đƣợc tập thể các cá
nhân, pháp nhân cùng sử dụng theo một quy chế do tập thể quy định. Quy
định này của Nghị định chỉ nêu bật đƣợc NHTT là gì và chủ thể của nhãn hiệu
này là ai chứ không thể hiện đƣợc khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Trong
khi đó khả năng phân biệt của nhãn hiệu là yếu tố vô cùng quan trọng khi xác
định một dấu hiệu có phải là NHTT hay không. Khắc phục đƣợc các thiếu sót
đó, Luật SHTT đã quy định tại điểm 17 của Điều 4 nhƣ sau: “NHTT là nhãn
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là
chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không
phải là thành viên của tổ chức đó”.
Để hiểu rõ hơn khái niệm NHTT, chúng ta cần hiểu trƣớc tiên thế nào
là “Tập thể”:“Tập thể là một nhóm chính thức có tổ chức, thống nhất, thực
hiện mục đích chung, phù hợp với lợi ích xã hội” [24].
Tập thể là một “Nhóm” chính thức, nhƣng không phải bất cứ nhóm
9
nào cũng là một tập thể. Nhóm là một tập hợp ngƣời đƣợc thống nhất lại
với nhau theo một mục đích và theo những mối quan hệ nhất định chẳng
hạn nhƣ mối quan hệ công việc, học tập, vui chơi Nhóm là một khái niệm
rộng hơn tập thể.
Chúng ta sẽ xem xét “Tập thể” dựa trên trên những dấu hiệu sau đây:
Quan hệ tổ chức: Quan hệ tổ chức trong tập thể sẽ xác lập đƣợc
những mối quan hệ rõ ràng, chặt chẽ giữa chủ thể quản lý và các thành
viên. Hoạt động vì mục tiêu và lợi ích chung của tập thể. Quyền và nghĩa
vụ của chủ thể quản lý và thành viên đƣợc quy định chính thức và đƣợc
tuân thủ chặt chẽ.
Quan hệ quản lý: Trong tập thể có sự phân chia chức năng, quyền
hạn, trách nhiệm cụ thể. Trong đó chủ thể quản lý sẽ chịu trách nhiệm điều
hành, kiểm soát việc tuân thủ các quy định mà tập thể đã đặt ra, xử lý các
hành vi vi phạm do việc không tuân thủ hoặc làm trái các quy định của tập
thể Hoạt động của các thành viên sẽ tuân theo sự quản lý của chủ thể quản
lý và theo một sự chỉ đạo thống nhất có kế hoạch, có kỷ luật, quy chế hoạt
động rõ ràng.
Quan hệ tài chính: Quan hệ tài chính trong tập thể sẽ hình thành nên
các quỹ tiền tệ và hình thành nên mối quan hệ trong việc sử dụng và phân
phối các quỹ tiền tệ. Lợi ích trong tập thể đƣợc phân chia công bằng cho các
thành viên.
Mục đích hoạt động: Thực hiện một mục đích chung mà tập thể đề ra,
phù hợp với sự phát triển và lợi ích của xã hội.
Những đặc điểm riêng của “Tập thể” nêu trên sẽ tạo nên những điểm
khác biệt trong vấn đề sở hữu, trong tổ chức quản lý và sử dụng của NHTT
mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở những phần sau.
Tuy nhiên, từ khái niệm NHTT sẽ thấy những điểm khác nhau so
10
với nhãn hiệu thông thƣờng. Sự khác nhau đó đƣợc thể hiện trên các khía
cạnh nhƣ sau:
Về chủ sở hữu: Không giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng, chủ sở hữu
có thể là cá nhân hoặc tổ chức, NHTT quy định chủ sở hữu chỉ có thể là tổ
chức. Quy định này đã loại trừ cá nhân hoặc thƣơng nhân là cá nhân đƣợc
tham gia làm chủ sở hữu NHTT. Bởi lẽ, chức năng phân biệt ở của NHTT
khác so với chức năng phân biệt của nhãn hiệu thông thƣờng. NHTT dùng để
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên của tổ chức là chủ sở hữu với tổ
chức, cá nhân khác không phải là thành viên của tổ chức.
Về chủ thể có quyền sử dụng: Không những là chủ sở hữu mà các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đều có quyền sử dụng NHTT.
Về chức năng phân biệt: NHTT dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ
của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch
vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Nếu nhãn
hiệu thông thƣờng có quy định phân biệt hàng hóa dịch vụ của các chủ thể
khác nhau (chủ thể ở đây có thể là giữa các cá nhân với các cá nhân, giữa các
cá nhân với tổ chức hoặc giữa các tổ chức với tổ chức) thì NHTT chỉ phân
biệt hàng hóa dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó
với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ
chức đó. Tức là chức năng phân biệt ở đây chỉ giới hạn cho các chủ thể là các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với các tổ chức, cá nhân khác
không phải là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó. Nhƣ vậy, có
thể thấy mục đích phân biệt của NHTT khác so với nhãn hiệu thông thƣờng.
Tìm hiểu quy định của quốc tế và các nƣớc chúng ta đều thấy những
quy định khác nhau về NHTT dựa trên các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi nƣớc.
11
(i) NHTT theo quy định của Công ước Paris
Công ƣớc Paris có các quy định về NHTT nêu tại Điều 7bis. “Điều này
buộc một nƣớc thành viên chấp nhận việc nộp đơn và bảo hộ theo các điều
kiện cụ thể do nƣớc đó quy định, NHTT của “các hiệp hội”. Đây là hiệp hội
các nhà sản xuất, chế tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thƣơng gia khác về
hàng hóa đƣợc chế tạo hoặc sản xuất tại một nƣớc, khu vực địa phƣơng cụ thể
hoặc hàng hóa có các đặc tính chung khác. NHTT của các quốc gia hoặc các
cơ quan nhà nƣớc khác không chịu sự điều chỉnh của các quy định này.
Để đƣợc áp dụng Điều 7bis, hoạt động của các hiệp hội sở hữu các
NHTT phải không trái với pháp luật của nƣớc sở tại. Hiệp hội không phải
chứng minh rằng họ tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, nhƣng việc đăng ký
và bảo hộ NHTT của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho
là trái với các quy định của pháp luật”.
Về chủ sở hữu: Do là những quy định khung để các nƣớc có những quy
định riêng phù hợp với điều kiện của nƣớc mình nên chủ sở hữu NHTT đƣợc
đề cập cũng mang tính khái quát, ví dụ phạm vi của “các hiệp hội” là chủ sở
hữu NHTT đƣợc quy định trong Công ƣớc là hiệp hội các nhà sản xuất, chế
tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thƣơng gia khác
Công ƣớc cũng quy định “hiệp hội không phải chứng minh rằng họ
tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, nhƣng việc đăng ký và bảo hộ NHTT của
họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là trái với các quy
định của pháp luật”. Quy định này cũng thể hiện bản chất là những quy định
khung để mỗi nƣớc nƣớc thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện của mình
bởi lẽ “hiệp hội không phải chứng minh rằng họ tuân thủ pháp luật của nƣớc
sở tại”. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định việc không phải chứng minh rằng
họ tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, Công ƣớc cũng quy định việc đăng ký
bảo hộ NHTT của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là
12
trái với các quy định của pháp luật. Các quy định này vừa thể hiện sự mềm
dẻo, vừa thể hiện tính chặt chẽ trong việc áp dụng luật của các nƣớc.
(ii) Khái niệm về NHTT của Mỹ.
Tại Mỹ có đƣa ra khái niệm về NHTT tại phần giải thích từ ngữ nhƣ sau:
“Cụm từ NHTT sẽ đƣợc hiểu bao gồm nhãn hiệu thông thƣờng hoặc
nhãn hiệu dịch vụ mà:
(1) đƣợc sử dụng bởi một tập thể hoặc một hiệp hội hoặc một tổ chức mà;
(2) tập thể, hiệp hội hay tổ chức có ý định sử dụng một cách trung
thực trong thƣơng mại và nộp đơn đăng ký dựa trên ngƣời đƣợc ủy quyền
theo quy định”.
Về chủ sở hữu: Quy định của NHTT theo Luật Mỹ tập trung đề cập đến
vấn đề chủ sở hữu của NHTT. Chủ sở hữu đƣợc quy định trong Luật của Mỹ
với phạm vi rộng hơn, đó có thể là một tập thể, một hiệp hội hay một tổ chức.
Về điều kiện sử dụng: Khác với quy định của các nƣớc, Mỹ đòi hỏi chủ
thể đăng ký NHTT phải có ý định sử dụng nhãn hiệu trong thƣơng mại. Tức
là nếu một chủ thể đăng ký NHTT mà không có sử dụng hoặc có ý định sử
dụng trên thực tế thì có thể sẽ bị từ chối đăng ký.
Không giống nhƣ Việt Nam, khái niệm theo Luật Mỹ tập trung vào
khía cạnh chủ sở hữu của NHTT, không nêu ra các yếu tố liên quan đến khả
năng phân biệt của NHTT. Tuy nhiên, để một dấu hiệu đƣợc đăng ký làm
NHTT theo Luật Mỹ thì dấu hiệu đó cũng phải đáp ứng điều kiện bắt buộc là
có khả năng phân biệt.
(iii) Khái niệm NHTT của Anh
Nếu nhƣ Luật nhãn hiệu Mỹ chú trọng đến chủ sở hữu của NHTT và đề
cập đến vấn đề sử dụng NHTT thì Luật nhãn hiệu của Anh đƣa ra những quy
định về NHTT dựa trên quy định về chủ sở hữu và khả năng phân biệt của
NHTT. Tại Điều 49 Luật nhãn hiệu của Anh có quy định về NHTT nhƣ sau:
13
“NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của thành viên
của hiệp hội là chủ sở hữu của nhãn hiệu đó với những ngƣời thuộc các doanh
nghiệp khác”.
Về chủ sở hữu: Không liệt kê tên của tổ chức làm chủ sở hữu NHTT
nhƣ quy định của Mỹ, Luật nhãn hiệu của Anh chỉ quy định duy nhất “Hiệp
hội” là chủ sở hữu của NHTT;
Về chức năng phân biệt: Cũng giống nhƣ Việt Nam, NHTT của Anh
cũng có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên của Hiệp hội là
chủ sở hữu nhãn hiệu đó với những ngƣời thuộc doanh nghiệp khác. Điểm
khác biệt so với Việt Nam đó là sự phân biệt ở đây giới hạn bởi những ngƣời
thuộc các doanh nghiệp khác chứ không với phạm vi nhƣ là các tổ chức, cá
nhân khác mà Việt Nam đã quy định.
(iv) Khái niệm NHTT của Trung Quốc
Luật nhãn hiệu Trung Quốc có quy định về NHTT tại Điều 3 nhƣ sau:
“NHTT là nhãn hiệu đƣợc đăng ký dƣới tên của một nhóm ngƣời, một hiệp
hội hoặc bất kỳ một tổ chức nào khác sử dụng trong công việc kinh doanh bởi
các thành viên của tổ chức đó”.
Không giống nhƣ những khái niệm của các nƣớc nêu trên, luật nhãn
hiệu Trung Quốc bên cạnh việc quy định chủ thể đăng ký có thể là một hiệp
hội hoặc một tổ chức còn quy định “một nhóm ngƣời” có thể đăng ký NHTT.
Một nhóm ngƣời ở đây đƣợc hiểu là từ hai ngƣời trở lên cùng mục đích hoạt
động và cùng vì lợi ích chung. Nhƣng vấn đề tổ chức và quản lý của một
nhóm ngƣời sẽ không chặt chẽ nhƣ các hiệp hội và tổ chức khác. Đây cũng là
một quy định mở rộng của luật nhãn hiệu Trung Quốc so với các nƣớc khác.
Luật nhãn hiệu của Trung Quốc cũng tập trung đề cập đến vấn đề chủ
sở hữu của NHTT chứ không đƣa ra yếu tố phân biệt vào trong phần khái
niệm. Chủ sở hữu của NHTT đƣợc liệt kê đó là một nhóm ngƣời, một hiệp hội
14
hoặc một tổ chức mà đƣợc các thành viên của tổ chức đó đƣợc sử dụng trong
công việc kinh doanh.
Mặc dù mỗi nƣớc đều có quy định khác nhau về NHTT cho phù hợp
với điều kiện riêng của từng nƣớc và phù hợp với quy định của quốc tế.
Nhƣng điểm chung trong quy định về NHTT của các nƣớc là các nƣớc đều
đƣa ra quy định chủ sở hữu NHTT phải là một tổ chức hoặc một nhóm ngƣời
(nhƣ trong pháp luật Trung Quốc) và chức năng phân biệt là yếu tố quan trọng
khi xem xét một dấu hiệu đƣợc đăng ký làm NHTT.
Đối với thực tế ở Việt Nam hiện nay, để có những hiểu biết đúng đắn
và phù hợp với thực tế đất nƣớc (khi mà các dấu hiệu đƣợc sử dụng làm
NHTT chỉ là dấu hiệu nhận biết bằng thị giác), khái niệm NHTT cần nêu lên
một cách cụ thể và chi tiết để tránh có những hiểu không thống nhất và cụ thể
khi áp dụng luật đặc biệt là trong việc sử dụng các dấu hiệu nhìn thấy đƣợc và
dấu hiệu không nhìn thấy đƣợc. Vì vậy, khái niệm NHTT ở Việt Nam không
nên quy định là một “nhãn hiệu dùng để phân biệt ” mà nên đƣợc quy định là
“dấu hiệu nhìn thấy được dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ của thành viên
của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”.
1.1.2. Đặc điểm của NHTT
NHTT cũng mang những đặc điểm chung của nhãn hiệu thông thƣờng
và có những đặc điểm riêng của nó. Xem xét đặc điểm của NHTT chúng ta
xem xét trên cả những đặc điểm chung của nhãn hiệu thông thƣờng và chỉ ra
những điểm khác biệt của NHTT.
Thứ nhất: NHTT phải là một nhãn hiệu có tính phân biệt. Nhƣng tính
phân biệt của NHTT không phải là giữa cá nhân với cá nhân đơn thuần hay
giữa cá nhân với tổ chức nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng, tính phân biệt của
NHTT đƣợc hiểu là giữa thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với tổ
chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức của tổ chức đó.
15
Điều này có nghĩa là NHTT trƣớc tiên phải là một nhãn hiệu thông
thƣờng có khả năng phân biệt với cách thức thể hiện và phạm vi phân biệt
nhƣ sau:
Cách thức thể hiện: Khả năng phân biệt của nhãn hiệu sẽ đƣợc thể hiện
qua các dấu hiện nhìn thấy đƣợc dƣới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, đƣợc thể hiện bằng một
hoặc nhiều mầu sắc và có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở
hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Điều này hoàn toàn
đúng bởi lẽ chức năng chính của nhãn hiệu là chức năng phân biệt. Do đó, nếu
không đảm bảo đƣợc tính phân biệt thì nhãn hiệu đó không thể là một nhãn
hiệu thông thƣờng nói chung và NHTT nói riêng. Đặc điểm này của NHTT
không những đƣợc quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam mà một
số nƣớc trên thế giới cũng quy định về khả năng phân biệt của NHTT. Ví dụ
nhƣ Luật nhãn hiệu của Anh “NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ ”;
Phạm vi phân biệt: Khả năng phân biệt đƣợc xem xét trong phạm vi
giữa thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với tổ chức, cá nhân không
phải là thành viên của tổ chức của tổ chức đó. Đây là yếu tố quan trọng khi
xem xét sự khác biệt của NHTT so với nhãn hiệu thông thƣờng.
Thứ hai: Chủ sở hữu NHTT phải là một tổ chức.
Không giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng, chủ sở hữu có thể là cá nhân
hoặc tổ chức. Đối với NHTT, chủ thể đăng ký chỉ có thể là tổ chức.
Tại sao không quy định chủ sở hữu NHTT là một tập thể mà lại quy
định đó là một tổ chức. Chúng ta đi tìm hiểu sự khác nhau giữa “Tập thể” và
“Tổ chức”.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tổ chức, tùy thuộc vào từng góc
độ khác nhau mà ngƣời ra có định nghĩa khác nhau về “Tổ chức”:
16
Dƣới góc độ xã hội học, tổ chức đƣợc hiểu là những thực thể xã hội
phối hợp với nhau có mục đích;
Dƣới góc độ kinh tế, ngƣời ta hiểu tổ chức nhƣ là một công cụ của các
nhà quản lý doanh nghiệp để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ.
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng thì “Tổ chức là tập
hợp ngƣời đƣợc tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm mục
đích chung” [28].
Chúng ta có thể đƣa ra một khái niệm chung nhất về tổ chức nhƣ sau:
“Tổ chức bao gồm những cá nhân, tổ chức đƣợc tập hợp lại theo sự phân công
lao động, thống nhất về mục đích và có sự phối hợp hành động chặt chẽ”.
Đó là tổ chức, còn “Tập thể là một nhóm chính thức có tổ chức, thống
nhất, thực hiện mục đích chung, phù hợp với lợi ích của xã hội”. Theo khái
niệm này, tập thể có những đặc điểm sau:
Là một nhóm ngƣời cùng nhau tiến hành hoạt động chung;
Có tổ chức chặt chẽ, mục tiêu hoạt động mang ý nghĩa xã hội;
Có sự quan tâm lợi ích cá nhân và lợi ích chung.
Theo khái niệm nêu trên thì tổ chức chỉ là một nhóm ngƣời làm việc
chung với nhau nhằm mục đích điều hành hay quản lý một công việc nào đó
chứ không phải một nhóm chính thức có tổ chức, thống nhất thực hiện mục
đích chung dựa trên cơ sở thỏa mãn và kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích chung nhƣ đối với “Tập thể”. “Tổ chức” trong quy định về NHTT sẽ là
danh từ chung để chỉ các chủ thể có thể là Hợp tác xã, Hiệp hội, Công ty
Nhƣ vậy về phƣơng diện quản lý và tổ chức thì “Tổ chức” có nội hàm
hẹp hơn hơn so với “Tập thể”. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với việc gắn
nhãn hiệu là NHTT và phân biệt hàng hóa dịch vụ của thành viên của “Tổ
chức” chứ không phải là hàng hóa hay dịch vụ của “Tập thể”.
Ngoài ra, việc quy định chủ sở hữu của NHTT là tổ chức phù hợp với
17
chức năng của NHTT là dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên
của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó với hàng hóa dịch vụ của tổ chức, cá
nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Theo điểm 14, Điều 7 của
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có đề cập đến hàng hóa, dịch vụ của thành
viên của tổ chức; tuy nhiên luật không nêu rõ thành viên của tổ chức sở hữu
NHTT này chỉ là cá nhân hay bao gồm cả tổ chức. Trên thực tế, phần lớn
các thành viên của tổ chức là cá nhân, tuy nhiên có cả trƣờng hợp thành viên
của tổ chức là một tổ chức. Vì vậy, nên hiểu đúng hơn là thành viên của tổ
chức là chủ sở hữu NHTT bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Hầu hết trong các
quy định của các nƣớc về NHTT đều quy định về chủ sở hữu NHTT là tổ
chức. Ví dụ nhƣ Trung Quốc, Thái Lan, Anh, Mỹ Điều này phù hợp với
thực tế và pháp luật quốc tế.
Thứ ba: Việc sử dụng NHTT của các thành viên của tổ chức phải
tuân theo một quy định chung đƣợc thể hiện trong quy chế sử dụng của
NHTT. Các quy định này thƣờng là các quy định về các tiêu chuẩn để trở
thành thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT, điều kiện sử dụng NHTT,
tiêu chuẩn về chất lƣợng sản phẩm mang NHTT Các quy định này trong
quy chế đòi hỏi các thành viên phải tuân thủ theo các yếu tố nêu trên. Sự
tuân thủ này đƣợc thể hiện qua việc chất lƣợng sản phẩm hay dịch vụ mà
thành viên sử dụng phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lƣợng đƣợc quy định
trong quy chế. Hay các thành viên phải đáp ứng đủ các điều kiện mới đƣợc
sử dụng NHTT nhƣ phải sản xuất hay kinh doanh sản phẩm mang
NHTT Nếu thành viên nào cung cấp sản phẩm kém chất lƣợng, không đáp
ứng đƣợc các điều kiện trong quy chế thì tổ chức đại diện có thể xem xét
không cho thành viên đó tiếp tục đƣợc sử dụng NHTT. Điều này cũng bắt
nguồn từ đặc điểm sản phẩm hay dịch vụ của NHTT có nguồn gốc từ địa
danh cụ thể, nên việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ kém chất lƣợng của một
18
thành viên sẽ ảnh hƣởng đến thành viên khác và ảnh hƣởng đến uy tín về sản
phẩm, dịch vụ của một vùng nhất định.
Thứ tƣ: Lợi ích của mỗi thành viên trong việc sử dụng NHTT gắn liền
với lợi ích của tập thể. NHTT thƣờng mang lại giá trị kinh tế cho một nhóm
ngƣời là thành viên của tổ chức sở hữu NHTT đó. Không nhƣ nhãn hiệu
thông thƣờng, giá trị kinh tế của nó có thể gắn với một cá nhân hoặc một tổ
chức nhất định, NHTT gắn liền với nhiều thành viên trong tổ chức sở hữu
NHTT. Vì đặc điểm này mà ngày nay NHTT là một công cụ hữu hiệu cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng và phát triển. Đối với một doanh nghiệp
nhỏ và vừa, có đƣợc sự nhận biết và sự trung thành của ngƣời tiêu dùng là
một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Không tính đến chất lƣợng hàng hóa, việc
làm cho ngƣời tiêu dùng biết đến hàng hóa đòi hỏi khoản đầu tƣ đáng kể có
thể vƣợt quá ngân sách của nhiều doanh nghiệp. Với quy mô sản xuất nhỏ,
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn khi phát triển một chiến lƣợc
marketing hiệu quả cho phép định vị sản phẩm và tạo danh tiếng cho cho
hàng hóa để hấp dẫn ngƣời tiêu dùng. Vậy có lựa chọn nào cho doanh nghiệp.
Cùng hợp tác là một chiến lƣợc đúng đắn, sẽ khiến các doanh nghiệp này có
thể phát triển một chiến lƣợc marketing chung cho các sản phẩm của mình sử
dụng các NHTT. Vì thực tế, thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không phải là vì quy mô của họ mà vì sự phân lập của họ.
Những quy định về NHTT không giống nhau ở mỗi quốc gia, tùy thuộc
vào điều kiện cụ thể cũng nhƣ quan điểm lập pháp riêng mà họ có thể đƣa ra
các quy định cụ thể liên quan đến việc công nhận một nhãn hiệu là NHTT.
1.1.3. Chức năng của NHTT
Nhƣ chúng ta đã biết, ngƣời tiêu dùng khi lựa chọn một sản phẩm hay
dịch vụ họ thƣờng quan tâm đến nguồn gốc của sản phẩm, dịch vụ. Để ngƣời
tiêu dùng có thể phân biệt một sản phẩm, dịch vụ nhãn hiệu phải chỉ đƣợc
nguồn gốc của sản phẩm hay dịch vụ này. Điều này không có nghĩa là nhãn
19
hiệu phải thông tin cho ngƣời tiêu dùng về thông tin của sản phẩm nhƣ chủ sở
hữu, nơi sản xuất Chỉ cần cho ngƣời tiêu dùng có thể tin tƣởng vào doanh
nghiệp nhất định - là ngƣời đã sản xuất ra sản phẩm hay cung ứng dịch vụ mà
không nhất thiết phải biết cụ thể về doanh nghiệp đó. Một khi lấy đƣợc niềm
tin của ngƣời tiêu dùng trên thị trƣờng cũng đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp đã thành công trên con đƣờng kinh doanh; đƣa sản phẩm, dịch vụ đến
ngƣời tiêu dùng. Thực tế đây là một vấn đề không phải dễ dàng đối với các
doanh nghiệp, điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo đƣợc chất
lƣợng, mẫu mã rồi giá thành của sản phẩm lúc đó mới tạo đƣợc ấn tƣợng và
niềm tin đối với ngƣời tiêu dùng.
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc nhƣ trên đã cho thấy nhãn hiệu phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của một
doanh nghiệp khác. Chỉ khi nhãn hiệu cho phép ngƣời tiêu dùng phân biệt
đƣợc sản phẩm bán dƣới nhãn hiệu đó với sản phẩm của doanh nghiệp khác
trên thị trƣờng thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức năng này. Điều này
cho thấy các chức năng này tuy khác nhau nhƣng thực tế nó phụ thuộc lẫn
nhau và cần đƣợc xem xét cùng nhau.
Vậy NHTT có những chức năng nhƣ trên không. NHTT trƣớc hết phải
là một nhãn hiệu do đó nó cũng có chức năng nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng.
Chúng ta có thể khái quát lại các chức năng của NHTT nhƣ sau:
a) Chức năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của NHTT
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đó là sự đa dạng về sản phẩm,
dịch vụ. Các doanh nghiệp đều đƣa ra những hàng hóa, dịch vụ đặc trƣng
riêng của doanh nghiệp mình để tạo nên một chỗ đứng riêng trên thị trƣờng.
Ngƣời tiêu dùng khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chủ yếu dựa vào các dấu hiệu
đƣợc sử dụng làm NHTT mà thành viên sử dụng nhãn hiệu gắn trên sản phẩm
hay bao bì khi đƣa ra thị trƣờng. Nhƣ trên đã phân tích, không phải nhãn hiệu
20
nào cũng thể hiện rõ chủ sở hữu, nơi sản xuất do đó khi ngƣời tiêu dùng
nhận biết đƣợc NHTT đối với sản phẩm, dịch vụ của một chủ thể nhất định
thì lúc đó NHTT đã đạt đƣợc chức năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của
mình. Đó cũng là chức năng phân biệt của NHTT.
Không giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng chức năng phân biệt đƣợc
thể hiện ở phạm vi là giữa các tổ chức, cá nhân khá nhau. NHTT có chức
năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các thành viên thuộc tổ chức là chủ sở
hữu nhãn hiệu với sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân không thuộc tổ
chức đó. Nhƣ vậy, chức năng phân biệt của NHTT có một đặc điểm riêng đặc
trƣng của nó đó là phạm vi phân biệt ở đây đƣợc xem xét giữa các thành viên
của một tổ chức là chủ sở hữu NHTT đối với các tổ chức, cá nhân không phải
là thành viên của tổ chức đó.
Chỉ dẫn địa lý (cũng là một đối tƣợng đƣợc bảo hộ quyền SHCN) có
chức năng phân biệt sản phẩm có nguồn gốc từ địa danh đƣợc bảo hộ với sản
phẩm cùng loại có nguồn gốc từ địa danh khác. Khác biệt với chỉ dẫn địa lý,
đối với trƣờng hợp NHTT không gắn với địa danh cụ thể thì trong cùng một
địa phƣơng có thể có nhiều tổ chức đại diện cho tập thể, cá nhân khác nhau,
bởi vậy cũng có thể có nhiều NHTT, nhƣng chỉ có duy nhất một chỉ dẫn địa lý
cho một loại sản phẩm trong một địa phƣơng. Nhƣ vậy, khi sản phẩm của một
địa phƣơng chƣa đủ các yếu tố cần thiết để bảo hộ chỉ dẫn địa lý, thì bảo hộ
NHTT là một công cụ hữu hiệu để nâng cao khả năng cạnh tranh của tập thể
doanh nghiệp này so với tập thể doanh nghiệp khác.
b) Chức năng thông tin về hàng hóa, dịch vụ
NHTT có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm hay dịch vụ. “Nhìn
vào NHTT, ngƣời tiêu dùng có thể nghĩ đến nguồn gốc, chất lƣợng, giá cả của
sản phẩm, dịch vụ. Họ biết đƣợc sản phẩm đƣợc chế tạo bằng vật liệu gì hay
dịch vụ có tốt không và quan trọng hơn là nó phù hợp với nhu cầu của họ và họ