Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.17 KB, 113 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ HỒNG NHUNG



BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI - 2013



2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ HỒNG NHUNG





BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan






HÀ NỘI - 2013


3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của
luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Trần Thị Hồng Nhung







4

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ TÀI
SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

5
1.1. Khái niệm về quyền của người phụ nữ và bảo vệ quyền của
người phụ nữ
5
1.1.1.

Quyền của người phụ nữ 5
1.1.2.

Bảo vệ quyền của người phụ nữ 7
1.1.3.


Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ
với chồng
8
1.2. Đặc điểm và nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
10
1.2.1.

Đặc điểm của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng
10
1.2.2.

Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở
hữu tài sản giữa vợ với chồng
13
1.3. Cách thức bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng
19

5
1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng
21
Chương 2:
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 VỚI VẤN
ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG


24
2.1. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản
giữa vợ và chồng
24
2.1.1.

Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản
chung giữa vợ và chồng
25
2.1.2.

Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản
riêng của vợ, chồng
52
2.2. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ thừa kế tài sản
giữa vợ và chồng
57
2.2.1.

Cơ sở pháp lý về quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng 57
2.2.2.

Điều kiện phát sinh quan hệ thừa kế giữa vợ với chồng 58
2.2.3.

Các hình thức thừa kế tài sản giữa vợ với chồng theo quy định
pháp luật hiện hành
59
2.3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ cấp dưỡng giữa
vợ và chồng

65
2.3.1.

Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng 66
2.3.2.

Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng 67
Chương 3:
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN
HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

71
3.1. Một số vấn đề về tình trạng thực thi và bảo vệ quyền của
người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng
71
3.1.1.

Những kết quả đã đạt được 71
3.1.2.

Một số tồn tại trong việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
78

6
3.2. Vài nét về áp dụng pháp luật bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng qua thực tiễn xét xử tại
Nam Định
84

3.3. Một số biện pháp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người phụ
nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
88
3.3.1.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật
về hôn nhân và gia đình nói riêng
88
3.3.2.

Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà
nước, đặc biệt là các cơ quan tư pháp để bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ
96
3.3.3.

Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các hoạt động tuyên
truyền, phố biến, giáo dục pháp luật
97

KẾT LUẬN
101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102

7

DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Người đứng tên giấy tờ sở hữu/quyền sử dụng một số tài
sản phân theo thành thị - nông thôn
32
2.2 Quan niệm về việc chồng hay vợ đứng tên trên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác theo khu vực sinh sống
33
3.1 Quyền quyết định của vợ chồng trong các công việc của
gia đình
73
3.2 Người quyết định việc vay vốn tương quan với người
đứng tên sở hữu nhà ở, đất đai, cơ sở sản xuất kinh doanh
74
3.3 Tỷ lệ đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở
hữu nhà ở và cơ sở sản xuất kinh doanh theo thành thị
nông thôn và giới tính
79


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
3.1 Biểu đồ đóng góp vào thu nhập của gia đình theo giới tính 74




8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành là cơ sở pháp lý
quan trọng trong việc:
Xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các
thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức
tốt đẹp của gia đình Việt Nam [44].
Xuất phát từ mục đích của việc xác lập quan hệ vợ chồng là nhằm xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 khi điều chỉnh các quan hệ giữa vợ và chồng đã
dựa trên nguyên tắc tiến bộ, bình đẳng. Điều đó được thể hiện rõ nét trong
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Có thể nói quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, mang những nét đặc trưng
gắn liền với nhân thân của vợ chồng, là cơ sở kinh tế bảo đảm cho gia đình
thực hiện tốt chức năng xã hội. Về vấn đề này, pháp luật nói chung, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 nói riêng đã ghi nhận người phụ nữ được bình
đẳng với chồng, nhưng "bình đẳng về mặt pháp luật vẫn chưa phải là bình
đẳng trong thực tế đời sống".
Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng là một vấn đề không mới, rất cơ bản nhưng chưa được nghiên cứu thấu
đáo, đặc biệt trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay khi mà nền kinh tế thị
trường của đất nước có nhiều chuyển biến phức tạp. Vì vậy quan hệ sở hữu tài
sản của vợ và chồng cũng có những thay đổi và chịu ảnh hưởng đáng kể.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ không chỉ thể hiện ở
việc ghi nhận những quyền sở hữu tài sản của họ trong pháp luật mà quan


9
trọng là đảm bảo cho những quyền đó được thực thi, trở thành hiện thực trong
thực tế. Điều đó đòi hỏi một cơ chế đồng bộ từ việc xây dựng pháp luật đến
các biện pháp thực hiện ở mọi cấp, mọi ngành. Chỉ khi bảo vệ được quyền sở
hữu tài sản của người phụ nữ trong quan hệ tài sản của vợ chồng thì việc đảm
bảo bình đẳng giới mới trở thành hiện thực.
Thực tế hiện nay, quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ chưa được
coi trọng, bị lãng quên và bị xâm phạm dưới nhiều hình thức khác nhau trong
cuộc sống, vì vậy cần có sự nghiên cứu để đưa ra nhiều biện pháp giải quyết
có hiệu quả, nhằm thúc đẩy và thực hiện quyền bình đẳng giới thực chất giữa
vợ và chồng.
Do đó, đề tài "Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản
giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" đáp ứng các
yêu cầu trên, có ý nghĩa thực tiễn và lý luận sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, nhưng đề tài
"Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" chưa có nghiên cứu riêng, chưa được
quan tâm đúng mức. Có một số công trình khoa học đề cập đến vấn đề này
dưới góc độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp năm 2003: "Bảo vệ quyền
của phụ nữ theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000", của Lương Thị Kim
Dung, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; "Một số vấn đề bảo vệ quyền
của người phụ nữ trong pháp luật Việt Nam", của Hà Lệ Thủy, Khoa Luật -
Đại học quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ: "Ảnh hưởng của Nho giáo đến
các quy định pháp luật Việt Nam về mối quan hệ giữa vợ và chồng", của Đinh
Hạnh Nga, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội Tuy nhiên vấn đề bảo vệ
quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng chưa được
nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Các công trình nghiên cứu mới
chỉ nghiên cứu về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng từ góc độ pháp luật


10
thực định mà không đề cập tới việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, đặc biệt dưới góc độ bình đẳng giới, chưa
được nghiên cứu một cách thấu đáo, chuyên sâu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu những khía cạnh lý luận
và thực tiễn về bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ
và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 dưới góc độ bình đẳng
giới. Từ đó tìm ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn
đề này và nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
thực tiễn, nhằm thực hiện bình đẳng giữa vợ và chồng.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền của người phụ nữ và bảo vệ quyền
của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng,
+ Tìm hiểu thực trạng việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
+ Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt hơn nữa quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản
giữa vợ và chồng.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Với đề tài "Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa
vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", tác giả tập trung
phân tích bảo vệ quyền lợi người phụ nữ với tư cách là người vợ trong quan
hệ tài sản với người chồng trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp, thể hiện qua các
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ thừa kế và
quan hệ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Vì vậy quyền của người phụ nữ trong phạm vi đề tài này được nghiên cứu với
tư cách người phụ nữ là người vợ trong quan hệ hôn nhân hợp pháp, mà
không nghiên cứu quyền của người phụ nữ với tư cách là người mẹ, người chị


11
trong gia đình trong các mối quan hệ khác. Việc áp dụng pháp luật trong thực
tiễn xét xử được nghiên cứu chủ yếu qua thực tiễn xét xử của các Tòa án tỉnh
Nam Định, trong những năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng của
Đảng và Nhà nước về pháp luật
- Luận văn còn sử dụng các phương pháp pháp nghiên cứu cụ thể như
phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
- Luận văn nghiên cứu và phân tích sâu sắc, toàn diện về ý nghĩa, mục
đích, nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ
và chồng dưới góc độ bình đẳng giới.
- Luận văn đánh giá thực trạng về vấn đề bảo vệ quyền của người phụ
nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trên thực tế, đưa ra một số khuyến
nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này và nâng
cao hiệu quả việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa
vợ chồng, nhằm thực hiện bình đẳng giữa vợ và chồng trên thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
Chương 2: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với vấn đề bảo vệ
quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.


12
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
1.1.1. Quyền của người phụ nữ
Quyền của người phụ nữ cũng bắt nguồn từ quyền con người. Để tiếp
cận khái niệm về quyền của người phụ nữ cần nghiên cứu khái niệm quyền
con người.
Quyền con người được hiểu từ nhiều góc độ khác nhau. Về khái niệm
quyền con người, có quan điểm cho rằng: "Quyền con người là quyền của
thành viên trong xã hội loài người - quyền của tất cả mọi người" [60].
Theo quy định của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thì "Quyền con
người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu, có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người " [Dẫn theo 14, tr. 41].
Ở Việt Nam, quyền con người được hiểu là "những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [14, tr. 42].
Quyền con người vừa là quyền tự nhiên, vừa là quyền pháp lý. Quyền
con người là quyền tự nhiên được hiểu là những quyền khi sinh ra họ đã có,
mà người khác phải tôn trọng, "mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được" (Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người năm 1948). Quyền con người là quyền pháp lý tức là quyền
con người được pháp điển hóa, được ghi nhận bằng pháp luật, được cộng


13
đồng tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở góc độ pháp lý, quyền con người gắn
liền với những giá trị cao cả, nhân phẩm của con người, cần được tôn trọng và
bảo vệ trong mọi giai đoạn lịch sử, mọi chế độ xã hội, và được ghi nhận trong
pháp luật.
Từ khái niệm quyền con người ở trên sẽ đi đến khái niệm quyền của
người phụ nữ. Quyền của người phụ nữ cũng bao gồm những nội dung cơ bản
của quyền con người, không tách khỏi nội dung quyền con người. "Quyền con
người của phụ nữ là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của
các quyền con người phổ biến" (Tuyên bố Viên và chương trình hành động
Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ II tổ chức ở Viên năm 1993).
Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại. Phụ nữ khác đàn ông ở thiên chức
làm vợ, làm mẹ, với thiên chức như thế, quyền của họ cần phải được thừa
nhận và đảm bảo. Có thể nói, quyền của người phụ nữ không chỉ là mối quan
tâm riêng của người phụ nữ mà quan trọng hơn đó là mục tiêu quan tâm, bảo
vệ của mọi quốc gia, của toàn nhân loại. Quyền của người phụ nữ đã được thế
giới thừa nhận và tôn trọng. Điều đó được minh chứng thông qua việc ban
hành rất nhiều văn kiện quốc tế, tuyên ngôn, điều ước quốc tế. Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người đã ghi nhận các quyền con người với nguyên tắc
áp dụng cho mọi cá nhân, không phân biệt nam nữ. Cedaw được ban hành vào
năm 1979 đã bảo vệ ở phạm vi rộng lớn các quyền của người phụ nữ được
sống an toàn, tự do, phát triển bền vững, nhấn mạnh bảo đảm họ được hưởng
thụ các quyền cơ bản của con người. Có thể nói Cedaw là văn kiện quốc tế
quan trọng nhất do Liên hợp quốc thông qua, đã đề cập một cách toàn diện, cụ
thể về các quyền cơ bản của phụ nữ.
Từ những lập luận ở trên có thể đưa ra khái niệm quyền của người phụ
nữ như sau: Quyền của người phụ nữ là tập hợp các quyền con người mà
người phụ nữ được hưởng, được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện
bằng hệ thống các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành.


14
Phụ nữ có các quyền con người cơ bản như mọi công dân khác. Là
con người cụ thể, phụ nữ có các quyền mà "không ai có thể chối cãi được".
Tại Việt Nam, quyền của người phụ nữ đã phải trải qua một quá trình phát
triển lâu dài và hiện nay ngày càng được khẳng định, được ghi nhận, tôn trọng
và được bảo đảm bởi một hệ thống pháp luật đang dần hoàn thiện hơn.
1.1.2. Bảo vệ quyền của người phụ nữ
Việc ghi nhận quyền của người phụ nữ trong pháp luật là quan trọng
nhưng chưa đủ. Bảo vệ quyền của người phụ nữ còn quan trọng hơn. Việc bảo
vệ quyền của người phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật có liên quan.
Bảo vệ quyền của người phụ nữ được thực hiện một cách tổng thể qua
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau mà điều quan trọng nhất là đảm bảo cho
các quyền của người phụ nữ đã được ghi nhận trong pháp luật được thực hiện
trong thực tế.
Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ được thể hiện toàn diện trên
mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, việc làm, giáo dục, văn hóa, hôn
nhân - gia đình…được pháp luật ghi nhận và bảo hộ trong toàn bộ hệ thống
pháp luật Việt Nam. Tại Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất -
vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ luôn được thể hiện nhất quán, quyền bình
đẳng của phụ nữ ngày càng được quy định mở rộng và hoàn thiện hơn trong
các bản Hiến pháp. Những quy định về bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất đã đưa người phụ nữ lên địa vị làm chủ
trong xã hội. Quy định tại Hiến pháp về bảo vệ quyền của người phụ nữ chính
là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành một loạt các văn bản pháp luật
về quyền của người phụ nữ như BLDS, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động,
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Phòng chống bạo
lực gia đình 2007 Các văn bản pháp luật quy định hệ thống các quy phạm
pháp luật về quyền của phụ nữ, các thể chế thực hiện các quyền đó cũng như
hệ thống các biện pháp chế tài xử lý các hành vi vi phạm quyền của phụ nữ.


15
Như vậy, bảo vệ quyền của người phụ nữ được hiểu là: hệ thống các
biện pháp, cách thức được pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc thực thi đầy
đủ, có hiệu quả các quyền con người của phụ nữ trên thực tế cũng như xử lý
kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền của người phụ nữ.
1.1.3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa
vợ với chồng
Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng là một nội dung quan trọng tạo cơ sở để thực hiện quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng.
Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng phải
bảo đảm được ba nội dung sau: Ghi nhận đầy đủ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân hợp pháp;
đảm bảo thực hiện quyền tài sản của người vợ trong trong thực tiễn; có chế tài
xử lý những hành vi xâm phạm đến quyền của người phụ nữ….
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng như sau: Bảo vệ quyền của người phụ
nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là việc pháp luật ghi nhận quyền
của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ cấp dưỡng, quan hệ
thừa kế tài sản trong quan hệ tài sản với người chồng trong quan hệ hôn nhân;
đảm bảo các quyền tài sản của người phụ nữ được thực hiện đầy đủ, bình
đẳng trong thực tế cũng như xử lý mọi hành vi vi phạm quyền tài sản của
người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân.
Trong lĩnh vực Luật Hôn nhân và gia đình, vị trí quan trọng của phụ
nữ đã được khẳng định. Pháp luật cũng như thực tiễn thực thi pháp luật ở Việt
Nam đã tạo cho phụ nữ Việt Nam sự bình đẳng về nhiều lĩnh vực trong quan
hệ gia đình, đó là sự bình đẳng giữa vợ, chồng và điều đặc biệt quan trọng là
quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ tài sản với chồng.


16
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cơ sở pháp lý cơ bản xác lập
và bảo đảm thực hiện các quyền tài sản của phụ nữ như quyền có tài sản
riêng, quyền được chia tài sản
Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng.
Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và
quyền về nhân thân và tài sản. Trong đó quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
về tài sản đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, mang những nét
đặc trưng gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng là cơ sở kinh tế đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt chức năng xã hội,
đáp ứng nhu cầu vật chất của vợ chồng, đảm bảo cho vợ chồng thực hiện tốt
quan hệ nhân thân với nhau và quan hệ đối với con cái và các thành viên khác
trong gia đình.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng bao gồm: Quan hệ sở hữu tài sản,
quan hệ cấp dưỡng, quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng. Bảo vệ quyền lợi
người phụ nữ trong quan hệ tài sản với người chồng chính là bảo vệ quyền lợi
của họ trong ba mối quan hệ trên.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ tài sản với
người chồng đã được đảm bảo bởi hệ thống pháp luật nói chung và Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 nói riêng. Tuy nhiên quyền lợi của người phụ nữ
nói chung cũng như quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản với chồng
nói riêng có được bảo vệ một cách hợp lý hay không lại là một vấn đề khác.
Trong khi đó, tài sản của vợ chồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với gia
đình và đóng góp giá trị không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta
hiện nay. Trong gia đình, người phụ nữ vừa phải thực hiện thiên chức làm vợ,
làm mẹ, vừa phải thực hiện chức năng là người lao động trong xã hội, là
người tổ chức cuộc sống trong gia đình, người xây tổ ấm cho gia đình. Những
hành vi xâm phạm quyền lợi của người phụ nữ chưa được xử lý kịp thời, làm
giảm tính khả thi của pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia
đình nói riêng.


17
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, Quyền của người phụ nữ đã được
pháp luật ghi nhận, đây chính là một sự tiến bộ. Nhưng việc quan trọng hơn là
cần bảo vệ và bảo đảm cho được những quyền của người phụ nữ được thực
hiện trong thực tế.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1.2.1. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
- Việc bảo vệ quyền của người phụ nói chung và quyền của người phụ
nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng nói riêng có quá trình phát triển
khác nhau trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong mỗi chế độ xã hội và phụ thuộc vào
ý chí của giai cấp thống trị. Quá trình bảo vệ quyền của người phụ nữ trong
quan hệ tài sản giữa vợ với chồng song song với sự phát triển của nhân loại.
Dưới chế độ phong kiến, pháp luật hầu như không bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng. Tuy nhiên, trong
Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) đã chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ
bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Đó là quy định họ có quyền có tài sản riêng;
khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của
ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người. Song
trong Luật Gia Long lại quy định: ở nhà chồng, tài sản làm ra thuộc sở hữu của
nhà chồng, khi chồng còn sống, người vợ không có quyền lợi kinh tế, khi chồng
chết, tài sản không thuộc về họ mà thuộc về con cái và dòng họ nhà chồng…
Trong Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936) đã
quy định cho vợ chồng được tự do lập hôn ước, chế độ tài sản pháp định chỉ
đặt ra khi vợ chồng không lập hôn ước. Theo chế độ này, tài sản chung của vợ
chồng bao gồm tất cả của cải, hoa lợi của chồng cũng như của vợ, không kể
tài sản đó được tạo ra trước hay trong thời kì hôn nhân. Hay như trong Tập
Dân luật giản yếu năm 1883 không thừa nhận người vợ có tài sản riêng, do đó


18
không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia
đình đều thuộc quyền sở hữu duy nhất của người chồng…
Mặc dù trong chế độ cũ, quan hệ vợ chồng nói chung và quan hệ tài
sản giữa vợ chồng nói riêng là quan hệ bất bình đẳng song pháp luật đã cũng
bắt đầu đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản
giữa vợ với chồng.
Khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, quy định "Bình đẳng
giữa nam và nữ về mọi mặt" (Hiến pháp 1946) là nền tảng pháp lý để bảo vệ
quyền của người phụ nữ. Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản pháp luật về hôn
nhân và gia đình sau này được ban hành qua các thời kỳ chính là cơ sở pháp
lý để bảo vệ quyền của người phụ nữ nói chung và quyền của người phụ nữ
trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng nói riêng.
- Việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ
với chồng còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau.
Trong quan điểm của Nho giáo cho rằng: người phụ nữ thuộc vào loại
"tiểu nhân", nếu người phụ nữ nào tuân theo định mệnh thì sẽ hạnh phúc. Tư
tưởng "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" của Nho giáo đã tước đi niềm hạnh phúc
của người phụ nữ, vị thế và quyền lợi của họ không được bảo vệ trong mọi
lĩnh vực của đời sống gia đình.
Theo tư tưởng của Phật giáo, người phụ nữ không được xem như là
một phần của người chồng, cũng hoàn toàn không phải là tài sản hay thuộc sở
hữu của người chồng. Phật giáo khuyến khích việc tặng của hồi môn cho con
gái khi đám cưới, của hồi môn này là tài sản riêng của cô dâu và không bao
giờ được xem như là cái giá mà gia đình cô dâu phải trả cho bên gia đình
nhà chồng, cũng như không bao giờ giao hết cho gia đình nhà chồng. Của
hồi môn là của để dành, sẽ giúp người vợ khi cần dùng đến. Trong giáo lý
Phật giáo cũng không chấp nhận việc hạn chế các quyền lợi của người góa


19
phụ như mất quyền thừa kế tài sản, bảo vệ tài sản hay không được tham gia
các lễ hội v.v
- Bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với
chồng chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là các điều
kiện kinh tế.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, hệ thống văn bản pháp
luật về hôn nhân và gia đình đã được ban hành phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước, trong đó đặc biệt chú ý tới chế độ tài sản giữa vợ và
chồng, bảo vệ quyền của người phụ nữ.
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội ở miền
Bắc chưa phát triển, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chỉ quy định một
chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ cộng đồng toàn sản. Quy định này đã thực
sự bảo đảm được quyền lợi của người vợ trong gia đình về tài sản. Tất cả tài
sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản
chung, quyền có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích
của gia đình. "Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang
nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [38, Điều 15].
Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, kinh tế - xã hội phát triển, tài sản
của công dân trở nên phong phú, đa dạng về giá trị sử dụng thực tế và giá trị tài
sản. Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, để bảo vệ tốt hơn
quyền của người phụ nữ, tạo môi trường pháp lý bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
tài sản giữa vợ và chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành,
đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ
tài sản riêng. Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng
được tự định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia.
- Ở các mức độ khác nhau, trong pháp luật đã thừa nhận và ghi nhận
quyền về tài sản của người vợ trong quan hệ xã hội. Điều này thể hiện sự tiến

bộ và xu hướng chung trong việc thừa nhận và bảo vệ quyền của người phụ nữ.

20
- Ngoài ra, pháp luật đã quy định những hình thức, mức độ mà người
vợ được phép thực hiện các quyền tài sản của mình trong thời kỳ hôn nhân
cũng như những biện pháp xử lý các vi phạm các quyền đó của người vợ.
Điều này có thể thấy rõ trong nội dung các văn bản pháp luật hôn nhân
và gia đình qua các thời kỳ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định vợ
và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài
sản có trước và sau khi kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng có quy định tài sản có trước khi kết hôn
là tài sản riêng. Việc chuyển tài sản riêng thành tài sản chung phải theo đúng
thủ tục quy định của pháp luật. Vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau đối với tài sản chung…
1.2.2. Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở
hữu tài sản giữa vợ với chồng
Nội dung bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ sở hữu tài sản
giữa vợ với chồng bao gồm ba mối quan hệ: quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ
cấp dưỡng, quan hệ thừa kế.
1.2.2.1. Quan hệ sở hữu tài sản
Một trong những quyền cơ bản của vợ chồng là quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một phạm trù pháp lý
thuộc quyền sở hữu công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Dưới góc độ
pháp luật, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật tài sản điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm việc xác
lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của vợ chồng; đồng thời xác định
những xử sự mà vợ chồng được phép thực hiện liên quan đến những tài sản
đó trên cơ sở bảo đảm lợi ích chung của gia đình, của nhà nước và xã hội.
Trong thời kỳ hôn nhân, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một
quyền quan trọng, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quyền sở

hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là quyền sở hữu đối với tài sản chung và

21
quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng có nguồn gốc và thời điểm xác lập khác nhau, đối với mỗi loại
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định khác nhau nhằm mục
đích bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người có tài sản. Nội dung quyền
sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt đối với tài sản chung và tài sản riêng của mỗi bên.
Việc pháp luật quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, nhằm mục đích bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện
các nghĩa vụ chung của vợ chồng, thực hiện các chức năng của gia đình, tạo
điều kiện ổn định để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình,
đảm bảo lợi ích gia đình.
Như vậy, pháp luật quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng giúp
vợ chồng thực hiện quyền dân chủ và bình đẳng trong các quan hệ tài sản,
khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm đối với cuộc sống gia đình; đồng thời
cũng chính là cơ sở để phân định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc
tham gia các giao dịch dân sự. Mặt khác việc quy định quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng còn là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa
vợ chồng với nhau hoặc giữa vợ chồng với bên thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự. Tóm lại vấn đề quyền sở
hữu tài sản của vợ chồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ duy trì sự
ổn định và phát triển của từng gia đình nói riêng, mà còn góp phần không nhỏ
vào sự phát triển chung của đất nước. Sự đóng góp sức lao động tài sản của
vợ chồng vào các hoạt động kinh doanh đã góp phần không nhỏ vào nền kinh
tế của đất nước.
Đối với người phụ nữ, với tư cách là người vợ trong mối quan hệ với
người chồng trong gia đình, quyền sở hữu tài sản của họ được pháp luật thừa
nhận và khẳng định: họ có có quyền sở hữu đối với tài sản riêng và quyền sở

hữu tài sản chung với người chồng. Đối với tài sản riêng, với tư cách là một

22
công dân, người phụ nữ có quyền sở hữu đối với tài sản riêng, điều này đã được
Hiến pháp thừa nhận, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt của công
dân. Việc ghi nhận người phụ nữ có quyền có tài sản riêng đảm bảo cho họ chủ
động trong các giao dịch dân sự độc lập mà không phụ thuộc vào ý chí của
người chồng, đảm bảo quyền tự định đoạt của công dân, đảm bảo sự bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ với chồng. Đối với tài sản chung, pháp
luật ghi nhận và bảo đảm cho họ có quyền thực hiện những hành vi sử dụng,
chiếm hữu, định đoạt tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp.
Vấn đề quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong quan hệ với người
chồng được pháp luật ghi nhận ở mỗi thời kỳ với các mức độ khác nhau, phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử, điều kiện kinh tế xã hội. Việc ghi nhận này càng
đầy đủ, càng chính xác thì càng đảm bảo sự bình đẳng thực tế giữa vợ với
chồng, từ đó càng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người phụ nữ. Tuy nhiên trong
điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, sự tham gia của vợ chồng vào các giao dịch dân sự, thương
mại ngày càng rộng, đã nảy sinh nhiều tranh chấp không chỉ liên quan đến tài
sản của vợ chồng mà còn liên quan đến tài sản giữa vợ chồng với người thứ
ba. Do đó, giải quyết tốt vấn đề quyền sở hữu tài sản của vợ chồng sẽ bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên trong giao dịch dân sự, góp phần ổn định các
quan hệ xã hội và điều tối quan trọng là bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người
phụ nữ trong gia đình.
1.2.2.2. Quan hệ thừa kế tài sản
Quyền thừa kế tài sản là quyền hiến định của công dân, được Nhà nước
bảo hộ; đồng thời quyền thừa kế của cá nhân công dân là một trong những
quyền dân sự cơ bản, là một căn cứ phổ biến xác lập quyền sở hữu tài sản của
công dân. Quyền thừa kế của công dân Việt Nam không ngừng được củng cố,
mở rộng và được bảo vệ theo các nguyên tắc tôn trọng ý chí của người để lại

thừa kế, bảo đảm quyền bình đẳng của những người được thừa kế.

23
Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho những người
còn sống. Vợ chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người
đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Xuất phát từ mối quan
hệ hôn nhân hợp pháp, là những người có quan hệ thân thiết, gần gũi nhất, vợ
chồng có quyền được thừa kế tài sản của nhau. Do đó, quan hệ thừa kế giữa
vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là "thừa
kế của nhau", nghĩa là khi vợ chết thì chồng là người thừa kế ở hàng thứ nhất
của vợ và ngược lại, khi chồng chết thì vợ là người thừa kế ở hàng thứ nhất
của chồng. Quyền thừa kế của người vợ đã được pháp luật quy định khác
nhau qua các thời kỳ và có một số đặc điểm sau:
- Quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng được pháp luật công nhận
khác nhau trong các giai đoạn lịch sử.
Trong thời kỳ phong kiến, chế định thừa kế của Bộ luật Hồng Đức đã
thể hiện nét tiến bộ của pháp luật triều Lê. Chế độ thừa kế tài sản giữa vợ
chồng tại Bộ luật này đã đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong vấn đề
thừa kế và tài sản: người vợ có quyền quản lý tài sản sau khi chồng chết, mặc
dù tính thứ bậc vẫn được biểu hiện ở quy định: người vợ chính được hưởng thừa
kế nhiều hơn người vợ thứ, vợ lẽ. Tại Bộ luật Gia Long, pháp luật đề cao vai
trò của trưởng nam, thừa nhận quyền thừa kế của con trai, con gái chỉ có quyền
khi gia đình tuyệt tự, bộ luật không quy định quyền thừa kế của người vợ.
Pháp luật thời Pháp thuộc, quyền thừa kế của người phụ nữ trong quan
hệ với người chồng bị hạn chế. Người phụ nữ chỉ có quyền lập di chúc thừa
kế đối với tài sản riêng của mình khi có sự đồng ý của người chồng (Điều 321
Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 313 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Nếu người
phụ nữ chết trước chồng, người chồng được coi là chủ sở hữu duy nhất đối
với toàn bộ tài sản riêng của người vợ; tuy nhiên, nếu người chồng chết trước,
thì người vợ chỉ có quyền đối với tài sản riêng của mình

Sau Cách mạng tháng Tám, pháp luật về thừa kế nói chung đã dần
thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng. Một số

24
văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bắt
đầu ghi nhận: vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Đến năm 1990 khi
Pháp lệnh Thừa kế được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên quy định
tương đối đầy đủ về vấn đề thừa kế, bảo vệ quyền của người phụ nữ trong vấn
đề nhận di sản và để lại di sản thừa kế. Khi Bộ luật Dân sự 1995 được ban
hành và nhất là Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời càng khẳng định thêm: quyền
thừa kế tài sản của công dân Việt Nam nói chung và quyền thừa kế của vợ
chồng luôn được bảo hộ, đặc biệt là quyền thừa kế và để lại thừa kế của người
phụ nữ được thực hiện một cách triệt để nhất.
- Trong xã hội trước đây vấn đề thừa kế được điều chỉnh bằng các quy
phạm đạo đức, phong tục, tập quán; nhưng khi xã hội có giai cấp, thừa kế là
đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Quyền thừa kế gắn liền với sự phát triển
của lịch sử nhân loại. Trong xã hội nguyên thủy, việc thừa kế được hình thành
theo tập quán của thị tộc. Trong xã hội phong kiến khi có pháp luật điều chỉnh
rồi, thừa kế vẫn có thể được điều chỉnh bởi phong tục tập quán địa phương; ví
dụ như Luật Gia Long không ghi nhận quyền thừa kế của con gái nhưng cũng
không có quy định nào cấm con gái được hưởng thừa kế, việc con gái có được
hưởng thừa kế hay không sẽ được điều chỉnh theo phong tục tập quán của
từng địa phương hoặc do thỏa thuận của gia đình.
Có thể nói rằng, để được ghi nhận và được đảm bảo trên thực tế vợ
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau, lịch sử pháp luật đã phải trải qua
một quá trình đấu tranh lâu dài. Từ đó, quyền thừa kế của người vợ phải được
ghi nhận bình đẳng với chồng, đấy cũng là một minh chứng rõ nét để bảo vệ
quyền tài sản của người vợ nói chung. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với
những quy định của pháp luật quốc tế: đảm bảo cho người phụ nữ bình đẳng với
nam giới trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc quản lý, hưởng thụ tài sản.

Pháp luật quy định "vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau"
nhằm mục đích khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ

25
tài sản nói chung. Pháp luật thừa nhận vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của
nhau thể hiện đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, người còn
lại tiếp tục duy trì và phát triển khối tài sản của gia đình, dòng họ.
1.2.2.3. Quan hệ cấp dưỡng
Cấp dưỡng là quan hệ đặc thù được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và
gia đình. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài
sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với
mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường
hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó
khăn, túng thiếu. Từ đó, có thể hiểu việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng là
việc vợ hoặc chồng có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của bên kia khi họ không cùng chung sống mà gặp khó
khăn, túng thiếu do không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình. Xét về bản chất, quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ tài sản đặc
biệt, gắn liền với nhân thân của người cấp dưỡng, chỉ phát sinh khi có những
điều kiện nhất định, trong khi đó tính chất có đi có lại của quan hệ cấp
dưỡng lại không mang tính tuyệt đối bởi quan hệ gia đình gắn bó chủ yếu
bằng tình cảm.
Xuất phát từ việc vợ và chồng có quyền và trách nhiệm với nhau trong
thời gian hôn nhân cũng như khi hôn nhân tan vỡ cho nên bảo vệ quyền của
người phụ nữ trong quan hệ tài sản với chồng nhất thiết phải bảo vệ quyền lợi
của họ thông qua chế định cấp dưỡng. Pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực
hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ với chồng. Pháp luật quy định nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa vợ với chồng xuất phát từ đạo lý, tình nghĩa vợ chồng, là biểu
hiện tốt đẹp của truyền thống đạo đức dân tộc.Việc bảo vệ quyền lợi của

người phụ nữ trong quan hệ cấp dưỡng tạo điều kiện để đảm bảo cuộc sống
cho họ khi họ bị túng thiếu, khó khăn.

×