MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU………………………………………..………………….1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………1
I. Lí luận chung……………………………………………………………1
1. Khái niệm về quyền con người…………………………………………..1
2. Khái quát chung về quyền của người phụ nữ trong pháp luật
phong kiến………………………………………………………………………2
II. Quyền của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến Việt Nam…….3
1. Nội dung những quyền của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến Việt
Nam…………………………………………………………………………….3
1.1 Quyền của người phụ nữ trong Bộ Luật Hồng
Đức……………………..3
1.2 Quyền của người phụ nữ trong Bộ Luật Gia
Long………………………5
2. Đánh giá những quy định về quyên của người phụ nữ trong pháp luật
phong kiên Việt Nam…………………………………………………………10
2.1 Pháp luật phong kiến Việt Nam đã bước đầu ghi nhận và bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ ……………………………………………………………...10
2.2 Tuy nhiên những quy định về quyền lợi của người phụ nữ trong pháp luật
phong kiến Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế…………………………………12
2.2.1 Pháp luật phong kiến vẫn thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam giới và
phụ
nữ………………………………………………………………………………12
2.2.2 Nhiều quyền lợi của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến vẫn chưa
được quy định thích đáng………………………………………………………14
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………….15
1
A.LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội loài người vẫn tồn tại ba hình thức bất bình đẳng chủ yếu mà
Mác và Ăng- ghen đã từng xác định, đó là bất bình đẳng về chủng tộc, giai cấp
và giới. Xét riêng về bất bình đẳng giới, ở hầu hết các xã hội trên thế giới, sự
phân biệt đối xử về phụ nữ ở khắp mọi nơi: trong gia đình, ngoài xã hội và ngay
cả trong pháp luật,..Ở Việt Nam, có thể nói, quyền bình đẳng nam nữ được thừa
nhận khá sớm và ngày càng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội Việt Nam. Chúng ta có thể thấy quyền lợi của người phụ nữ Việt Nam đã
phần nào được ghi nhận ngay từ trong pháp luật thời phong kiến.
Vì những lí do đó, cùng với những kiến thức đã học được từ môn Luật Bình
đẳng giới, nhóm số 7 chúng em xin lựa chọn đề bài số 7 cho bài tập nhóm tháng
1 của mình: “Một số vấn đề về quyền của người phụ nữ trong pháp luật
phong kiến Việt Nam”.
A.NỘI DUNG
I. Lí luận chung.
1. Khái niệm quyền con người.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những
thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc
tính của quyền con người.
Ở góc độ quốc tế, định nghĩa của văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về
quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định
nghĩa này, quyền con người là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác dụng bảo
2
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do của con người.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người được một số chuyên
gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng
xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được nghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lí quốc tế.
Như vậy, quyền con người là một khái niệm rộng, bao gồm các quyền
của cá nhân, tập thể, của nhóm người, cộng đồng người trong xã hội. Trong đó,
với những đặc trưng về giới tính, phụ nữ là một trong những người dễ bị tổn
thương nhất, cần phải được quan tâm, bảo vệ một cách đặc biệt.
2. Khái quát chung về quyền lợi của người phụ nữ trong pháp luật phong
kiến Việt Nam.
Là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, pháp luật không chỉ chịu ảnh
hưởng bởi cơ sở hạ tầng, mà bên cạnh đó pháp luật còn chịu sự chi phối của các
yếu tố tâm lí, xã hội, phong tục tập quán, truyền thống…
Pháp luật Việt Nam cũng chịu sự phản ánh rõ nét của quy luật này. Bởi
vậy qua mỗi thời kì phát triển của xã hội pháp luật Việt Nam đều mang những
nét sắc thái riêng khi đề cập đến vấn đề bình đẳng nam nữ. Song điểm chung nó
vẫn thể hiện những điểm độc đáo mang đậm nét Việt Nam.
Trong chế độ phong kiến, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
tư tưởng Nho giáo, nên địa vị của người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào nam
giới. Sự bất bình đẳng được thể hiện trước tiên chính là sự phân biệt đối xử giữa
con trai và con gái trong gia đình. Với quan niệm cần phải có con trai để nối dõi
tông đường nên xã hội phong kiến cho rằng “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”. Quan điểm này chính là khởi điểm cho sự bất bình đẳng mà phụ nữ ở chế
độ phong kiến phải gánh chịu. Tư tưởng đó là tư tưởng chủ đạo, căn bản của xã
hội phong kiến. Nguyên tắc bất bình đẳng nam nữ đã trở thành tư tưởng chỉ đạo
trong cả hai văn bản pháp luật được đánh giá là thành tựu lập pháp của Nhà
3
nước phong kiến Việt Nam là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Bộ luật
Hồng Đức được ban hành dưới thời Lê – thế kỉ XV. Đây có thể coi là thời kì
hưng thịnh nhất của phong kiến Việt Nam nói chung và của nhà Lê nói riêng.
Bởi vậy Bộ luật Hồng Đức cũng thể hiện nhiều điểm khá tiến bộ trong việc bảo
vệ quyền phụ nữ. Còn Bộ luật Gia Long quy được ban hành sau nhưng bộ luật
này không kế thừa được những điểm tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức mà về mặt
nội dung dường như sao chép luật Đại Thanh. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy
là, mặc dù trong cả hai bộ luật này đã có những quy định tiến bộ về việc xác lập
vị thế tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng nhưng các quy phạm ghi nhận
quyền phụ nữ còn tương đối ít, và đặc biệt là đều được ghi nhận trên nguyên tắc
bất bình đẳng giữa nam và nữ trên tất cả các lĩnh vực.
II. Quyền của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
1. Nội dung những quyền của người phụ nữ được quy định trong pháp
luật phong kiến.
1.1 Những quy định về quyền của người phụ nữ trong Bộ Luật Hồng Đức .
“Quốc triều hình luật” hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức được ban hành
dưới thời nhà Lê – một trong những bộ luật tiến bộ của thời đại và là nên tảng để
xây dựng nên nhà nước phong kiến tập quyền thịnh trị triều Lê. Một trong những
tiến bộ phải kể tới đó là việc bộ luật đã quy định những điều luật bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ.
Quyền của người phụ nữ trong "Quốc triều hình luật" thể hiện rõ trong
hai chương "Hộ hôn" và "Điền sản". Qua hai chương này, các nhà làm luật đã
coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ – điều mà các bộ luật trước và sau
không mấy quan tâm. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân – gia đình;
30/722 điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.
Những điều luật này đã đề cập đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong xã
hội và trong gia đình và thậm chí còn trao cho người phụ nữ quyền quan trọng
và rất mới mà chưa nhà nước phong kiến nào có.
4
- Quyền xin ly hôn: Theo quy định của Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ), người
vợ được xin ly hôn trong trường hợp người chồng không thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình như người chồng không quan tâm, bỏ bê vợ trong một thời gian dài;
hoặc người chồng vượt qúa quyền của mình, vô phép đối với nhạc phụ, nhạc
mẫu thì không những là bất hiếu mà còn bất nghĩa đối với vợ, người vợ có
quyền xin ly hôn: “Nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha, mẹ vợ, đem
việc thưa quan sẽ cho ly dị…”(Điều 333 – BLHĐ).
- Người phụ nữ, người vợ còn có quyền được hưởng tài sản sau khi ly
hôn, đó là các trường hợp: Ly hôn không do lỗi của người vợ và hai vợ chồng
không có con thì vợ, chồng mỗi người có quyền sở hữu số tài sản ruộng đất
riêng của mình có trước thời kỳ hôn nhân và và 1/2 số tài sản ruộng đất do hai
vợ, chồng tạo nên trong thời kỳ hôn nhân. Khi người chồng chết, người vợ được
xếp vào hàng thừa kế thứ nhất và có quyền giữ nguyên quyền sở hữu cá nhân đối
với tài sản riêng của mình và 1/2 số tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân. (Quyền được sở hữu tài sản riêng, quyền đồng sở hữu đối với tài sản
chung của hai vợ chồng).
- Trong gia đình, quyền được chia gia tài của con gái cũng ngang bằng với
con trai (Điều 388); Không có con trai cũng không có nghĩa là không có người
thừa tự, vì Điều 391 quy định: trong trường hợp gia đình không có con trai thì
con gái cũng có quyền thừa kế hương hoả.
- Trong một số trường hợp cụ thể, quyền lợi của người phụ nữ cũng được
ưu tiên bảo vệ như: khi đã đính hôn nhưng người con trai chẳng may bị ác tật,
phạm tội hay phá sản thì người con gái vẫn có quyền khước từ trả lại đồ sính lễ,
người con trai không có quyền đòi lại của; cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng là có
tội (điều 320); đặc biệt bộ luật quy định xử rất nặng đối với tội xâm phạm thân
thể tiết hạnh của người phụ nữ như kẻ nào “hiếp dâm” thì xử lưu hay chết phải
nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường, Nếu gây thương
tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người bị thương, Nếu làm
chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bị chết (điều
403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử
5
như tội hiếp dâm” (điều 404). Phụ nữ đang mà phạm tội thì cũng được giảm nhẹ
hơn so với nam giới (điểu 429).
Có thể nhận thấy rằng Bộ luật Hồng Đức được đánh giá là một trong
những bộ luật có nhiều tiến bộ về người phụ nữ so với các bộ luật khác trong
cùng giai đoạn. Nhìn một cách tổng thể thì người phụ nữ vẫn đứng ở thế yếu và
nấp sau “cái bóng” của người nam giới. Trong nhiều điều luật thì người phụ nữ
vẫn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới như bộ luật vẫn thừa nhận chế độ đa
thê,…Tuy nhiên, điều phải nhấn mạnh ở đâychính là những điểm sáng về quyền
của người phụ nữ trong một số vấn đề của gia đình, về việc sở hữu và phân chia
tài sản. Điều này cho thấy rằng ngay cả trong giai đoạn xã hội phong kiến Nho
giáo vốn phát triển đến mức cực thịnh thì sự công nhận của xã hội về vị trí và
vai trò đối với người phụ nữ vẫn hiển hiện lên rất rõ. Những quy định về việc
bảo về quyền lợi của người phụ nữ trong Bộ luật này vẫn còn giá trị cho tới ngày
nay và chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp trong các văn bản luật hiện hành.
1.2 Những quy định về quyền của người phụ nữ trong Bộ Luật Gia Long.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lập ra triều Nguyễn. Bên cạnh việc
tổ chức bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền, triều Nguyễn quan
tâm xây dựng luật pháp để bảo vệ quyền thống trị của triều đại, quản lí các mặt
của đất nước. Năm 1811, vua Gia Long ra chỉ dụ cho Nguyễn Văn Thành soạn
thảo một bộ luật, đến năm 1815 hoàn thành. Bộ luật có tên là Hoàng Việt luật lệ
( Luật Gia Long), gồm 398 điều, chia thành 22 quyển gồm 21 quyển chính và
một quyển phụ lục. Sau đây nhóm chúng em xin trình bày những quyền lợi về
hôn nhân gia đình của người phụ nữ được nhắc đến trong các chế định của luật
pháp triều Nguyễn.
1.2.1. Quyền lợi của người phụ nữ trong những chế định về kết hôn
Kết hôn theo pháp luật hiện đại là do hai bên nam nữ tự do quyết định về đối
tượng và thời điểm kết hôn. Nhưng dưới chế độ phong kiến, kết hôn chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố. Điều này được pháp luật triều Nguyễn quy định khá rõ
6