Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giao kết hợp đồng dân sự theo bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.8 KB, 92 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




DƯƠNG THỊ NGỌC CHIẾN





GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005




luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc








Hµ néi - 2010









ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



DƯƠNG THỊ NGỌC CHIẾN




GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu



Ha noi - 2010

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ
6
1.1.
Khái niệm hợp đồng và khái niệm giao kết hợp đồng dân sự
theo pháp luật Việt Nam
6
1.1.1.

Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
6
1.1.2.
Khái niệm giao kết hợp đồng dân sự theo pháp luật Việt Nam
10
1.2.
Các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự theo pháp luật
Việt Nam
14
1.2.1.
Khái quát chung về các nguyên tắc
14
1.2.2.
Nguyên tắc cụ thể được quy định cho giao kết hợp đồng
15
1.2.2.1.
Nguyên tắc tự do hợp đồng nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội
15
1.2.2.2.
Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng
18

Chương 2: TRÌNH TỰ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
21
2.1.
Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự
21

2.1.1.
Hình thức, nội dung của đề nghị
21
2.1.2.
Hiệu lực đề nghị
28
2.2.
Chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự (hình thức, nội dung,
thời hạn )
35
2.2.1.
Hình thức, nội dung chấp nhận
35
2.2.2.
Hiệu lực chấp nhận, thời gian và địa điểm chấp nhận
40

Chương 3: GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ TRONG MỘT SỐ
TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT
54
3.1.
Giao kết hợp đồng theo mẫu
54
3.2.
Giao kết hợp đồng với hình thức bằng hành vi
58
3.3.
Giao kết hợp đồng trong bán đấu giá tài sản
60


Chương 4: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG DÂN SỰ
63
4.1.
Thực tiễn sử dụng và áp dụng các quy định pháp luật về
giao kết hợp đồng dân sự
63
4.1.1.
Về việc sử dụng thuật ngữ "giao kết hợp đồng dân sự"
64
4.1.2.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự
64
5.1.3.
Giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp một người có
nhiều tư cách chủ thể
65
4.1.4.
Hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng bằng văn bản
67
4.1.5.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự quy
định chưa bảo đảm tính thống nhất
68
4.1.6.
Xác định thời điểm giao kết hợp đồng khi xung đột pháp luật
69
4.2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng dân sự
70

KẾT LUẬN
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85



1
MỞ ĐẦU

1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Bộ luật Dân sự đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Trước đây, người ta quan niệm luật dân sự chỉ điều chỉnh các quan hệ
sinh hoạt thường ngày của người dân. Ngày nay, Bộ luật Dân sự điều chỉnh
tất cả "các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, lao
động" (Điều 1, Bộ luật Dân sự năm 2005). Các chủ thể được luật dân sự điều
chỉnh cũng rất rộng: "cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác" (Điều 1, Bộ luật Dân
sự năm 2005). Như vậy, mọi quan hệ được đặc trưng bởi tính bình đẳng, tự
nguyện, tự định đoạt giữa các chủ thể độc lập về nhân thân và tài sản đều
được coi là quan hệ pháp luật dân sự và được luật dân sự điều chỉnh.
Không chỉ có vậy, Bộ luật Dân sự năm 2005 còn được coi là cơ bản để
soạn thảo, xây dựng các luật khác. Một điều dễ thấy sự khẳng định lớn lao
của Bộ luật Dân sự năm 2005, đó là bằng việc ban hành Bộ luật Dân sự không
chỉ thay thế các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 mà còn khẳng định
việc mất hiệu lực hoàn toàn của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Điều
này cho thấy các nguyên tắc của Bộ luật Dân sự được coi là nguyên tắc cơ

bản của không chỉ đối với hợp đồng dân sự mà còn có giá trị cao đối với các
hợp đồng thương mại quốc tế. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế và toàn
cầu hóa hiện nay, nắm vững các kiến thức về luật dân sự và biết cách vận
dụng chúng là chìa khóa để đàm phán với các đối tác nước ngoài một cách
bình đẳng.
Khoa học pháp luật dân sự cũng là một khoa học có truyền thống hàng
ngàn năm. Luật dân sự Việt Nam có hai nguồn gốc khoa học. Nguồn gốc thứ
nhất từ luật dân sự La Mã, bắt nguồn từ năm 700 trước công nguyên, du nhập
vào Việt Nam thông qua bộ luật Napoléon hay còn gọi là Bộ luật Dân sự


2
Pháp. Nguồn gốc thứ hai là từ tập quán của nhân dân, được luật hóa thông qua
Bộ luật Hồng Đức của Lê Thánh Tôn từ thế kỷ thứ 15.
Do vậy, các quy định về giao kết hợp đồng dân sự dân sự, một trong
các vấn đề mấu chốt không thể thiếu của pháp luật dân sự được sử dụng rất
nhiều trong cuộc sống kinh tế-xã hội và hầu hết hệ thống pháp luật của các
nước trên thế giới đều đề cập đến. Việc nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện vấn đề này là cần thiết. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng đã được đề
cập và quy định trong một tiểu mục riêng về Giao kết hợp đồng dân sự (Điều
388 đến Điều 411) nằm trong Mục 7 Hợp đồng dân sự. Với số lượng là 24
điều so với 15 điều của Bộ luật Dân sự năm 1995 đã thấy rõ là vấn đề này
được quan tâm. Tuy nhiên, các quy định về giao kết hợp đồng dân sự còn bộc
lộ những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ hoạt động thương mại-dân sự,
như: sự thiếu thống nhất, mâu thuẫn, hạn chế của các văn bản pháp luật
chuyên ngành quy định về các hợp đồng trong những hoạt động thương mại-
dân sự đặc thù so với các quy định về hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm
2005. Ngay trong Bộ luật Dân sự 2005, dù mới được ban hành, nhưng còn có
những hạn chế trong việc bảo đảm giao kết hợp đồng dân sự, như: quy định
về hình thức, nội dung giao kết hợp đồng dân sự, bảo vệ các quyền giao kết

hợp đồng dân sự của các bên trong quan hệ hợp đồng… Trong thực tiễn giao
kết hợp đồng dân sự ở Việt Nam, đang xuất hiện khá phổ biến việc các doanh
nghiệp sử dụng các "điều kiện thương mại chung" các "hợp đồng mẫu" (hợp
đồng được soạn trước và khó thay đổi được nội dung), nhất là các hợp đồng
được ký kết bởi các doanh nghiệp có vị trí độc quyền (điện, nước, ….). Thực
tế này đã đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu xác định bản chất của các loại
giao kết hợp đồng dân sự này.
Từ thực tiễn, kinh nghiệm của các nước nói chung và Việt Nam nói
riêng cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng dân sự có ý
nghĩa to lớn đối với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã


3
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, việc lựa chọn vấn đề:
"Giao kết hợp đồng dân sự theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005" làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học là rất có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu hợp đồng ở nước ta là vấn đề thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trong những năm
qua, giới nghiên cứu khoa học pháp lý đã có một số công trình, bài viết
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này, như: "Pháp luật về hợp đồng" của TS
Nguyễn Mạnh Bách, Nxb Chính trị quốc gia, (1995); "Chế định hợp đồng
kinh tế - tồn tại hay không tồn tại" của GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Tạp chí Luật
học số 3/2003; "Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam
về hợp đồng" và "Hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm nhìn từ quyền
tự do hợp đồng" của TS. Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
4/2004, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2004; "Hoàn thiện chế định hợp
đồng", của TS Phan Chí Hiếu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005; "Hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam", của PGS.TS Dương Đăng Huệ, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật số 6/2002; "Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và
vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam" của PGS.TS Phạm Hữu
Nghị, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2005; "Điều chỉnh thông tin bất
cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam" của PGS.TS
Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2003; "Điều kiện thương
mại chung và nguyên tắc tự do khế ước", của PGS.TS Nguyễn Như Phát, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2003; "Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả
pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu" của TS Lê Thị Bích Thọ, Viện Khoa
học Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, số 5/2002; Luận án tiến sĩ của Phạm Hữu
Nghị; các công trình nghiên cứu của TS. Ngô Huy Cương… Trong những
công trình nghiên cứu này, các tác giả đã tập trung luận giải một số vấn đề lý


4
luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp
đồng của Việt Nam. Các công trình nghiên cứu này đã chỉ ra một số hạn chế,
bất cập nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể, như: về tính thống nhất
của pháp luật hợp đồng; những hạn chế của các quy định về hình thức hợp
đồng, nội dung hợp đồng, chủ thể hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng…
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa đi sâu một cách cơ bản, toàn
diện, mang tính hệ thống những vấn đề về giao kết hợp đồng, các loại giao kết
hợp đồng dân sự đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. Hy vọng rằng với sự đầu tư
thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị và
những kiến nghị của đề tài sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật của Việt Nam.
3. Mục đích của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận cơ bản về giao kết hợp
đồng dân sự của pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật
Việt Nam; phân tích thực trạng và quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam về
giao kết hợp đồng dân sự. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những

nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng như đánh giá xu hướng của việc quy định về
giao kết hợp đồng dân sự của các nước trên thế giới. Qua đó nêu lên những
kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối
với lĩnh vực này đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một cách
phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Đề tài nghiên cứu vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng dân sự theo Bộ
luật Dân sự Việt Nam năm 2005 dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như: phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, diễn giải,
quy nạp, so sánh pháp luật và tham khảo ý kiến của các chuyên gia.


5
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Khái quát chung về giao kết hợp đồng dân sự.
Chương 2: Trình tự giao kết hợp đồng dân sự theo Bộ luật Dân sự
năm 2005.
Chương 3: Giao kết hợp đồng dân sự trong một số trường hợp đặc biệt.
Chương 4: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật giao
kết hợp đồng dân sự .




6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ


1.1. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG VÀ KHÁI NIỆM GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
Giống như các hệ thống pháp luật trên thế giới và theo xu hướng phát
triển của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, pháp luật dân sự Việt Nam chủ
yếu chịu ảnh hưởng của luật La Mã và thừa hưởng nhiều thành tựu của Civil
Law. Tuy nhiên đó là tính từ khi chúng ta là thuộc địa của thực dân Pháp,
trước đó, ở nước ta cũng có chế định hợp đồng - hay còn gọi là khế ước, thể
hiện trong các bộ luật lớn như: Quốc triều hình luật, Hoàng Việt Luật Lệ
Trong pháp luật triều Lê, chế định khế ước được quy định chủ yếu
trong Quốc triều hình luật. Những quy định này nằm rải rác ở các phần và tập
trung hơn cả là ở quyển III, chương Điền sản [19, tr. 57]. Trong Quốc triều
hình luật không sử dụng khái niệm hợp đồng hay khế ước, mà thường dùng
các khái niệm cụ thể như mua, bán, cho, cầm; nhưng một dạng của khế ước
cũng được xác định dưới tên gọi: Văn khế. Tuy trong Quốc triều Hình luật
không định nghĩa cũng như nêu ra một khái niệm cụ thể về hợp đồng, văn khế
hay khế ước, nhưng khi nhìn vào một số quy định liên quan đến khế ước thì
thấy có tồn tại yếu tố "thuận mua, vừa bán" thể hiện tư tưởng "thỏa thuận".
Có thể coi đây là bản chất của khế ước đã được thể hiện ngay từ thế kỷ XV
trong pháp luật nước ta. Ngoài ra, Quốc triều Hình luật có quy định trong khế
ước, quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập; việc thực hiện, thay đổi và
chấm dứt quan hệ nghĩa vụ cũng được đề cập trong một vài loại khế ước.
Hoàng Việt Luật lệ cũng không sử dụng khái niệm khế ước mà thường
dùng các khái niệm cụ thể như mua bán, vay nợ, thuê giống như Quốc triều


7
Hình luật. Không có những quy định chung về nguyên tắc giao kết và thực
hiện khế ước trong Hoàng Việt Luật lệ, điều này cho thấy nhà lập pháp triều

Nguyễn có quan điểm tự do giao kết khế ước của cá nhân và pháp luật chỉ có
tác động điều chỉnh đến những khế ước mà nếu giao kết có thể xâm phạm
thuần phong mỹ tục hoặc trật tự xã hội phong kiến.
Tuy vậy, chế định hợp đồng của nước ta được thể hiện trong hai Bộ
luật lớn đó vẫn chưa hoàn thiện và rõ ràng. Nguyên nhân của tình trạng này là
do trong xã hội phong kiến các hiện tượng pháp lý chịu sự ảnh hưởng sâu sắc
của Nho giáo, vấn đề đạo đức trong các quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội
được đề cao và nếu có tranh chấp xảy ra thì đã có sự can thiệp của người gia
trưởng, của tộc trưởng, của vua quan mà không cần đến pháp luật giải quyết,
pháp luật sinh ra chủ yếu điều chỉnh những vấn đề hình sự. Sau đó, trong thời
kỳ đất nước chịu sự đô hộ của thực dân Pháp, hai Bộ luật Dân sự là Bộ Dân
luật Bắc Kỳ được ban hành năm 1931 và Bộ Dân luật Trung kỳ được ban hành
năm 1938 đều có những điều khoản quy định về hợp đồng và phần lớn những
quy định này đều mang dấu ấn của Bộ luật Dân sự Pháp. Lý giải cho điều này có
thể được hiểu là nhà làm luật của chế độ thuộc Pháp đã không thể đối chiếu với
các bộ luật cổ của để đưa ra những điểm riêng có của Việt Nam về nghĩa vụ và
hợp đồng. Nhưng lý do chính là nước ta lúc đó đang là thuộc địa của Pháp, vì
vậy, nhất thể đều phải tuân theo pháp luật của "mẫu quốc" [2, tr. 11].
Khế ước theo Bộ luật Dân sự Pháp là một trong những căn cứ làm
phát sinh nghĩa vụ, vì lẽ đó, những vấn đề chung về khế ước được Dân luật
Bắc kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật quy định ngay tại chương I của thiên I
trong Quyển thứ tư. Khác với Quốc triều Hình luật và Bộ luật Gia Long, đến
thời kỷ này, bộ Dân luật Bắc kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật đã đưa ra
khái niệm pháp lý về khế ước, chủ yếu dựa trên Bộ luật Dân sự Pháp. Theo
đó, "khế ước là một hiệp ước của một hay nhiều người cam đoan với một hay
nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì. Hiệp ước do


8
một người hay nhiều người đồng ý với nhau để lập ra hay chuyển di, đổi lại

hay tiêu đi một quyền lợi thuộc về của cải hay về người" (Điều 664 Dân luật
Bắc kỳ và Điều 680 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật).
Từ khái niệm này, có thể thấy khế ước thực chất là sự thỏa thuận giữa
ít nhất hai người để xác lập quyền, nghĩa vụ của người này đối với người khác
và ngược lại. Khái niệm khế ước này về cơ bản giống khái niệm hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự hiện nay, trừ đối tượng của nghĩa vụ là người theo quan
niệm của pháp luật phong kiến thuộc địa.
Sau năm 1954, đất nước bị chia thành hai miền. Ở miền Nam, chính
quyền Sài Gòn đã cho ra đời Bộ Dân luật quy định về các vấn đề dân sự cơ
bản trong đó có khế ước-hợp đồng. Tiếp nối quan điểm từ những bộ dân luật
trước đó, khế ước trong Bộ Dân luật của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng
coi khế ước là hành vi pháp lý phát sinh nghĩa vụ dân sự: "Khế ước hay hiệp
ước là một hành vi pháp lý do sự thỏa thuận giữa hai người để tạo lập, di
chuyển, biến cải hay tiêu trừ một quyền lợi, đối nhân hoặc đối vật".
Ở miền Bắc, pháp luật hợp đồng thời kỳ đầu không đưa ra định nghĩa
hợp đồng nói chung, mà đưa ra định nghĩa các loại hợp đồng khác nhau gồm:
Hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế/hợp đồng thương mại.
Theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989): Hợp đồng
kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về
việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh
doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng
và thực hiện kế hoạch (Điều 1).
Cho đến năm 1991, văn bản đầu tiên quy định về hợp đồng dân sự là Pháp
lệnh hợp đồng dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự một cách khá chi tiết:
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong


9

mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc
không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó
một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng [30].
Tuy nhiên, chính việc liệt kê chi tiết này dẫn đến sự thiếu sót và dễ
"lạc hậu" của pháp luật trong khi các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển.
Do đó, để định nghĩa khái quát và toàn diện hơn, Bộ luật Dân sự (1995) quy
định: Hợp đồng dân sự là thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 934).
Luật Thương mại (1997) không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương
mại nhưng lại quy định về các loại hợp đồng được giao kết để thực hiện các
hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại. Vì vậy, các loại
hợp đồng này có thể gọi là hợp đồng trong hoạt động thương mại. Về bản
chất, theo Luật Thương mại, hợp đồng thương mại là thỏa thuận giữa các
thương nhân, hoặc một bên là thương nhân với một bên không phải là thương
nhân, về việc thực hiện hành vi thương mại nhằm mục đích kiếm lời.
Pháp luật hợp đồng của Việt Nam trước đây không đưa ra một khái
niệm chung về hợp đồng trong các văn bản pháp luật, mà có sự phân biệt giữa
hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại. Ba loại hợp đồng
này có đặc điểm khác biệt và được điều chỉnh bởi ba văn bản pháp luật: Bộ
luật Dân sự (1995), Luật Thương mại (1997), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
(1989). Đây là nguyên nhân tạo ra những bất cập, hạn chế trong lĩnh vực pháp
luật hợp đồng của Việt Nam trước đây [10, tr. 23-28], [11, tr. 31], [12, tr. 56-57],
[13, tr. 14-16], [14, tr. 4-7], [15, tr. 1-6]. Để khắc phục hạn chế này, pháp luật
hợp đồng của Việt Nam đã được sửa đổi theo hướng không có sự phân biệt
một cách độc lập giữa hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương
mại. Sự khắc phục này được thể hiện thông qua việc ban hành Bộ luật Dân sự
(2005), Luật Thương mại (2005) (cả hai luật này đều có hiệu lực từ ngày
01/01/2006), theo hướng: Bộ luật Dân sự quy định chung về hợp đồng áp
dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng. Các loại hợp đồng khác (còn được



10
gọi là hợp đồng chuyên biệt) được xem xét là các dạng đặc thù của hợp đồng
do các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định. Pháp lệnh Hợp đồng kinh
(1989) bị bãi bỏ, kể từ ngày Bộ luật Dân sự (2005) có hiệu lực.
Bộ luật Dân sự (2005) quy định: Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
(Điều 388). Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch mà trong đó phải có sự
trùng hợp ý chí của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng,
tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Hợp đồng dân sự được xem là giao kết khi các bên đã thỏa thuận xong nội
dung chủ yếu của hợp đồng. Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều
khoản không thể thiếu được đối với loại hợp đồng đó hoặc do pháp luật quy
định hoặc theo thỏa thuận của các bên, bao gồm đối tượng của hợp đồng, số
lượng, chất lượng, giá, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm, phương
thức thực hiện hợp đồng, quyền, nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng. Hợp đồng cũng xem như được giao kết khi thời hạn trả lời
mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp thuận. Đối với hợp đồng phải có chứng nhận của công chứng nhà nước,
chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời
điểm được chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép. Hợp đồng dân sự
có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Nếu
pháp luật quy định một hình thức nhất định bắt buộc đối với từng loại hợp đồng
cụ thể thì phải tuân thủ hình thức đó. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao
kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng dân sự theo pháp luật Việt Nam
Như trên đã nói, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên, có thể là hai
bên hoặc nhiều hơn hai bên. Để một hợp đồng dân sự phát sinh quyền, nghĩa



11
vụ cho các bên thì giữa các bên, chủ thể của hợp đồng phải tồn tại các hành vi
pháp lý - giao kết hợp đồng. Thông thường sự thỏa thuận đó được thể hiện
bằng hành vi pháp lý của hai bên hoặc nhiều bên. Có thể hiểu thỏa thuận là
khởi nguồn cho hợp đồng và là vấn đề quan trọng nhất của hợp đồng mà
không thể thiếu. Một đề nghị về một đối tượng nhất định, mà chỉ có thể được
đáp ứng bởi một người khác, sẽ không làm phát sinh ra nghĩa vụ hay không
thể được thỏa mãn, nếu không được đáp ứng chấp thuận. Hành vi pháp lý đó
được hiểu và thể hiện thành hành động hoặc không hành động của mỗi bên
thông qua việc một bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng còn bên kia đồng ý
với đề nghị đó, được gọi là chấp thuận/chấp nhận giao kết hợp đồng. Tuy
nhiên, hầu hết trong các quy định pháp luật của Việt Nam đều không đưa ra
khái niệm "giao kết", có lẽ các nhà làm luật cho rằng khái niệm này nằm
trong khái niệm hợp đồng và được ngầm hiểu là hợp đồng. Ngay trong Quốc
triều Hình luật, có một số quy định có liên quan đến khế ước cho thấy có tồn
tại yếu tố "thuận mua, vừa bán" [1, tr. 82], điều này có nghĩa là có sự đồng
thuận giao kết giữa các bên. Hoàng Việt Luật lệ cũng như giống như Quốc
triều hình luật không đưa ra khái niệm giao kết mà chỉ cụ thể vào các hành vi
cụ thể của mua bán, vay nợ, thuê Không có những quy định chung về
nguyên tắc giao kết và thực hiện khế ước.
Cho đến các Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931 và Trung kỳ 1938, do chịu đô
hộ của thực dân Pháp mà mang ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Pháp rất nhiều
và đều đã có những điều khoản quy định về hợp đồng. Theo đó, "khế ước là
hiệp ước của một hay nhiều người khác để chuyển giao, để lập ra hay chuyển
đi, đổi đi hay tiêu đi một quyền lợi thuộc về của cải hay về người" (Điều 664
Dân luật Bắc kỳ và Điều 680 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Khái niệm này về
cơ bản khá giống với khái niệm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự hiện nay, trừ
đối tượng là "người" theo quan niệm phong kiến thuộc địa [1, tr. 83].

Xét cho cùng, sự thỏa thuận bao gồm hai thành tố [6, tr. 179] mà
không phụ thuộc cả vào một bên trong quan hệ hợp đồng, có nghĩa là mỗi bên


12
chỉ có thể đóng góp vào sự thỏa thuận một thành tố nhất định trong hai thành
tố đó. Hai thành tố nói tới ở đây là "đề nghị giao kết hợp đồng" và "chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng". Chúng ta có thể gọi là "đề nghị" và "chấp nhận"
như là thuật ngữ chuyên môn. Các luật gia trước kia sử dụng thuật ngữ "đề
ước" và "ưng thuận" (trong cuốn "Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II:
Nghĩa vụ và khế ước", Vũ Văn Mẫu sử dụng thuật ngữ "đề ước" và "sự ưng
thuận". Các thuật ngữ này tương ứng với "offer" và "acceptance" trong tiếng
Anh, và "l’offer" và "l’acceptation" trong tiếng Pháp. Xét cho cùng các thuật
ngữ này do Vũ Văn Mẫu xây dựng thoả đáng hơn và có thể sử dụng trong
phạm vi rộng rãi hơn). Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 sử dụng thuật ngữ "thỉnh -
cầu lập - ước" và "giả lời nhận". Như vậy, cho thấy bản thân sự thỏa thuận đã
bao gồm hai thành tố là đề nghị và chấp nhận, nhưng không phải sự thỏa
thuận nào cũng là hợp đồng.
Khái niệm về đề nghị và chấp nhận vốn thường được dùng để xác định
xem hợp đồng đã được giao kết hay chưa, và nếu có thì khi nào [29, tr. 78]. Nếu
không có sự thỏa thuận thống nhất giữa đề nghị và chấp nhận, tòa án xem như
không có hợp đồng nào tồn tại giữa các bên. Sự thỏa thuận hình thành khi lời đề
nghị giao kết hợp đồng của người này được người được đề nghị chấp nhận. Vậy
xem xét đề nghị và chấp nhận là những yếu tố thiết yếu để nhận biết giao kết.
Từ những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy những điểm khởi đầu
giao kết hợp đồng là đề nghị, chấp nhận, các điều kiện của chúng. Đối với các
hợp đồng, thỏa thuận cần được xem xét kỹ lưỡng để xác định được các bên
tranh chấp có quan hệ đến hợp đồng hay không, cụ thể có phải là một bên đề
nghị và một bên chấp nhận. Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng là sự thể
hiện ý chí độc lập, cho nên nội dung của chúng được xác định bằng cách thay

đổi cho phù hợp với sự thể hiện mong muốn của các bên.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định riêng đối với từng thành tố thỏa
thuận và được hiểu như là một khái niệm cơ bản, cụ thể:


13
- Đề nghị giao kết hợp đồng, là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp
đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã
được xác định cụ thể (Điều 390). Định nghĩa về đề nghị của Bộ luật Dân sự
2005 không đề cập tới sự chấp nhận của bên được đề nghị, về vấn đề này, có
ý kiến bình luận về định nghĩa này rằng, nếu định nghĩa như vậy thì một vấn
đề rắc rối mang tính pháp lý cũng như thực tiễn có thể đặt ra - đó là dựa trên
tiêu chí hay cơ sở nào để có thể xác định ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
Bộ luật Dân sự 2005 cho rằng, một đề nghị phải được đưa tới người
được xác định cụ thể (Điều 390, khoản 1). Ở đây có thể hiểu một đề xuất chỉ
có thể trở thành đề nghị khi đề xuất đó được đưa tới một hoặc một nhóm
người xác định cụ thể. Có tác giả Việt Nam cũng có cách hiểu như vậy đối
với Điều luật này, tuy nhiên tỏ ra đồng tình với nó [7, tr. 34]. Khi phân tích đề
nghị, có ý kiến khác hơn. Vũ Văn Mẫu khẳng định "đề ước có thể làm riêng
cho một người hay là làm chung cho công chúng" [18, tr. 93].
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, là sự trả lời của bên được đề
nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị
(Điều 396, Bộ luật Dân sự 2005). Định nghĩa này được đưa ra có tính cách
ứng dụng cho các trường hợp cụ thể theo pháp luật Việt Nam, nên đã bao hàm
trong nó cả điều kiện của chấp nhận.
Có thể thấy định nghĩa về chấp nhận tại các Điều 396, Bộ luật Dân sự
2005 không nhắc tới các cách thức hay hình thức của chấp nhận, và dường
như chỉ cho rằng chấp nhận là "sự trả lời" mà trong khi đó cụm từ "sự trả lời"
không rõ nghĩa, đôi khi làm người ta tưởng lầm rằng sự chấp nhận phải bằng

văn bản hoặc lời nói.
Có tác giả Việt Nam đã đưa ra định nghĩa chấp nhận giống như định
nghĩa chấp nhận tại Điều 396, có nghĩa là coi "Chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng là sự thể hiện ý chí, theo đó bên nhận đề nghị đồng ý với tất cả điều


14
kiện được nêu trong đề nghị", trong khi đó cũng lại đưa ra đòi hỏi phải cải
cách các quy định về chấp nhận trong Bộ luật Dân sự 2005 theo hướng Điều 19,
khoản 2, Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế 1980[16, tr. 239]. Điều 19 của Công ước Viên có nội dung:
(1) Sự đáp lại một đề nghị mà có ngụ ý là một chấp nhận
nhưng chứa đựng những điều kiện, những giới hạn hoặc những sửa
đổi khác là một sự từ chối đề nghị và tạo thành một phản đề nghị.
(2) Tuy nhiên, sự trả lời một đề nghị có ngụ ý là một chấp
nhận nhưng chứa đựng những điều kiện bổ sung hoặc khác biệt mà
không làm thay đổi một cách thiết yếu các điều kiện của đề nghị tạo
thành một chấp nhận, trừ khi người đề nghị, không chậm trễ một
cách phi lý, phản đối bằng lời nói đối với sự không đồng nhất hoặc
gửi một thông báo về hậu quả đó. Nếu người đề nghị không phản
đối như vậy, thì các điều kiện của hợp đồng là các điều kiện của đề
nghị với những sửa đổi được chứa đựng trong chấp nhận.
(3) Những điều kiện bổ sung hoặc khác biệt liên quan, giữa
những vấn đề khác, về giá, thanh toán, chất lượng và số lượng hàng
hóa, địa điểm và thời gian giao nhận, phạm vi trách nhiệm của một
bên đối với bên khác hoặc giải quyết tranh chấp đều được xem là
thay đổi một cách thiết yếu các điều kiện của đề nghị [4].
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
1.2.1. Khái quát chung về các nguyên tắc

Các nguyên tắc của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 về giao kết
hợp đồng dân sự căn cứ vào bản chất có thể được phân thành hai nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, các nguyên tắc chung, cơ bản cho toàn bộ các vấn đề
của luật dân sự, bao gồm cả giao kết hợp đồng như được quy định từ Điều 4


15
đến Điều 13 của Bộ luật Dân sự là: (1) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận, (2) Nguyên tắc bình đẳng, (3) Nguyên tắc thiện chí, trung thực,
(4) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự, (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức,
truyền thống tốt đẹp, (6) Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, (7) Nguyên
tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác, (8) Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, (9) Nguyên tắc hòa giải.
Nhóm thứ hai, các nguyên tắc cụ thể được quy định cho giao kết hợp
đồng (Điều 384 Bộ luật Dân sự) (1) Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không
được trái pháp luật và đạo đức xã hội, (2) Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí,
hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
1.2.2. Nguyên tắc cụ thể được quy định cho giao kết hợp đồng
1.2.2.1. Nguyên tắc tự do hợp đồng nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội
Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng
nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như
tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện
tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng dân
sự nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng sẽ chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp
luật công nhận và bảo vệ khi các bên giao kết hợp đồng tuân thủ nguyên tắc này.
Hay nói cách khác, khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải thực hiện theo khuôn
khổ, giới hạn nhất định - giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của
xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ
trở thành phương tiện để kẻ giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ tiêu cực

đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải tăng cường can thiệp của nhà nước
vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự … không được bỏ qua một khả
năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân
luật [17, tr. 577]. Chính vì vậy, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích chung của
toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá


16
nhân, tổ chức nào được lợi dụng tự do giao kết/thỏa thuận để biến những hợp
đồng dân sự thành phương tiện bóc lột, bất công. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích
của mình, các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi ích của người khác, của toàn xã
hội; tự do của mỗi chủ thể không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Lợi ích của
cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở
thành giới hạn cho sự tự do thể hiện mong muốn của các chủ thể khi tham gia
giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
Nguyên tắc này được hiểu là các bên được tự do giao kết hợp đồng
dân sự nhưng không được trái với đạo đức xã hội, nội dung của nguyên tắc
bao gồm các quyền tự do như: tự do quyết định có tham gia hay không tham
gia giao kết hợp đồng, tự do lựa chọn loại hợp đồng sẽ giao kết (dù cho pháp
luật có quy định loại hợp đồng này hay không), tự do lựa chọn đối tác giao
kết của mình nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật (có một số hợp đồng
bị hạn chế đối tác giao kết), tự do ấn định và thỏa thuận nội dung cũng như
các điều kiện của hợp đồng với điều kiện là hợp đồng không tồn tại một phần
hay toàn bộ nội dung thỏa thuận trái quy định của pháp luật và đạo đức xã
hội, tự do lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng (bằng miệng, bằng văn bản
hay hành vi, tuy nhiên có một số loại hợp đồng bắt buộc phải được lập thành
văn bản theo quy định của pháp luật).
Nguyên tắc này thể hiện một bước tiến bộ quan trọng trong việc bảo
đảm quyền tự do, thỏa thuận hợp đồng của các bên. Từ chỗ Bộ luật Dân sự
(1995) (Điều 7, Điều 10, Điều 395) chỉ ghi nhận quyền tự do hợp đồng phù

hợp với quy định của pháp luật, Bộ luật Dân sự (2005) đã khẳng định cụ thể
các bên được quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều
cấm của pháp luật. Đây là những quy định, nguyên tắc thể hiện cao nhất việc
bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự.
Theo quy định này, các chủ thể có quyền tự quyết định việc đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng, nội dung đề nghị giao kết hợp đồng, thay đổi, rút lại
đề nghị giao kết hợp đồng, hủy bỏ giao kết hợp đồng theo quy định của pháp


17
luật. Nội dung này được Bộ luật Dân sự quy định tại các Điều 390, 392, 393.
Các bên cũng có quyền sửa đổi, chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng được đưa ra bởi bên kia (Điều 395, 396 Bộ luật Dân sự).
Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm trật tự công cộng và lợi ích chung
của xã hội, pháp luật quy định nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng mà nội
dung không trái với các quy định của pháp luật. Điều này có ý nghĩa ngăn
ngừa việc giao kết hợp đồng mà đối tượng là các hàng hóa, dịch vụ bị pháp
luật cấm. Theo quy định của Điều 128 Bộ luật Dân sự, hợp đồng nhằm thực
hiện các đối tượng bị cấm sẽ bị vô hiệu (Điều 127, 128 Bộ luật Dân sự).
Trong trường hợp này, mọi người đều có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu. Tuy nhiên, trong hoạt động thương mại, trừ trường hợp ngoại lệ
theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 59/2006/NĐ-CP quy định:
việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh trong trường hợp cụ thể phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Nội dung hợp đồng không trái với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục
theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự được hiểu là: những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng. Với cách giải thích như Điều 128 Bộ luật Dân sự, nội
dung "đạo đức xã hội" được giải thích rất chung.
Theo pháp luật của Đức, các điều khoản có nội dung sau bị coi là trái

đạo đức xã hội: Điều khoản lạm dụng (một bên tham gia hợp đồng có vị trí ưu
thế về kinh tế đã lạm dụng vị trí của mình để áp đặt các điều khoản bất lợi cho
bên kia); Điều khoản vi phạm những quyền cơ bản đã được quy định trong
Hiến pháp (quyền tự do đi lại, tự do kinh doanh, tự do chính kiến…); Điều
khoản phạt hợp đồng với mức cao hơn quy định của pháp luật; Điều khoản
hủy hợp đồng một cách vô lý (không có lý do chính đáng); Điều khoản miễn,
giảm, giới hạn trách nhiệm hợp đồng của bên thế mạnh…; Điều khoản quy
định thời hạn quá dài; Điều khoản cho phép tăng giá trong một thời hạn ngắn
sau khi ký kết hợp đồng… [31, tr. 64-65].


18
Để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tránh việc Thẩm
phán có thể lạm dụng quyền giải thích pháp luật trong quá trình đánh giá các
điều khoản hợp đồng có nội dung trái với đạo đức xã hội khi xét xử, thiết nghĩ
cần phải ban hành văn bản hướng dẫn nội dung "trái với thuần phong mỹ tục
và đạo đức xã hội" quy định tại Khoản 1 Điều 389 và Điều 128 Bộ luật Dân
sự (2005).
Ngoài yêu cầu không trái pháp luật và đạo đức xã hội, quyền tự do lựa
chọn đối tác ký kết hợp đồng trong hoạt động dân sự-thương mại còn bị hạn
chế bởi điều kiện về chủ thể đối với một số hoạt động thương mại, như: chủ
thể hoạt động kinh doanh dịch vụ logistic, kinh doanh dịch vụ giám định, bảo
hiểm, ngân hàng…
Hiệu lực pháp lý của hợp đồng này căn cứ vào nguyên tắc tự do giao
kết và tôn trọng nguyên tắc lợi ích chung, trật tự công cộng. Vì lý do này,
hiệu lực của hợp đồng đôi khi cũng bị hạn chế, nhưng đây là hạn chế cần thiết
của pháp luật cũng như xã hội.
1.2.2.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp

đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình;
đồng thời thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi
hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với
nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã
hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ
dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của các bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ
được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Chính vì
vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình
đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực
tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện


19
của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn toàn
không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan
khác nhau.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ
quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự
thống nhất ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong
nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để
xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói
cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của
hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện
vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được
giao kết do bị nhầm lẫn, lừa dối [9] hay bị đe dọa đều không đáp ứng được
nguyên tắc tự nguyện khi giao kết và do đó bị vô hiệu.
Với các thuật ngữ mang tính định tính như vậy rất khó xác định nếu
không được đưa vào hoàn cảnh cụ thể của từng hợp đồng dân sự. Theo
Deluxe Black's Law Ditionary thì thiện chí (good faith) là một tính từ trừu

tượng và mơ hồ không có nghĩa chặt chẽ về luật pháp hoặc không có định
nghĩa bởi luật, và nó bao hàm trong mối liên hệ với các vấn đề khác, một sự
tin tưởng thành thật, không có sự ác ý, không có dự định lừa dối hoặc tìm
kiếm lợi ích không hợp lý.
Thiện chí, trung thực và ngay thẳng được xem là một nghĩa vụ bắt
buộc dù các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự có hoặc không có quy định
hoặc cùng nhau loại trừ hay hạn chế nó. Bộ luật Dân sự năm 2005 không dưới
hai lần nhắc tới thiện chí, trung thực với các cách thức khác nhau (Điều 6 và
Điều 389), ghi nhận như vậy có nghĩa là trong quan hệ hợp đồng dân sự vấn
đề này được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, các quy định này chưa đủ tầm để làm
cơ sở giải quyết tranh chấp giữa các bên, và các quy định này mới thiên về


20
cách thức thực hiện hành vi có lừa dối hay không mà chưa nhấn mạnh về
động cơ, mục đích của hành vi. Theo đó, Điều 283 có quy định "Bên có nghĩa
vụ dân sự phải thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng
cam kết ".
Việc quy định nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
tại Điều 389 được tách riêng thành từng thuật ngữ "trung thực" và "ngay
thẳng" cho phép được suy luận là "trung thực" chưa bao hàm "ngay thẳng" và
ngược lại. Tuy nhiên, đây là vấn đề mà các thẩm phán cần phải xem xét,
nghiên cứu để nhận thức và sử dụng nguyên tắc này để ra phán quyết.


21
Chương 2
TRÌNH TỰ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005


Như đã phân tích ở Chương 1, giao kết hợp đồng dân sự có 2 thành tố
đó là: đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự. Theo Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005 thì giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại các Điều
390 đến Điều 404. Trên cơ sở trình tự giao kết hợp đồng các nhà làm luật đã
quy định lần lượt đối với từng vấn đề như: đề nghị giao kết hợp đồng, các vấn
đề liên quan đến đề nghị (thời điểm giao kết; thay đổi, rút lại đề nghị; hủy bỏ
đề nghị; chấm dứt đề nghị…); chấp nhận giao kết hợp đồng, các vấn đề liên
quan; thời điểm hợp đồng được giao kết.
2.1. ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
Khi nghiên cứu về đề nghị, có tác giả gợi ý tới ba vấn đề pháp lý cơ
bản sau: (1) Thế nào là đề nghị; (2) Giá trị pháp lý của đề nghị; và (3) Thời
điểm đề nghị có hiệu lực [7, tr. 33]. Có thể hiểu trong khi tìm hiểu thế nào là
đề nghị thì ngoài việc xây dựng định nghĩa khái niệm đề nghị, còn phải bàn
tới hình thức của đề nghị và điều kiện cụ thể của nó. Giá trị pháp lý của đề
nghị và thời điểm có hiệu lực của đề nghị có thể gộp vào thành một vấn đề là
hiệu lực của đề nghị, bởi có thể hiểu nếu đề nghị có hiệu lực pháp lý thì kể từ
thời điểm nào phát sinh ra sự ràng buộc. Vậy dưới đây sẽ trình bày lần lượt
các vấn đề này.
2.1.1. Hình thức, nội dung của đề nghị
Hình thức của đề nghị được thể hiện dưới nhiều hình thức nhưng pháp
luật không quy định rõ ràng các hình thức thể hiện của đề nghị giao kết mà
mới chỉ quy định hình thức của hợp đồng là bằng miệng, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi (khoản 1, Điều 401). Việc biểu lộ ý định giao kết hợp đồng phải

×